Luận văn
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1
LỜI MỞ ĐẦU
Mỗi một con người Việt Nam đều có một lòng tự hào về dân tộc rất
mạnh mẽ. Điều đó được xuất phát từ tinh thần đoàn kết dân tộc, yêu nước,
sẵn sàng hi sinh để bảo vệ Tổ Quốc. Từ thời các vua Hùng dựng nước cho
tới nay, đất nước Việt Nam đã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh bảo vệ đất
nước. Từ cuộc chiến chống quân Nguyên Mông tới cuộc kháng chiến trường
kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Ngày nay, kết quả của sự hi sinh ấy
là một đất nước hoà bình và phát triển. Tuy nhiên, chúng ta đã chịu một cái
giá không phải là nhỏ: ngoài những thiệt hại không thể tính được về người,
chúng ta còn phải gánh chịu sự tổn thất to lớn về kinh tế. Đó là: về nông
nghiệp 1/7 ruộng đất bị bỏ hoang, 1/3 ruộng đất không có nước tưới để cày
cấy, về công nghiệp sản lượng năm 1954 so với năm 1939 từ 10% xuống
1,5% Trong thời gian sau chiến tranh, chúng ta xây dựng một nền kinh té
tập trung theo kiểu mẫu Liên Xô và đã thu được một số thành công khắc
phục được những khó khăn trước mắt. Những tưởng đó là con đường đúng
đăn, phù hợp với nước ta nhưng một lần nữa nền kinh tế lại rơi vào khủng
hoảng. Năm 1986 là một mốc quan trọng của nền kinh tế Việt Nam. Tại cuộc
họp lần thứ VI của Đảng, quốc hội quyết định chuyển hướng nền kinh tế từ
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vậy tại sao chúng ta phải chuyển đổi nền kinh tế? Tại sao lại phải
chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa? Nền kinh tế này như thế nào? Từ khi chuyển đổi
nền kinh tế chúng ta đã thu được những thành tựu gì? Trong tương lai chúng
ta sẽ phải giải quyết những vấn đề nào? Trong khuôn khổ của đề án này tôi
xin cố gắng làm rõ những vấn đề trên và cùng xác định những công việc mà
tuổi trẻ cần làm để đưa đất nước phát triển sánh vai cùng các cường quốc
trên thế giới.
2
I.NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Nền kinh tế thị trường là gì?
- Nền kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế mà trong đó hầu hết
các quan hệ kinh tế được thực hiện dưới hình thái hàng hoá và dịch vụ, với
nhiều thành phần tham gia, vận động theo cơ chế thị trường.
- Như vậy, nền kinh tế thị trường là một mô hình kinh tế mà các thành
phần của thị trường có mối quan hệ thông qua hàng hoá, dịch vụ và thông
qua các hoạt động trao đổi. Tất cả các quan hệ đó được điều tiết bằng một cơ
chế tự điều tiết của thị trường do sự tác động của các quy luật vốn có của nó.
Nói một cách cụ thể hơn về cơ chế tự điều tiết của thị trường đó là một hệ
thống hữu cơ của sự thích ưngs với nhau, tự điều tiết lẫn nhau của các yếu tố
giá cả, cung-cầu, cạnh tranh trực tiếp phát huy trên thị trường để điều tiết.
Thực khó có thể đánh giá đầy đủ những ưu điểm & khuyết tật của cơ
chế thị trường. Tuy nhiên, cơ chế thị trường có những ưu điểm nổi bật sau:
- Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế & tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát
triển năng động, huy động được các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh
tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã
hội.
-Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa
khối lượng & cơ cấu nhu cầu của xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu
tiêu dùng cho cá nhân & cho sản xuất.
- Cơ chế thị trường mềm dẻo & có khả năng thích nghi cao hơn khi
những điều kiện kinh tế thay đổi.
Chính vì vậy, cơ chế thị trường giải quyết được những vấn đề cơ bản
của tổ chức kinh tế. Song cơ chế thị trường không phải là hiện thân của sự
hoàn hảo. Nó còn có cả những những khuyết tật, đặc biệt về mặt xã hội. Có
thể chỉ ra một số khuyết tật dưới đây của cơ chế thị trường:
- Hiệu lực của cơ chế thị trường phụ thuộc vào mức độ hoàn hảo của
cạnh tranh. Một nền kinh tế được thúc đẩy bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ dẫn tới
phân bố & sử dụng có hiệu quả nhất đầu vào & đầu ra của sản xuất. Cạnh
tranh không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường càng giảm.
-Trong cơ chế thị trường, mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là
lợi nhuận tối đa. Vì vậy, họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô
nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh chịu.
3
- Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự phân hoá giàu nghèo,
tác động xấu đến đạo đức & tình người.
- Một nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết khó tránh khỏi những
thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ.
2. Tính quy luật của sự hình thành nền kinh tế thị trường:
- Phát triển là một sự thay đổi về chất, như vậy trước đó chúng ta phải
có sự tích luỹ về lượng. Hay nói cách khác, chúng ta phải hội đủ các điều
kiện thì mới có sự thay đổi đó được. Như vậy, muốn hình thành nền kinh tế
thị trường , chúng ta cũng phải hội đủ các quy luật hình thành của nó. Đó là:
+ Sự phân công lao động xã hội: trước đây trong nền kinh tế tự cung
tự cấp, mỗi một thành viên của nền kinh tế đều tự sản xuất ra các mặt hàng
theo nhu cầu và khả năng của mình. Tức là, một người nông dân muốn có
gạo ăn, áo mặc thì anh ta phải tự sản xuất ra các thứ đó, không ai cung cấp
cho anh ta. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, các thành viên của nền
kinh tế quan hệ với nhau thông qua hàng hoá. Tức là sản phẩm của người
này cần thiết cho người kia và có thể trao đổi được. Như vậy tức là phải có
người sản xuất sản phẩm này và có người sản xuất dản phẩm kia. Đó chính
là sự phân công lao động xã hội. Nếu nền kinh tế không có sự phân công lao
động rõ ràng thì sẽ không có hàng hoá và không hình thành nền kinh tế thị
trường.
+ Quy luật hình thành thứ hai của nền kinh tế thị trường là sự tồn tại
độc lập và không phụ thuộc vào nhau giữa những doanh nghiệp , những
người sản xuất hàng hoá. Có nghĩa là trong nền linh tế thị trưòng, việc sản
xuất cái gì, như thế nào, cho ai là việc riêng của mỗi người, mỗi doanh
nghiệp. Họ là những người sản xuất độc lập. Những doanh nghiệp sản xuất
hàng hoá có thể là thuộc quyền sở hữu tư nhân, hay thuộc quyền sở hữu tập
thể hoặc thuộc quyền sở hữu của nhà nước nhưng chúng vẫn là những
doanh nghiệp sản xuất hàng hoá độc lập. Đối với xã hội thì lao động của mỗi
doanh nghiệp (dù là thuộc hình thức sở hữu nào) vẫn là lao động tư nhân, và
chỉ khi nào bán được hàng hoá thì lao động tư nhân đó mới được xã hội thừa
nhận và trở thành một bộ phận thực sự của lao động xã hội. Với phân công
lao động xã hội, lao động sản xuất hàng hoá mang tính chất lao động xã hội,
một bộ phận của toàn bộ lao động xẫ hội. Sự phân công lao động xã hội tạo
nên sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất, họ làm việc với nhau
thông qua trao đổi hàng hóa. Còn với tư cách là doanh nghiệp thì lao động
sản xuất hàng hoá của họ lại mạng tính chất tư nhân. Sự mâu thuẫn giữa lao
4
động tư nhân và lao động xã hội được giải quyết khi sản phẩm được trao đổi
dưới hình thức hàng hoá. Kinh tế hàng hoá tồn tại trong nhiều chế độ xã hội
khác nhau, dựa trên nhiều hình thức sở hữu khác nhau, chứ không chỉ dựa
trên chê độ sở hữu tư nhân, miễn là những người, doanh nghiệp sản xuất
hàng hoá là độc lập và không phụ thuộc vào nhau.
