Tải bản đầy đủ (.doc) (140 trang)

Ths BCH báo chí địa phương khu vực miền núi phía bắc với vấn đề phát triển khoa học và công nghệ hiện nay (nghiên cứu 2 trường hợp phú thọ, tuyên quang năm 2016)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8 MB, 140 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CNH,HĐH

: Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

KH&CN

: Khoa học và Cơng nghệ

KHKT

: Khoa học kỹ thuật

KT-XH

: Kinh tế - xã hội

PT-TH

: Phát thanh – Truyền hình

UBND

: Ủy ban nhân dân

UD&CG

: Ứng dụng và chuyển giao


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vùng trung du và miền núi phía Bắc có 14 tỉnh gồm 10 tỉnh thuộc khu
vực Đông Bắc và 4 tỉnh Tây Bắc, đây là vùng có vị trí địa lý đặc biệt quan
trọng về chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. Bên cạnh những tiềm năng,
thuận lợi thì vùng trung du và miền núi phía Bắc vẫn là vùng cịn nhiều khó
khăn (một số nơi ở vùng cao có thể nói là khó khăn nhất so với cả nước) với
điều kiện tự nhiên không thuận lợi, cơ sở hạ tầng yếu kém, thu nhập bình
qn đầu người cịn nhỏ so với trung bình cả nước. Để góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền núi phía Bắc thì KH&CN đóng vai
trị là chìa khóa then chốt của vấn đề. Để KH&CN đi vào được sản xuất và
đời sống, bên cạnh vai trò quyết định của các nhà khoa học, các nhà quản lý,
doanh nghiệp, người dân thì cũng phải kể đến vai trị quan trọng của báo chí truyền thơng. Báo chí – truyền thơng có vai trị đi đầu và chủ lực trong việc
tun truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước về KH&CN. Đó là việc đăng tải phổ biến, định hướng kịp thời các văn
bản chủ trương, chính sách về KH&CN; phát hiện, cổ vũ, biểu dương những
điển hình, nhân tố mới có cách làm sáng tạo trong hoạt động nghiên cứu,
ƯD&CG KH&CN. Báo chí cũng mang vai trò phản ánh, giới thiệu, phổ biến,
nhân rộng các hoạt động KH&CN trên cả nước.
Thực tiễn cho thấy, báo chí địa phương khu vực miền núi phía Bắc,

trong những năm qua, có vai trị quan trọng trong hoạt động tuyên truyền,
thông tin định hướng về KH&CN. Các tác phẩm báo chí đã phản ánh khá tốt
về mọi mặt hoạt động KH&CN của các nhà nghiên cứu khoa học, địa phương,
doanh nghiệp cũng như của người dân; đi vào các nội dung cấp bách, phổ
biến và thực tiễn của đời sống KT-XH. Nhiều tác phẩm có chất lượng tốt, bài
viết thể hiện sự đầu tư, chuẩn bị công phu của các tác giả về các chủ đề có


2

tính thời sự, các đánh giá bình luận cũng đã phản ánh được yêu cầu và tác
động của hoạt động KH&CN. Báo chí địa phương có cái nhìn đa chiều, tư
vấn, phản biện, đưa những hình ảnh thiết thực, bất cập để cùng nhau tháo gỡ
vấn đề và để đổi mới, phát triển tốt trong nhiệm vụ chung của KH&CN.
Nhiều bài báo đã đặt ra những vấn đề mới, phản ánh được những chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước, đặc biệt là chương trình trọng điểm hay quan
điểm của Bộ KH&CN để góp phần thúc đẩy nền KH&CN nước nhà phát triển
và hội nhập, góp phần xây dựng kinh tế tốt hơn.
Tuy nhiên, theo báo cáo Kết quả hoạt động KH&CN các tỉnh thuộc
khu vực miền núi phía Bắc năm 2016, cơng tác truyền thơng của báo chí địa
phương khu vực hiện nay vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển quan trọng của
KH&CN và cũng chưa được quan tâm nhìn nhận đúng mức. Hoạt động truyền
thơng KH&CN, hiện còn nhiều hạn chế. Đây cũng là nhận định của lãnh đạo
Bộ Khoa học và Công nghệ tại Hội nghị giao ban KH&CN các tỉnh khu vực
miền núi phía Bắc năm 2016 tại tỉnh Hồ Bình. Trong các nội dung đưa ra
thảo luận tại các hội nghị giao ban của khu vực, thơng tin truyền thơng về
KH&CN cũng rất ít khi được nhắc tới. Những giải pháp đưa ra còn chung
chung, chưa có tính khả thi.
Truyền thơng về KH&CN tương đối khó do những đặc thù như tính
phức tạp, địi hỏi tính chính xác cao, thơng tin khơ khan, khơng dồi dào, kém