+ Thứ ba đó là sự tồn tại của quan hệ hàng hoá tiền tệ. Nếu như chúng
ta có được hai điều trên nhưng quan hệ tiền tệ không được thừa nhận thì sẽ
không xuất hiện nền kinh tế thị trường. Ta có thể thấy rõ trong nền kinh tế
hàng hoá tập trung ở nước ta, chúng ta có được sự phân công lao động xã
hội, chúng ta có sự tồn tại độc lập của các nhà sản xuất hàng hoá, nhưng lúc
này quan hệ hàng hoá tiền tệ không được chấp nhận. Sản phẩm lúc này được
đem ra phân phối, kết quả là không xuất hiện thị trường. Một nền kinh tế thị
trường mà không xuất hiện thị trường thì sẽ như thế nào?
3. Các nhân tố của thị trường:
a) Hàng hoá:
- Hàng hoá là sản phẩm của lao động, nó có thể thoả mãn một nhu cầu
nhất định nào đó của con người, đồng thời nó được sản xuất ra nhắm đem
bán (hay trao đổ trên thị trường). Hàng hoá là một phạm trù lịch sử, sản
phẩm của lao động trở thành hàng hoá khi nó trở thành đối tượng mua-bán
trên thị trường.
- Trong xã hội hiện đại, hàng hoá có thể là vật thể (hữu hình), hay là
phi vật thể( hay hàng hoá dịch vụ). Đối với bất kỳ một hàng hoá nào, chúng
đều có hại thuộc tính sau:
+ Giá trị sử dụng:
- Giá trị sử dụng là công dụng của vật phẩm( tính hữu ích) coá thể thoả
mãn nhu cầu nhất định nào đó của con người. Mỗi hàng hoá đều có một hay
một số công dụng nhất định để thoả mãn nhu cầu của con người. Giá trị sủ
dụng được phát hiện dần dần nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và lực
lượng sản xuất. VD: Than đá, lúc đầu loài người chỉ biết với công dụng làm
chất đốt, nhưng sau này nó được dùng vào ngành công nghiệp hoá chất Xã
hội ngày càng tiến bộ, khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì số lượng
giá trị sử dụng ngày càng phong phú, đa dạng chất lượng cao.
- Giá trị sử dụng của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của vật quy định
và là nội dung vật chất của của cải. Do đó, giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh
viễn.
5
- Giá trị sử dụng là thuộc tính của hàng hoá, nhưng nó khong phải là
giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuât, mà là cho người khác, tức là cho
xã hội. Trong nền sản xuất hàng hoá, giá trị sủ dụng đồng thời là vật mang
giá trị trao đổi.
+ Giá trị:
- Giá trị trước hết biểu hiện ra bên ngoài là quan hệ tỷ lệ về số lượng
giữa các giá trị sủ dụng khác nhau hay còn gọi là giá trị trao đổi. VD: 1 m
vải=5kg thóc. Sở dĩ, vải và thóc là hai hàng hoá khác nhau, mà vẫn có thể
trao đổi cho nhau là vì giữa chúng có một cơ sở chung. Đó là hao phí lao
động xã hội để tạo ra 2 sản phẩm đó.
- Vậy hao phí lao động để sản xuất ra hàng hoá kết tinh trong hàng hoá
là cơ sở để trao đổi hàng hoá, tạo ra giá trị của hàng hoá. Hao phí lao động
xã hội để tạo ra sản phẩm được lượng hoá bằng thời gian lao động xã hội cần
thiết để sản xuất ra hàng hoá đó. Tức là, thời gian cần thiết để sản xuất một
hàng hoá trong điều kiện sản xuất bình thường, trình độ kỹ thuật bình
thường.
- Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện của giá trị: giá trị là cơ sở, nội
dung của giá trị trao đổi. Giá trị là phạm trù lịch sử, là phạm trù riêng có của
sản xuất hàng hoá.
+ Mối quan hệ giữa hại thuộc tính:
- Giá trị và giá trị sử dụng là 2 thuộc tính cùng tồn tại và thống nhất
với nhảutong cùng một hàng hoá. Người sản xuất làm ra để bán, mục đích
của họ là giá trị. Nhưng cái mà họ có là giá trị sử dụng, họ chú ý tới giá trị sủ
dụng cũng là vì mục đích là giá trị mà thôi. Người mua, họ quan tâm tới giá
trị sử dụng, nhưng nếu muốn có giá trị sử dụng đó, họ phải trả giá trị cho
người sản xuất. Tức là họ phải thực hiện giá trị thị trường thì mới chi phối
giá trị sử dụng.
b) Tiền tệ:
- Tiền tệ về bản chất là một hàng hoá được tách ra làm vật ngang gía
chung cho các hàng hoá khác. Tiền tệ thể hiện lao động xã hội và biểu hiện
mối quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. Cho tới ngày nay vàng
vẫn được coi là hàng hoá ngang giá chung, nhưng nó ít được lưu thông mà
được thay bằng các loại tiền giấy, kim loại khác rẻ hơn đại diện cho những
lượng vàng nhất định.
- Vậy tại sao lại xuất hiện tiền tệ? Chúng ta nhìn lại thời kỳ mà nền
kinh tế ở giai đoạn tự cung tự cấp. Đây là một thời kỳ nền kinh tế cực kỳ
6
kém phát triển, các nhu cầu của con người luôn không được đáp ứng đầy đủ
do sự hạn chế về năng lực sản xuất của con người. Người nông dân muốn có
vải may quần áo nhưng lại không có khả năng sản xuất vải, nhưng lại thừa
gạo. Trong khi đó người có vải lại thiếu gạo và thừa vải. Và họ trao đổi cho
nhau. Dần dần, các mặt hàng trao đổi trở nên phong phú hơn, nhưng cũng
xuất hiện khó khăn. Những khó khăn đó là: người nông dân muốn đổi gạo
lấy vải nhưng người có vải lại không muốn có gạo. Từ đó họ hình thành nên
một vật ngang giá chung. Tức là, trong một phạm vi nhất định, một vật được
mọi người công nhận và có thể dùng để trao đổi mọi thứ hàng hoá. Tuy
nhiên, khi kinh tế phát triển thì sự hạn hẹp về phạm vi địa lý của vật ngang
giá chung bắt đầu gây khó khăn và tiền tệ ra đời. Nhìn vào lịch sử phát triển
của tiền tệ, ta thấy sự ra đời của nó là tất yếu khách quan để đáp ứng được sự
phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Với nhiều đặc tính phù hợp được cả thế
giới công nhận, vàng là kim loại được lựa chọn.
- Từ khi xuất hiện, tiền tệ đã góp phần rất lớn vào sự phát triển cả kinh
tế, nó thể hiện thông qua 5 chức năng của tiền tệ:
+ Tiền tệ là thước đo giá trị: ngày nay muốn tiêu dùng bất cứ hàng hoá
nào chỉ cần chúng ta có tiền đều có thể mua được dễ dàng. Đây chính là chức
năng cơ bản của tiền. Như vậy tiền cũng phải có giá trị của nó. Giá trị của
tiền là do lượng lao động xã hội cần thiết để sản xuất vàng quyết định. Trên
thị trường, giá trị của hàng hoá được biểu hiện bằng tiền gọi là giá cả. Giá cả
lên xuống xung quanh giá trị và do quan hệ cung cầu chi phối và tiêu chuẩn
giá cả không phụ thuộc vào giá trị của vàng.
+ Chức năng là phương tiện lưu thông
- Trong chức năng này thì tiền làm môi giới trong quá trình lưu thông
hàng hoá. Chức năng này giúp tách rời hành vi mua và bán. Tức là người ta
có thể mua ở một nơi vào một thời điểm nào đó và bán ở một nơi khác vào
một thời điểm khác. Để thực hiện chức năng này phải có tiền thực tế. Trong
thời kỳ đầu người ta dùng nén vàng bạc, nhưng dần dần được thay thế bằng
tiền đúc rồi đến tiền giấy. Trong quá trình lưu thông tiền đúc, giấy bị hao
mòn nhưng giá trị mà nó đại diện là không thay đổi. Trước đây, lợi dụng tính
đại diện của tiền đúc và giấy, nhà nước không ngưng sản xuất nhiều tiền loại
này làm giảm giá trị đồng tiền, gây ra khủng hoảng kinh tế. Vì vậy, ngày
nay, nhà nước luôn kiểm soát giá trị của tiền để bình ổn nền kinh tế.
+ Chức năng là phương tiện cất trữ:
7
- Tiền là vật ngang giá chung, nó có thể dùng để trao đổi mọi thứ. Vì
vậy có thể nói rằng tiền là đại biểu cho của cải xã hội, nên nó có thể được cất
trữ. Tuy nhiên không phải là tiền nào cũng có thể cất trữ mà chỉ có tiền đầy
đủ giá trị như vàng mới thực hiện được chức năng này. Nếu hàng hoá nhiều
thì tiền đã cất trữ sẽ được tung ra thị trường, nếu hàng hoá khan hiếm thì
tiền lại được cất trữ.
+ Chức năng là phương tiện thanh toán:
- Với chức năng thanh toán tiền dùng để trả lương, nộp thuế, mua bán
hàng hoá. Do để thuận lợi trong kinh doanh, việc mua và bán được tách rời
và chức năng thanh toán của tiền ở đây càng thể hiện rõ tầm quan trọng. Từ
chức năng thanh toán của tiền và nhu cầu thanh toán làm xuất hiện một loại
tiền mới là tín dụng dưới các hinh thức như giấy bạc ngân hàng, séc, trái
phiếu
+ Chức năng tiền tệ thế giới:
- Do được toàn bộ thế giới công nhận về giá trị của tiền, nên thế giới
trở thành một thị trường chung. Những nước khác nhau có thể mua bán
những sản phẩm mà đất nước mình cần. Trong chức năng này vàng là
phuơng tiện thanh toán quốc tế.
Các chức năng của tiền tệ liên quan mật thiết với nhau. Sự phát triển
của các chức năng này phản ánh sự phát triển của sản xuất hàng hoá và
những mâu thuẫn của nó.
c) Giá cả:
- Giá cả thị trường là sự biểu hiện bằng triền của giá trị thị trường và
giá cả sản xuất. Giá cả thị trường được hình thành thông qua sự cạnh tranh
giữa các nhà kinh doanh, sản xuất trong cùng một nghành, cùng một loại
hàng hoá, nhằm giành được điều kiện sản xuất và tiêu thụ hàng hoá có lợi
nhất để thu được lợi nhuận tối đa. Song trên thị trường, mỗi loại hàng hoá
đều phải bán theo một giá thống nhất. Bởi vì, giá cả thị trường dựa trên cơ sở
giá trị thị trường của hàng hoá. Giá trị thị trường của hàng hoá là giá trị trung
bình của những hàng hoá được sản xuất ra trong một khu vực nào đó hay là
giá trị cá biệt của những hàng hoá được sản xuất ra trong điều kiện trung
bình của khu vực đó và chiếm một khối lượng lớn trong tổng số sản phẩm
của khu vực này. Nghĩa là, nếu đại bộ phận lượng hàng hoá được sản xuất ra
trong những điều kiện xã hội trung bình, còn một bộ phận nhỏ được sản xuất
trong điều kiện kém và một lượng nhỏ khác trong điều kiện tốt, thì giá trị thị
trường của hàng hoá do giá trị của lượng hàng hoá ở khu vực điều kiện trung
8
bình quyết định. Hay nều đại bộ phận hàng hoá được sản xuất ra trong điều
kiện kém (hoặc điều kiện tốt) thì giá trị thị trường của hàng hóa lại do hàng
hoá ở khu vực điều kiện kém (hoặc điều kiện tốt) quyết định.
- Dù là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, nhưng
không có nghĩa là hai đại lượng đó phải bằng nhau. Giá cả thị trường của
hàng hoá luôn xoay quanh giá trị thị trường của nó. Bởi vì giá cả thị trường
còn phụ thuộc vào quan hệ cung-cầu của hàng hoá trên thị trường:
Cung là số lượng hàng hoá mà người cung sẵn sàngvà có khả năng
đưa ra thị trường ở mỗi một mức giá khác nhau, tại mỗi một thời gian khác
nhau. Cung được quyết định bởi khối lượng sản phẩm xã hội đã và sẽ sản
xuất ra, tỷ suất hàng hoá và khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu.
Cầu là khối lượng hàng hoá mà người tiêu dùng sẵn sàng và có khả
năng mua trên thị trường ở mỗi mức giá khác nhau, trong mỗi một thời gian
khác nhau.
Khi số lượng cung của một hàng hoá phù hợp với nhu cầu xã hội thì
tổng số giá trị thực của hàng hoá bằng tổng số giá trị thị trường của nó. Còn
nếu số lượng hàng hoá cung mà lớn hơn nhu cầu của xã hội thì tổng số giá trị
thực của hàng hoá lớn hơn tổng giá trị thị trường của nó. Ngược lại khi mà
số lượng cung nhỏ hơn cầu thì tổng số giá trị thực của hàng hoá sẽ nhỏ hơn
tổng giá trị thị trường
d) Lợi nhuận:
Giá trị thặng dư được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng
trước, được so sánh với toàn bộ tư bản ứng trước mang hònh thái chuyển hoá
là lợi nhuận. Vậy lợi nhuận có nguồn gốc từ giá trị thặng dư. Vậy giá trị
thặng dư từ đâu sinh ra?
- Lợi nhuận là giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước
được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức
chuyển hoá là lợi nhuận.
- Lợi nhuận được đo bằng (g
1
) sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và
chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa nên sau khi bán hàng hoá tư bản không bù
đắp được số tư bản ứng trước mà còn thu được lợi nhuận.
- Lợi nhuận là mục tiêu quan trọng để phấn đấu của mỗi doanh nghiệp,
là động lực để các nhà sản xuất nâng cao năng suất lao động, đổi mới khoa
học công nghệ, thúc đẩy nền sản xuất phát triển.
4. Các quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường
a) Quy luật giá trị:
9
Quy luật giá trị là một quy luật kinh tế rất quan trọng của sản xuất và
trao đổi hàng hoá. Quy luật giá trị quy định mặt chất và sự vận động về mặt
lương của giá trị hàng hoá. Theo quy luật này, sản xuất và trao đỏi phải dựa
trên cơ sở lượng giá trị hàng hoá hay thời gian lao động xã họi cần thiết.
Nghĩa là: đối với sản xuất, nó yêu cầu hao phí lao động cá biệt để sản xuất ra
hàng hoa phải phù hợp với hao phi lao động xã hội cần thiết, tức là phải phù
hợp với mức hao phi mà xã hội có thể chấp nhận được. Còn trong trao đổi
hàng hoá, nó yêu cầu là trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá.