hấp dẫn, chất lượng thông tin về KH&CN trên báo chí chưa cao... Nội dung
thơng tin KH&CN cịn mang tính một chiều, chưa phản ánh kịp thời hoạt
động KH&CN của đất nước, cịn nhiều thơng tin sai hoặc thiếu chính xác về
KH&CN. Hình thức thơng tin KH&CN trên một số tờ báo chưa phù hợp,
chưa sinh động, chưa đạt hiệu quả, tính chun nghiệp chưa cao. Bên cạnh
đó, bản thân những người có trách nhiệm cung cấp thơng tin cho báo chí về
KH&CN cũng cịn hạn chế. Các nhà khoa học thì thường khơng thích giới
thiệu, khơng muốn viết những kết quả mình đã làm. Tiếp cận nguồn thông tin


3

đã khó, khi tiếp cận được thì những báo cáo khoa học khơ khan cũng rất khó
chuyển tải thành các tác phẩm báo chí đại chúng. Do vậy, người viết báo về
KH&CN phải chịu nhiều thiệt thịi, khó tìm được người đam mê nghiên cứu
sâu về lĩnh vực này.
Chính vì vậy, việc nhận dạng báo chí địa phương khu vực miền núi phía
Bắc trong xu hướng vận động và phát triển của báo chí Việt Nam, trong sự phát
triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng KH&CN, rất cần thiết nhằm phát huy vai trò
tiên phong trong hoạt động tuyên truyền, thông tin định hướng về KH&CN, là
lực lượng đi đầu và chủ lực trong việc tuyên truyền đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về KH&CN, góp phần đắc lực cho sự
nghiệp phát triển KT-XH của các tỉnh khu vực miền núi phía Bắc.
Bản thân tác giả luận văn là một cán bộ đã có gần 15 năm kinh nghiệm
làm công tác thông tin truyền thông về KH&CN tại tỉnh Phú Thọ; từng tham
gia nhiều dự án truyền thơng về KH&CN; hiện đang là Phó Giám đốc Trung
tâm Thông tin và Thống kê KH&CN phụ trách nội dung thông tin và truyền
thông KH&CN, thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Phú Thọ. Trung tâm Thông
tin và Thống kê KH&CN nơi tác giả công tác được UBND tỉnh Phú Thọ ký
Quyết định chỉ định là cơ quan đầu mối Thông tin KH&CN của tỉnh. Do vậy,

tác giả hiểu rất rõ vai trò và trách nhiệm của báo chí truyền thơng về KH&CN
đối với KT-XH ở các tỉnh khu vực miền núi phía Bắc nói riêng và các tỉnh,
thành trên cả nước nói chung.
Với những lí do trên, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Báo chí địa
phương khu vực miền núi phía Bắc với vấn đề phát triển khoa học và công
nghệ hiện nay (Nghiên cứu 2 trường hợp Phú Thọ, Tuyên Quang năm
2016)” làm luận văn tốt nghiệp thạc sĩ ngành Báo chí học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cho đến nay vấn đề báo chí với vấn đề phát triển KH&CN được nhiều
học giả quan tâm nghiên cứu. Có thể kể đến một số nghiên cứu liên quan như:


4

- TS. Đặng Kim Sơn, (2008), “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt
Nam – Hôm nay và mai sau”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã
cung cấp nhiều thơng tin có giá trị lý luận và thực tiễn về bức trang kinh tế
nông nghiệp Việt Nam. Trong tất cả các nội dung của cuốn sách, tác giả đặc
biệt nhấn mạnh tới vai trị của truyền thơng KH&CN phục vụ phát triển sản
xuất trong quá trình đi lên CNH, HĐH.
- Trịnh Vũ Hồng Nga, (2010), “Chính sách phát triển mạng lưới
thông tin KH&CN phục vụ nông nghiệp nông thôn trong thời kỳ hội
nhập”, Luận văn Thạc sĩ. Luận văn đã trình bày cơ sở lý luận về chính
sách phát triển mạng lưới thông tin KH&CN phục vụ nông nghiệp nông
thôn trong thời kỳ hội nhập. Thực trạng mạng lưới thông tin KH&CN
phục vụ nông nghiệp nông thôi tại các tỉnh phía Bắc. Đề xuất chính sách
phát triển mạng lưới thông tin KH&CN phục vụ nông nghiệp nông thôn
các tỉnh phía Bắc trong thời kỳ hội nhập.
- Bùi Hồng Vân, (2011), “Vấn đề chỉ dẫn – tư vấn khoa học kĩ thuật
nơng nghiệp cho nơng dân trên báo chí Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ. Luận

văn phân tích thực trạng chỉ dẫn, tư vấn khoa học kỹ thuật cho nơng dân trên
báo chí Việt Nam, những mặt được và chưa được. Từ đó, đề xuất các giải
pháp để nâng cao hiệu quả chỉ dẫn, tư vấn. Luận văn có tính ứng dụng thực
tiễn cao cho các phương tiện truyền thông về chỉ dẫn, tư vấn khoa học nông
nghiệp cho nông dân Việt Nam.
- Lê Thái Hà, 2012, “Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên
báo in hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ. Luận văn góp phần làm sáng rõ nội dung
nhận thức về nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam và vị trí của nó
trong sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước thông qua hoạt động báo chí
truyền thơng. Qua đó, khẳng định những đóng góp của báo in trong việc tuyên
truyền đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống và trách nhiệm nâng cao chất
lượng tuyên truyền về nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên báo in, chỉ ra
những biện pháp khả thi cho quá trình này.


5

- Nguyễn Quân – Bộ trưởng Bộ KH&CN – Trên tạp chí Hoạt động
KH&CN tháng 9/2013 với bài “Hoạt động KH&CN phục vụ phát triển
nông nghiệp, nông dân và nông thôn theo Nghị quyết 26-NQ/TW ”. Bài
viết đã đưa ra những đánh giá khách quan về hoạt động nghiên cứu
KH&CN nói chung và hoạt động nghiên cứu, ứng dụng KH&CN trong
nơng nghiệp nói riêng theo Nghị quyết 26. Theo Bộ trưởng, KH&CN thời
gian qua đã được Chính phủ đầu tư có trọng tâm, trọng điểm nên đã đi vào
chiều sâu, coi trọng tính ứng dụng, do đó đã đóng góp một phần không
nhỏ vào nhiệm vụ phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững. Tuy
nhiên, công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức về KH&CN đến với
người dân còn nhiều bất cập. Vì vậy, yêu cầu cấp bách hiện nay là cần có
những đột phá trong cơng tác tun truyền, phổ biến kiến thức KH&CN
để người dân thực sự hưởng lợi từ KH&CN.