Quy luật giá rị biểu hiện sự vân động của nó thông qua sự biến đổi của
giá cả hàng hoá. Giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị. Giá cả phụ thuộc
vào giá tri, vì giá trị là cơ sở của giá cả. Nhưng do tác động của quan hệ
cung-cầu, tình trạng độc quyền, và một số tác động khác, giá cả thị trường có
thể tách rời giá trị, lên xuống xoay quanh giá trị. Nhưng cuối cùng, tổng giá
cả phù với tổng giá trị của chúng.
Quy luật giá trị có những tác dụng sau:
+ Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá: Người sản xuất hàng hoá
sản xuât cái gì, như thế nào, cho ai, là do họ quyết định. Mục đích duy nhất
của họ là thu được nhiều lãi nhất. Dựa vào sự biến động của giá cả thị
trường, người sản xuất biết được mặt hàng nào đang bán chạy và mặt hàng
nào đang thừa. Người sản xuất sẽ mở rộng sản xuất những mặt hàng đang
thiếu, bán chạy, giá cao và thu hẹp lại những mặt hàng nào ế thừa, giá thấp.
Một số người sẽ chuyển sang sản xuất những mặt hàng đang thiếu vầ giá
cao, bỏ những mặt hàng mang lại lợi nhuận thấp. Kêt quả là các yếu tố sản
xuất như sức lao động, tư liệu sản xuất, tiền vốn chuyển dịch từ ngành này
sang ngành khác. Đây chính là sự điều tiết sản xuất của quy luật giá trị.
Trong lưu thông hàng hoá, quy luật giá trị cũng tham gia vào quá trình vận
động của hàng hóa từ nơi giá thấp đến nơi giá cao. Từ đó phân phối các
nguồn hàng hoá một cách hợp lý hơn giữa các vùng, giữa cung và cầu đối
với các loại hàng hoá trên thị trường.
+ Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.: Vì hàng hoá bán theo giá trị
xã hội do hao phí lao động xã hội các thiết quyết định, nên ngưòi sản xuất
có ít hao phí lao động cá biệt hơn lao động xã hội cần thiết thì sẽ thu được
nhiều lợi hơn. Chính vì vậy muốn thu nhiều lợi hơn, chiến thắng và đứng
vững trong thị trường cạnh tranh, mỗi nhà sản xuất đều phải không ngừng
tìm cách rút xuống đến mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt. Muốn vậy, họ
phải không ngừng tim cách cải tiến lực lượng sản xuất.
10
+ Phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu người nghèo, và làm nảy sinh
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: trong cuộc chạy đua theo lợi nhuận,
những nhà sản xuất nào làm tốt sẽ thu được nhiều lợi nhuận trở nên giàu có.
Ngược lại, những nhà sản xuất khác làm kém hơn sẽ phải chịu sự thua lỗ và
trở thành nghèo hơn. Từ đây, phát sinh ra quan hệ sản xuất TBCN, những
ngưòi giàu trở thành ông chủ, những người nghèo trở thành những người làm
thuê. Đây là quan hệ tư sản và vô sản, quan hệ giữa chủ và tớ, quan hệ đối
kháng về lợi ích kinh tế.
11
b) Quy luật cung cầu:
+ Quy luật này thể hiên mối quan hệ khách quan giữa cung cầu trên thị
trường. Cung và cầu là sự khái quát hai lực lượng cơ bản của thị trường là:
người mua và người bán. Vậy cung và cầu là gì?
- Cung là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các doanh nghiệp tung
ra thị trường với giá cả nhất định,trong một thời kỳ nhất định. Cung chịu ảnh
hưởng của hai nhân tố là giá cả và thu nhập. Với giá cả, cung chịu ảnh
hưởng: khi các yếu tố sản xuất đã được tận dụng thì giá cả không ảnh hưởng
tới cung là mấy. Nhưng trong trường hợp chưa tận dụng hết thì tăng giá có
thể dẫn tới tăng cung.Với thu nhập, ảnh hưởng tới trường vốn hay đoản vốn
của doanh nghiệp, điều này chi phôi cách ứng xủa của doanh nghiệp khi tung
hàng ra tiêu thụ.
- Cầu là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà ngưòi tiêu dùng, muốn
mua trong một thời kỳ với mỗi một mức giá nhất định. Cầu phụ thuộc vào
các nhân tố: nhu cầu mua sắm của xã hội, khả năng mua săm của dân cư(khả
năng này lại phụ thuộc vào thu nhập của mỗi ngưòi và giá cả hàng hoá).
+ Cân bằng cung cầu trên thị trường: cung và cầu luôn tác động qua
lại lẫn nhau. Cung xác định cầu và ngược lại cầu cũng xác định cung. Mối
liên hệ mạt thiết này tạo ra quy luật cung cầu. Trên thị trường, người mua
muốn giá của hàng hoá là thấp , trong khi đó người bán lại muốn giá cả cao.
Tới một lúc nào đó thì giá giữa họ là bằng nhau, đó là giá cả thị trường hay
giá cả trung bình. Giá cả thực tế trên thị trương xoay quanh điểm cân bằng
này, tuỳ thuộc vào tương quan giữa cung và cầu. ậ điểm cân bằng này, lượng
hàng hoá mà người bán sẵn sàng bán bằng với lượng hàng hoá ma người
mua sẵn sàng mua.Quy luật cung cầu biểu hiện thông qua sự thay đổi của giá
cả. Với số lượng cung cố định, cầu tăng sẽ làm tăng giá, nếu với một sức cầu
cố định thì cung tăng sẽ làm giảm giá.
c) Quy luật cạnh tranh:
Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tẩnh về kinh tế giữa những người
sản xuất với nhau, giữa những người sản xuất với người tiêu dùng, nhằm
giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ sản
phẩm để thu được nhiều lợi nhuận nhật cho mình.
Nội dung cạnh tranh bao gồm việc canh tranh chiếm lĩnh những nguồn
nguyê liệu, gianh giật những nguồn lực sản xuất; cạnh tranh về khao học
công nghệ. Cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường, giành giật nơi đầu tư, các hợp
đồng, các đơn đặt hàng. Cạnh tranh có thể bằng giá cẩ, bằng chất lượng, các
12
dịch vụ kèm theo, phương thức thanh toán Cạnh tranh có nhiều loại: cạnh
tranh giữa nhưng người mua, giữa những người sản xuất, cạnh tranh trong
nội bộ ngành, và cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh có vai trò tích cực trong nền sản xuất hàng hoá. Nó buộc
người sản xuất hàng hoá phải không ngừng cải tiến kỹ thuật sản xuất, lực
lượng lao động, nâng cao năng suất, tiết kiệm nhiên liệu Hơn nữa,để bán
được nhiều hàng hoá hơn thì nhà sản xuất phải không ngừng nghiên cứu thị
truờng, thị hiếu, sở thích của người tiêu dùng, từ đó kích thích sự đa dạng
của mẫu mã sản phẩm Như vậy có thể nói, quy luật cạnh tranh có tác dụng
đào thải những cái cũ, lạc hậu, không phù hợp, binh ftuyển những cái mới,
tiến bộ thuc đẩu sản xuất hàng hó phát triển.
Tuy nhiên cùng với những tác dụng của nó, cạnh tranh cò gây ra
những hậu quả: đầu cơ, lừa đảo, ô nhiễm môi trường, khai thác cạn kiệt tài
nguyên
d) Quy luật lưu thông tiền tệ:
Khi tiền tệ xuất hiện, sự troa đỏi hàng hoá trực tiếp chuyển sang trao
đổi một cách gián tiếp- trao đổi hàng hoá lấy tiền tệ làm môi giới. Sự vận
động của tiên tệ lấy sự trao đổi hang hoá làm tiền đề gọi là lưu thông tiền tệ.
Sự vân động của hàng hoá và tiền tệ là sự thông nhất giữa lưu thông tiền tệ
và lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên số tiền đưa vào lưu thông không phải là vô
tận.
Để thực hiện chức năng phương tiện lưu thông ở mỗi thời kỳ cần có
một số lượng tiền nhất định. Số lượng tiền này được xác định bằng quy luật
lưu thông tiền tệ. Quy luật này được xác định như sau:
Tổng số
giá cả h
àng
hoá
-
Tổng số giá
cả hàng hoá
bán chịu
+
Tổng số giá
cả hàng hoá
kh
ấu trừ cho
nhau
+
Số lượng
tiền cần
thiết trong
lưu thông
=
Số lần luân chuyển trung bình của tiền tệ
Tổng số
giá cả
hàng hoá
bán chịu
đến kỳ
thanh toán
Quy luật lưu thông tiền tệ nói trên là qui luật tiền vàng.
II. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở
VIỆT NAM
1.Tính tất yếu khách quan chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa:
1.1. Sự tồn tại của sản xuất hàng hoá ở nước ta:
13
Trước đây, khi còn quan niệm không đúng: đối lập chủ nghĩa xã hội
với sản xuất hàng hoá, kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường (vì cho rằng kinh
tế hàng hoá, kinh tế thị trường gắn với chủ nghĩa tư bản), thì nhiều người
nhận thức, và hiểu rằng dưới chủ nghĩa xã hội không còn sản xuất hàng hoá,
kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, mà nếu có tồn tại thì chỉ là một nền kinh
tế hàng hoá đặc biệt (chỉ có tư liệu tiêu dùng là hàng hoá, còn tư liệu sản
xuất, sức lao động, vốn … không phải là hàng hóa). Nhưng sự tồn tại của
nền sản xuất hàng hoá ở nước ta là không thể phủ nhận.
Về điều kiện thứ nhất của sản xuất hàng hoá, đó là phân công lao động
xã hội; chẳng những không mất đi, mà trái lại còn phát triển cả về bề rộng và
chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương ngày
càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính
phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao
đổi trên thị trường.
Về điều kiện thứ hai, trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức
sở hữu, đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá
thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại
nhiều chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ
chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ. Hơn nữa, nếu cho rằng,
sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất
thì sẽ không giải thích được sự tồn tại của sản xuất, lưu thông hàng hóa trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Bởi vì nền sản xuất dựa trên chế độ tư
hữu về tư liệu sản xuất hàng ngày, hàng giờ đẻ ra chủ nghĩa tư bản. Vậy thì
muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội phải xoá bỏ chế độ tư hữu, thiết lập chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất, có nghĩa là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội và trong chủ nghĩa xã hội không còn điều kiện thứ hai của sản xuất
hàng hoá. Như vậy thì mâu thuẫn với thực tế khách quan: trong chủ nghĩa xã
hội sẽ vẫn còn kinh tế hàng hoá, ngay cả khi nền kinh tế dựa trên chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất. Còn trong chủ nghĩa xã hội thì kinh tế hàng hoá
lại có thể tồn tại cả trong điều kiện hoàn toàn không có chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất.Khi nghiên cứu nền nông nghiệp tư bản chủ nghĩa, Lênin viết:
“Về mặt lý luận, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể hoàn toàn đi đôi với
việc không có chế độ tư hữu về ruộng đất, với việc quốc hữu hoá ruộng
đất…”.
Hiện nay, tuy thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng
dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế có sự
14
khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích
riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật -
công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản
xuất cũng khác nhau.
Trong quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ hàng hoá - tiền tệ là chủ yếu,
đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày
càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối
với các hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi ở đây là
theo nguyên tắc ngang giá.
Như vậy, chúng ta không thể dùng ý chí chủ quan của mình để xoá bỏ sự
hiện hữu của kinh tế hàng hoá, nhất là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường là một tồn tại tất yếu, khách quan ở
nước ta.
1.2. Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có tác
dụng to lớn đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng, nâng cao đời sống nhân
dân và xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH:
Nền kinh tế nước ta bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ
một điểm xuất phát rất thấp. Đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, cơ sở vật
chất kỹ thuật bị tàn phá nặng nề, dự trữ quốc gia gần như không có. Hơn
nữa, nền kinh tế nước ta còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc, lực lượng sản
xuất chưa phát triển, quan hệ sản xuất tàn dư còn nặng nề, trong khi quan hệ
sản xuất mới chưa thực sự hình thành và hoàn thiện. Do vậy, khi chúng ta
theo đuổi một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bằng mệnh lệnh hành
chính, quan liêu từ trung ương và cơ cấu hướng nội là chủ yếu, đã kìm hãm
sự phát triển của đất nước, khiến cho nền kinh tế đã có lúc lâm vào tình trạng
khủng hoảng trầm trọng.
Ngọn gió “đổi mới” với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá ở nước
ta đã tạo động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa
những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kỹ
thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí đến mức tối thiểu
nhờ đó có thể cạnh tranh về giá cả, đứng vững trong cạnh tranh. Nhờ vậy mà
khoa học kỹ thuật phát triển, năng suất lao động xã hội tăng lên, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển mạnh. Kinh tế hàng hóa cũng thúc đẩy phân công
lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Nó sẽ phát huy được tiềm
năng, lợi thế của từng vùng, cũng như lợi thế của đất nước, có tác dụng mở
rộng kinh tế đối ngoại.
15
Ngoài ra, để cạnh tranh được trong nền kinh tế hàng hoá, người sản
xuất phải căn cứ vào nhu cầu của người tiêu dùng, của thị trường để quyết
định sản xuất sản phẩm gì, với khối lượng bao nhiêu, chất lượng, mẫu mã
như thế nào. Vì vậy, nó kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh
tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã cũng như tăng khối
lượng hàng hóa, dịch vụ. Nhờ đó mà người tiêu dùng sẽ có điều kiện được
tiếp cận với nhiều loại hàng hoá hơn, giá rẻ hơn và chất lượng cao hơn. Đời
sống nhân dân sẽ được nâng cao lên một bước, nền kinh tế sẽ có sức cạnh
tranh cao hơn.
Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có xã hội hoá cao;
đồng thời chọn lọc những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội
ngũ cán bộ quản lý có trình độ, lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát
triển của đất nước.
Tóm lại, phát triển kinh tế thị trường là một nhiệm vụ kinh tế cấp bách
để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội
nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát
triển lực lượng sản xuất, khai thác hiệu quả tiềm năng của đất nước vào sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2. Quá trình hình thành nền kinh tế thị trường ở nước ta:
Sau khi giành độc lập, học tập theo nhưng nước Đông Âu và Liên Xô
cũ, Việt Nam đã xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Trong
thời gian này, mô hình nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã cung cấp
phương tiện vật chất phục vụ cuộc kháng chiến cứu nước đồng thời khôi
phục lại sản xuất sau chiến tranh. Tuy nhiên, sau một thời gian phát huy tác
dụng thì mô hình kinh tế nay đã nảy sinh những hạn chế to lớn. Điều này thể
hiện qua tình hình kinh tế Việt Nam trong thời kỳ trươc nhưng năm đổi mới:
năng suất lao động giảm, phúc lợi xã hội giảm, lạm phát tăng, cơ chế điều
hành quan liêu bao cấp gây cản trở cho việc phát triển kinh tế.