- Lê Quốc Doanh, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, (2013), Tài liệu phục vụ Hội nghị toàn quốc đánh giá hoạt động
KHCN theo Nghị quyết 26 “Kết quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN trong
nông nghiệp, nông dân, nông thôn theo Nghị quyết 26-NQ/TW”. Nội dung
tài liệu đã nhấn mạnh nhiệm vụ của công tác nghiên cứu khoa học chính
là tăng cường nghiên cứu phát triển công nghệ cao trong nông nghiệp,
từng bước xây dựng và hình thành nền nơng nghiệp ứng dụng cơng nghệ
cao, hình thành vùng sản xuất nơng nghiệp cơng nghệ cao.
- Nguyễn Hữu Khánh, (2015),“Báo in khu vực Tây Nam Bộ tuyên truyền
ứng dụng KH&CN trong sản xuất, bảo quản, chế biến và quảng bá sản phẩm
nông nghiệp địa phương hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền. Luận văn đã phân tích, đánh giá thực trạng đang đặt ra hiện nay
của nông dân, doanh nghiệp, báo chí, nhất là quan điểm, nhận thức cịn hạn chế
đến hiệu quả tuyên truyền trên báo chí hiện nay chưa cao. Từ những phân tích đó
luận văn đã có những giải pháp chung và giải pháp riêng nhằm nâng cao khả
năng cung ứng nhu cầu thông tin hiện nay của báo chí đối với người sản xuất.


6

- Trần Thị Dung, (2015), “Truyền thông về khoa học công nghệ trên
cổng thông tin điện tử Sở KH&CN các tỉnh miền Đơng Nam Bộ”, Luận văn
thạc sĩ Báo chí học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã dựa trên cơ sở lý
luận chung và các tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động của cổng TTĐT,
luận văn khảo sát việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên
cổng thông tin điện tử để nắm rõ thực trạng các cổng thông tin điện tử như thế
nào, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông khoa học
công nghệ trên cổng thông tin điện tử Sở KH&CN ba tỉnh miền Đông Nam
Bộ, cũng như bước đầu gợi ý những hướng đi cho các cổng thơng tin của các
cơ quan nhà nước khác.

Ngồi ra, cịn có nhiều tác phẩm bảo chí, dự án, tiểu luận, khóa luận cử
nhân ít nhiều liên quan đến đề tài này, tuy nhiên, chưa có cơng trình khoa
học nào nghiên cứu sâu và cụ thể vấn đề phát triển KH&CN phục vụ phát
triển nông nghiệp của địa phương khu vực miền núi phía Bắc trên phương
diện Báo chí học. Cũng chưa có cơng trình nghiên cứu nào có những khảo
sát, đánh giá về thực trạng báo chí viết về KH&CN ở các tỉnh khu vực
miền núi phía Bắc; ảnh hưởng của báo chí đối với vấn đề phát triển
KH&CN; chỉ ra những giải pháp để báo chí góp phần thúc đẩy KH&CN
các tỉnh miền núi phía Bắc phát triển. Vì vậy, đề tài thực hiện nhằm mục
đích đánh giá chất lượng hoạt động của báo chí địa phương khu vực miền
núi phía Bắc (nghiên cứu hai trường hợp Phú Thọ và Tuyên Quang 2016)
với vấn đề phát triển KH&CN phục vụ phát triển KT-XH dưới góc độ báo
chí truyền thơng đại chúng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn điều
tra, khảo sát thực trạng của công tác truyền thông của báo chí địa phương khu
vực miền núi phía Bắc với vấn đề phát triển KH&CN, rút ra những thành công


7

và hạn chế của báo chí địa phương, tìm ra nguyên nhân; từ đó, đề xuất các giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng báo chí với vấn đề phát triển KH&CN phục vụ
phát triển KT-XH khu vực miền núi phía Bắc hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn sẽ thực hiện
những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến đề tài;
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng của báo chí địa phương khu