Tại Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), Đảng ta đã rút ra những bài học
và quyết định xây dựng một nên kinh té thị trường có sự quản lý của nhà
nước định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó đến nay, chúng ta đã trải qua ba
giai đoạn với những đặc trưng khác nhau của từng giai đoạn.
Giai đoạn 1986-1990: Cơ chế thị trường bắt đầu được thực hiện, một
số loại thị trường được hình thành, đã tạo ra động lực mới, nhất là trong sản
xuất nông nghiệp và một số xí nghiệp quốc doanh. Do đó thị trường hàng
16
tiêu dùng đã dồi dào hơn, đa dạng hơn, thị trường tư liệu sản xuất cũng nhuc
nhích lên chút ít, lưu thông bắt đầu tương đối thuận lợi, thị trường xuất nhập
khẩu bắt đầu được mổ rộng và phát triển khá mạnh mẽ. Tuy nhiên, tinh hình
kinh tế nước ta còn trong khủng hoảng, phát triển chậm, phân phối và lưu
thông còn rối ren, ngân sách nhà nước còn htiếu hụt lớn, nguồn vốn thiếu
nghiêm trọng, tiền mặt thiếu thường xuyên, lạm phát tăng cao. Tốc độ tăng
giá năm1986 là 87,2%, giá cả biến động, giá lương thực, thực phẩm có lúc
tăng đột biến, nợ nước ngoài tăng thêm. Nhìn một cách tổng thể, thì ở giai
đoạn này, nền kinh tế có sự mất cân đối lớn, tổng cầu quá lớn so với tổng
cung. Nguyên nhân là do cơ chế thị trường và các nhân tó của nó là giá cả thị
trường, canh tranh thị trường và cung-cầu hình thành từ sự vận hành của thị
trường chưa được phát huy thuận lợi.
Giai đoạn 1991-1995: Các chính sachs về cơ chế thị trường được thực
hiện một cách mạnh mẽ, đã lay động các lĩnh vực của nền kinh tế-xã hội. Hệ
thống chủ thể thị trường của các thành phần kinh tế đã thay thế các cơ sở
kinh tế hoạt động dưới thời bao cấp. Các nhân tố thị trường hình thành và
phát huy tác dụng thực sự thay thế cho các quyết đinh hành chính. Do đó,
các loại hình thị trường phát triển một cách nhanh chóng, từ thị trường hàng
hoá tiêu dùng thông thường, cho đến thị trường vất tư, nguyên liệu, thị
trường các dịch vụ và thị trường xuất nhập khẩu. Thị truờng lao động, thị
trường tiền tệ, thị trường bất động sản cũng bắt đầu hoạt động. Hệ thống cơ
cấu thị trường đã được xác lập. Trên thực tế thj trường đã có sự biến đổi về
chất. Tình trạng khan hiếm hàng hoá trong giai đoạn chiến tranh và bao cấp
đã chấm dứt. Kết quả là thị trường nước ta lần đầu tiên có được sự câ đối
giữa tổng cung và tổng cầu xã hội. Trong suốt 5 năm, lượng hàng hoá lưu
thông tăng liên tục với tốc độ cao, mặt hàng ngày càng phong phú, chất
lượng tăng cao, thị trường xuất nhập khẩu phát triển mạnh. Tuy nhiên, nhìn
chung thị trường còn thô sơ, nhỏ hẹp, phân tán, manh mún, chất lượng chưa
cao, chủng loại hàng hoá còn nghèo nàn, dịch vụ thương mại yếu kém, tính
tự phát còn nghiêm trọng. Thị trường nông thôn, thị trường yếu tố sản xuát
còn chưa phát triển, thị trường chứng khoán chưa có, tệ nạn buôn lậu, gian
lận thương mại còn nhiều. Kết quả của giai đoạn này là nền kinh té nước ta
đã ra khỏi khủng hoảng, thị trường phát triển ổn định, đảm bảo được cân
bằng cung-cầu
Giai đoạn 1996-nay: Tình hình thị trường nước ta có những đặc trưng
mới. Đặc trung tổng quát của thị trường lúc này là tổng cung vượt xa tổng
17
cầu trong tình hình tổng cung và tổng cầu đều giảm mạnh. Trên thị trương
xuất hiện những cơn “sốt” lạnh trên diện rộng, kéo dài, nhiều mặt hàng công
nghiệp có số lượng tồn kho lớn như giấy 16000 tấn, thép 400000tấn Thực
trạng này còn nặng nề hơn nhiều vào năm 1999: lượng than tồn kho vào
tháng 6/1999 lên tới gàn 5 triệu, tính tới tháng 10/1999 lượng giấy tồn kho là
15186 tấn, thép chỉ khai thác được 50-60% công suất thiết kế, Tổng công ty
phân đạm và hoá chất Hà Bắc sản xuấ cả năm chỉ đạt 20-40% công suất, các
dịch vụ về du lịch và khách sạn cũng cung thừa.Mặc dù cho tới những năm
sau chính phủ đã có chủ trương kích cầu nhưgn mọi chuyện vẫn không được
giải quyết. Tuy thị trường trong nước gặp nhiều khó khăn nhưng thị trường
xuất nhập khẩu lại hoạt động rất sôi động, trong đó xuất khẩu thì tăng mạnh,
nhập khẩu thì giảm. Trên thị trường đầu tư, sự tiến triển rất chậm chạp,
nguyên nhân chủ yếu là do đầu tư nước ngoài liên tục giảm sút. Nếu trong
những năm 1994-1997 FDI dạt bình quân 2 tỷ USD/năm, thì năm 1998 chỉ
còn 800 triệu và năm 1999 là vào khoảng 600 triệu. Thị trường các yếu tố
sản xuất khác như thị trường cốn còn sơ khai, thị trường lao động mới đang
hình thành, thị trường bất động sản chưa đuợc khai thông, thị trường chứng
khoán mới được thành lập, thị trường dịch vụ giảm sút. Trên từng địa bàn,
thị trường cũng chưa thực sự thông suốt do vẫn còn các trạm kiểm soát thu
phí bất hợp lý, thậm chí ở một số nơi còn bị chính quyền sở tại dùng biện
pháp hành chính để bảo hộ các cơ sở sản xuất địa phương.
Một đặc trưng thứ hai của thị trường nước ta trong thời gian này là
lạm phát giảm mạnh, hơn nữa còn có hiện tượng giảm phát. Chỉ số lạm phát
năm 1996 là 4,5%, năm 1997 là 3,6%, tính cung năm 1999 chỉ số lạm phát là
1%, nhưng trong suốt 8 tháng từ tháng 3 đé tháng 10/1999 chỉ có chỉ số giá
âm. Trên thị trường hối đoái thì đồng tiền Việt Nam lên giá trong thời gian
nổ ra cuộc khủng hoảng kinh tế.
3. Mục tiêu và đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:
Kinh tế thị trường định hướng XHCN thực chất là kiểu tổ chức nền
kinh tế vừa dựa trên những nguyển tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa
dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó, kinh tế
thị trường định hướng XHCN có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau,
kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là nhóm nhân tố của kinh tế thị
trường và nhóm nhân tố của xã hội đang định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
đó, nhóm thứ nhất đóng vai trò như động lực thúc đẩy sản xuất xã hội phát
18
triển nhanh, nhóm thứ hai đóng vai trò hướng dẫn, chế định sự vận động của
nền kinh tế theo những mục tiêu đã được xác định.
Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta có những mục
tiêu, dặc trưng bản chất khác biệt cơ bản về nguyên tắc so với nền kinh tế thị
trường TBCN. Điều đó được thể hiện như sau:
3.1. Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta:
Mục tiêu hàng đầu phát triển kinh tế thị trường ở nước ta được xác
định là: Giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển nền kinh tế,
động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật của CNXH, tạo ra sự phát triển năng động, hiệu quả cao của
nền kinh tế; trên cơ sở đó, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, từng
bước thực hiện sự công bằng, bình đẳng và lành mạnh các quan hệ xã hội.
Phát triển kinh tế thị trường sẽ khắc phục được tình trạng tự túc tự cấp của
nền kinh tế, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển, mở rộng ngành
nghề, tạo việc làm cho người lao động; áp dụng khoa học, kỹ thuật, công
nghệ mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động xã hội, tăng số lượng,
chất lượng và chủng loại hàng hoá dịch vụ; thúc đẩy tích tụ, tập trung sản
xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, với
các nước trên thế giới, động viên mọi nguồn lực trong nước và tranh thủ các
nguồn lực bên ngoài; thúc đẩy việc phát huy tinh thần năng động, sáng tạo
của mỗi người lao động, mỗi đơn vị kinh tế, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng một nước nghèo và kém phát triển,
thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh theo con đường XHCN.
Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không chỉ dừng
lại ở tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, mà còn phải không ngừng nâng cao đời
sống nhân dân, đảm bảo tốt các vấn đề xã hội và công bằng, bình đẳng trong
xã hội. Đảng ta đã chủ trương tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến
bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển.
Tóm lại, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là phương tiện khách
quan để xã hội hoá XHCN nền sản xuất, để công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nền kinh tế quốc dân, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH.
3.2. Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần cùng tồn tại và
phát triển nhưng kinh tế Nhà nước phải luôn giữ vai trò chủ đạo:
19
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế cơ
sở cơ cấu đa dạng về hình thức sở hữu, trong đó sở hữu Nhà nước làm chủ
đạo. Do đó nền kinh tế gồm nhiều thành phần, trong đó nền kinh tế Nhà
nước giữu vai trò chủ đạo.
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, tồn tại ba loại hình sở hữu cơ
bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu
cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức sản
xuất kinh doanh. Các thành phần kinh tế đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập
thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Do đó không chỉ ra sức phát triển các
thành phần kinh tế thuộc chế độ công hữu, mà còn phải khuyến khích phát
triển các thành phần kinh tế thuộc sở hữu tư nhân để hình thành nền kinh tế
thị trường rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các
đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài
nước, các hình thức đan xen và thâm nhập vào nhau giữa các thành phần
kinh tế đều có thể tham gia thị trường với tư cách chủ thể thị trường bình
đẳng.
Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo. Việc xác định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sự
khác biệt có tính chất bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta với kinh tế thị trường của các nước khác.Tính định hướng xã hội chủ
nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quy định kinh tế nhà nước phải
giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ, mỗi một
chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước,
nói đúng ra kinh tế dựa trên chế độ công hữu bao gồm kinh tế nhà nước và
kinh tế hợp tác, tạo cơ sở kinh tế cho chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Việc vin vào tình trạng kém hiệu quả của kinh tế nhà nước trong thời
gian qua để phủ định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sai lầm về lý
luận. Vấn đề chủ yếu không phải là phủ định vai trò của kinh tế nhà nước,
mà là cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nước và đổi mới cơ bản cơ chế quản lý
doanh nghiệp nhà nước để chúng hoạt động có hiệu quả.
3.3. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực hiện
nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động
là chủ yếu.
Mỗi chế độ xã hội có chế độ phân phối tương ứng với nó. Chế độ phân
phối do quan hệ sản xuất thống trị, trước hết là quan hệ sở hữu quyết định.
20
Phân phối có liên quan đến chế độ xã hội, đến chính trị. Dưới chủ nghĩa tư
bản, phân phối theo nguyên tắc giá trị: đối với người lao động theo giá trị
sức lao động, còn đối với nhà tư bản theo giá trị tư bản. Như vậy, thu nhập
người lao động chỉ giới hạn ở sức lao động mà thôi. Chủ nghĩa xã hội có đặc
trưng riêng về sở hữu, do đó chế độ phân phối cũng có đặc trưng riêng; phân
phối theo lao động là đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Thu nhập của người
lao động không chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động, mà nó phải vượt qua đại
lượng đó, nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.
Tuy nhiên việc đo lường trực tiếp lao động là một vấn đề phức tạp và
khó khăn, nhưng trong nền kinh tế thị trường, có thể thông qua thị trường để
đánh giá kết quả lao động, sự cống hiến thực tế và dựa vào đó để phân phối.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta gồm nhiều thành
phần kinh tế. Vì vậy cần thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập: phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng
góp các nguồn lực vào sản xuất kinh doanh, và phân phối thông qua các quỹ
phúc lợi xã hội, trong đó phân phối theo kết quả lao động giữ vai trò nòng
cốt, đi đôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý. Chúng ta không
coi bất bình đẳng xã hội như là một trật tự tự nhiên, là điều kiện của sự tăng
trưởng kinh tế, mà thực hiện mỗi bước tăng trưởng kinh tế gắn liền với cải
thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Chỉ có như vậy
mới khai thác được khả năng của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, huy động
được mọi nguồn lực của đất nước vào phát triển kinh tế, đồng thời vẫn đảm
bảo giữ vững con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.
3.4. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước XHCN:
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng vận động theo yêu cầu
của những quy luật vốn có của kinh tế thị trường, như quy luật giá trị, quy
luật cung-cầu, cạnh tranh,…; giá cả do thị trường quyết định, thị trường có
vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các
ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đưa đến những hậu quả
nghiêm trọng về mặt xã hội. Ngay từ năm 1848, trong “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản”, C.Mác và F.Ăng-ghen đã chỉ ra rằng: xã hội tư bản “không
để lại giữa người với người một mối quan hệ nào khác, ngoài mối lợi lạnh
lùng và lối “trả tiền ngay” không tình nghĩa”. Ngày nay, chính một nhà
nghiên cứu phương Tây Ê-gát Mo-ring đã đưa ra nhận xét chua chát: “Trong
21
nền văn minh được gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại một tình trạng kém
phát triển thảm hại về văn hoá, trí não, đạo đức và tình người”. Vì vậy, nền
kinh tế thị trường ở nước ta không phải là kinh tế thị trường tự do, thả nổi mà
là nền kinh tế có định hướng mục tiêu xã hội - xã hội chủ nghĩa. Sự phát
triển kinh tế thị trường được xem là phương thức, con đường thực hiện mục
tiêu chủ nghĩa xã hội: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Trong điều kiện ngày nay, hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước
trên thế giới đều có sự quản lý của nhà nước để sửa chữa một mức độ nào đó
“những thất bại của thị trường”. Tức là cơ chế vận hành nền kinh tế của tất
cả các nước đều là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhưng điều
khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế của nước ta là ở chỗ Nhà nước
quản lý nền kinh tế không phải là nhà nước tư sản, mà là nhà nước xã hội
chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa là hết sức quan trọng.
Nó đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao, đặc biệt
là đảm bảo công bằng xã hội. Không ai ngoài nhà nước có thể giảm bớt được
dự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa các
vùng của đất nước trong điều kiện kinh tế thị trường. Nhà nước quản lý nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với
thị trường. Thị trường là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, nó tồn tại
khách quan, tự vận động theo những quy luật vốn có của nó. Còn kế hoạch
hoá là hình thức thực hiện của tính kế hoạch, nó là sản phẩm chủ quan của
chủ thể quản lý. Kế hoạch và cơ chế thị trường là hai phương tiện khác nhau
để phát triển và điều tiết nền kinh tế. Kế hoạch là sự điều chỉnh có ý thức của
chủ thể quản lý đối với nền kinh tế, còn cơ chế thị trường là sự tự điều tiết
của bản thân nền kinh tế.
Sự kết hợp kế hoạch với thị trường được thực hiện cả ở tầm vi mô lẫn
vĩ mô. Ở tầm vi mô, thị trường là căn cứ xây dựng kế hoạch sản xuất kinh
doanh. Thông qua sự biến động của quan hệ cung-cầu và giá cả thị trường,
các doanh nghiệp lựa chọn được phương án sản xuất. Cũng nhờ đó mà doanh
nghiệp lựa chọn được cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư cho mình. Thoát ly yêu
cầu của thị trường, các mục tiêu của kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp sẽ không thực hiện được.
Ở tầm vĩ mô, mặc dù thị trường không phải là căn cứ duy nhất có tính
chất quyết định, song kế hoạch Nhà nước cũng không thể thoát ly khỏi tình
22
hình biến động của thị trường. Thoát ly thị trường, kế hoạch vĩ mô trở thành
duy ý chí. Kế hoạch hoá vĩ mô nhằm đảm bảo cân đối lớn, tổng thể của nền
kinh tế như tổng cung - tổng cầu, sản xuất tiêu dùng, hàng hoá - tiền tệ. Kế
hoạch hoá vĩ mô có thể tác động đến cung, cầu, giá cả để uốn nắn những lệch
lạc của sự phát triển do sự tác động tự phát của thị trường gây ra, thông qua
đó mà hướng hoạt động của thị trường theo hướng của kế hoạch.
3.5. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng là nền kinh tế
mở, hội nhập:
Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế mở, hội nhập với kinh
tế thế giới và khu vực, thị trường trong nước gắn với thị trường thế giới, thực
hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ được độc
lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế
đối ngoại. Thực ra, đây không phải là đặc trưng riêng của nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN, mà là xu hướng chung của các nền kinh tế trên
thế giới hiện nay. (Ở đây muốn nhấn mạnh sự khác biệt so với nền kinh tế
đóng, khép kín trước đây).
Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, đang diễn
ra quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia
trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế
khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút
được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý kinh tế tiên tiến
của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát
huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường
hiện đại theo kiểu rút ngắn.
Trong thời gian tới, cần tiếp tục mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá
quan hệ kinh tế đối ngoại; có bước đi thích hợp hội nhập với kinh tế khu vực
và thế giới; phải đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là
trọng điểm của kinh tế đối ngoại, chủ động và tích cực thâm nhập thị trường
thế giới, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, mở rộng thị
phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội để mở ra thị trường
mới; cải thiện môi trường đầu tư và bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư
nước ngoài.
4. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở nước ta:
4.1 Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn rất thấp,
mới chỉ ở giai đoạn sơ khai:
23
Nền kinh tế thị trường ở nước ta mới ở giai đoạn sơ khai, ở trình độ
thấp và kém phát triển. Biểu hiện ở số lượng mặt hàng và chủng loại hàng
hoá nghèo nàn, khối lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường và kim ngạch
xuất nhập khẩu còn nhỏ, chi phí sản xuất và giá cả hàng hoá cao, chất lượng
hàng hoá thấp, quy mô, dung lượng thị trường hạn hẹp; mức cạnh tranh của
các doanh nghiệp và hàng hoá trên thị trường trong nước cũng như thị trường
ngoài nước còn rất yếu; đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp giỏi còn ít;
thu nhập của người lao động còn thấp do đó sức mua hạn chế. Nguyên nhân
của tình trạng này là:
Cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực,
một số cơ sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trong
nhiều ngành kinh tế, máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. Theo UNDP, Việt
Nam đang ở trình độ công nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới, máy móc thiết bị lạc
hậu 2-3 thế hệ (có lĩnh vực 4-5 thế hệ). Lao động thủ công vẫn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó, năng suất, chất lượng, hiệu
quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so với khu vực và thế giới (năng suất
lao động của nước ta chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới).
Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống
thông tin liên lạc…còn lạc hậu, kém phát triển. Hệ thống giao thông kém
phát triển làm cho các địa phương, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau, do đó
làm cho nhiều tiềm năng của các địa phương không thể được khai thác, các
địa phương không thể chuyên môn hoá sản xuất để phát huy thế mạnh.
Do cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao
động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Nền kinh tế nước
ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp vẫn sử
dụng khoảng 70% lực lượng lao động, nhưng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP,
các ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỷ trọng thấp.
Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong và
ngoài nước là rất kém. Do cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, năng suất lao động
thấp dẫn đến khối lượng hàng hoá nhỏ bé, chủng loại nghèo nàn, chất lượng
thấp mà giá thành lại quá cao.
4.2. Các loại thị trường trong nước đang trong quá trình hình thành
nhưng chưa đồng bộ:
Thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và
còn nhiều tiêu cực (hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu vẫn làm rối
loạn thị trường).
24
Thị trường sức lao động mới manh nha, một số trung tâm giới thiệu
việc làm và xuất khẩu lao động mới xuất hiện nhưng nảy sinh nhiều hiện
tượng tiêu cực. Nét nổi bật của tinh trạng này là thừa lao động giản đơn,
trình độ thấp; nhưng lại thiếu lao động lành nghề, lao động có hàm lượng
chất xám cao. Do vậy dẫn đến tình trạng thừa lao động giản đơn, nhiều
người có sức lao động không tìm được việc làm; nhưng nhiều ngành nghề lại
không có lao động đủ trình độ đáp ứng. Ngoài ra, cơ cấu đào tạo bất hợp lý
cũng đã dẫn đến tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, khiến cho một lượng lớn
sinh viên được đào tạo ra trường không thể tìm được việc làm.
Thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn
rất nhiều bất cập, như nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân rất
thiếu vốn để sản xuất kinh doanh nhưng không vay được vì vướng mắc thủ
tục, trong khi đó nhiều ngân hàng thương mại huy động được tiền gửi mà
không thể cho vay để ứ đọng vốn. Trong hoạt động của các ngân hàng vẫn
còn nhiều tiêu cực và gian lận. Thị trường chứng khoán đã ra đời nhưng gần
như luôn ở trong tình trạng “đóng băng”, các giao dịch diễn ra rất ít và các
doanh nghiệp vẫn còn rất xa lạ với thị trường này trong khi đây chính là một
nơi huy động vốn rất có hiệu quả.
4.3 Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường, nhưng trong đó,
sản xuất hàng hoá nhỏ, phân tán còn phổ biến:
Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, có nhiều thành phần
kinh tế tham gia thị trường, do vậy nền kinh tế nước ta có nhiều loại hình sản
xuất hàng hoá cùng tồn tại, đan xen, vừa đấu tranh vừa hợp tác.
Nhưng trong nền kinh tế, sản xuất hàng hoá nhỏ, phân tán vẫn con phổ
biến. Điều này xuất phát từ trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp, tiềm
lực kinh tế của quốc gia chưa cao, xã hội hoá sản xuất chưa phát triển, quá
trình tích tụ, tập trung sản xuất chưa được đẩy mạnh, tư duy kiểu cũ vẫn con
tồn tại nặng nề.
4.4 Kinh tế nước ta hội nhập vào thị trường khu vực và quốc tế
trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật còn thấp xa so với
các nước khác và khả năng cạnh tranh rất yếu:
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đem lại cho chúng ta rất
nhiều cơ hội để phát triển nhưng đồng thời cũng có không ít những khó khăn
và thách thức hết sức gay gắt. Nhưng hội nhập là xu thế tất yếu và khách
quan, nên không thể đặt vấn đề tham gia hay không tham gia mà chỉ có thể là