vực miền núi phía Bắc thơng qua 2 trường hợp (tỉnh Phú Thọ và tỉnh Tuyên
Quang) bằng việc thiết kế bảng mã và phân tích mặt báo, tác phẩm báo chí.
Từ đó thấy được những thành cơng, hạn chế báo chí của 2 địa phương với vấn
đề thông tin truyền thông phục vụ phát triển KH&CN.
- Điều tra xã hội học cơng chúng báo chí bằng bảng anket, phỏng vấn
sâu để tiếp thu ý kiến của các nhà quản lý, lãnh đạo, phóng viên cơ quan báo
chí, cơng chúng làm cơ sở để phân tích, đánh giá;
- Từ khảo sát, đề xuất giải pháp và đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả tuyên truyền của báo chí địa phương khu vực miền núi
phía Bắc với vấn đề phát triển KH&CN trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là báo chí địa phương khu vực phía
Bắc với vấn đề phát triển KH&CN hiện nay. Với trên 500 tác phẩm báo chí
viết về KH&CN của 6 cơ quan báo chí 2 tỉnh Phú Thọ và Tuyên Quang trong
năm 2016.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu được xác định là báo địa phương (báo in, báo PTTH, Báo Phú Thọ điện tử) khu vực miền núi phía Bắc.
Để đưa ra những nhận định xác thực và cái nhìn tổng thể về báo chí địa
phương khu vực này, tác giả đã quyết định khảo sát các cơ quan báo chí: Đài


8

PT-TH Phú Thọ, Báo in Phú Thọ, Báo Phú Thọ điện tử, Đài PT-TH Tuyên
Quang, Báo in Tuyên Quang và Báo Tuyên Quang điện tử tỉnh. Với 6 cơ quan
báo chí, đại diện cho 3 loại hình báo chí (PT-TH, báo in, báo điện tử), đây là
một thách thức lớn đối với tác giả nhưng để đưa ra được những đánh giá đúng
thực tiễn, kết quả nghiên cứu đảm bảo tính khoa học, tác giả vẫn quyết tâm
thực hiện lựa chọn của mình.

4.3. Phạm vi khảo sát
Về khơng gian: Khảo sát tại 2 tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang.
Về thời gian: khảo sát năm 2016.
Khu vực miền núi phía Bắc có 14 tỉnh, tuy nhiên tác giả lựa chọn
khảo sát báo chí tỉnh Phú Thọ và Tun Quang, bởi vì, tỉnh Phú Thọ là đại
diện cho tỉnh có Trung tâm Thơng tin và Thống kê KH&CN trực thuộc Sở
KH&CN, được thành lập từ năm 2003, đảm nhận nhiệm vụ thông tin
truyền thơng về KH&CN, cịn tỉnh Tun Quang đến nay vẫn chưa thành
lập Trung tâm Thông tin và Thống kê KH&CN, hoạt động thơng tin
KH&CN do phịng Quản lý Sở hữu trí tuệ - An tồn bức xạ và Thơng tin
KH&CN thực hiện.
Tại tỉnh Tuyên Quang tác giả thực hiện khảo sát công chúng tại các sở,
ban, ngành; khu dân cư thành phố Tuyên Quang; các huyện Chiêm Hóa, Hàm
Yên và Yên Sơn.
Tại tỉnh Phú Thọ tác giả thực hiện khảo sát tại các sở, ban ngành, khu
dân cư thành phố Việt Trì; các huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Thị xã Phú Thọ.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các lý thuyết sau
làm cơ sở cho việc triển khai nghiên cứu đề tài, bao gồm:
- Lý thuyết về báo chí truyền thơng nói chung và báo chí truyền thơng
về KH&CN nói riêng.


9

- Lý thuyết về vấn đề KH&CN, phát triển KH&CN, ứng dụng và
chuyển giao KH&CN.
- Lý thuyết công chúng báo chí và q trình tiếp nhận sản phẩm báo chí
về vấn đề KH&CN.

- Luận văn còn được thực hiện trên quan điểm của học thuyết Mác –
Lênin về báo chí cách mạng, về KH&CN; quan điểm, chủ trương, đường lối
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, của địa phương về KH&CN,
thông tin truyền thông về KH&CN.
5.2.Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện tốt mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, tác giả phải thực
hiện những phương pháp nghiên cứu chính sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: tìm hiểu vấn đề lý luận liên quan
đến đề tài nghiên cứu.
- Phương pháp khảo sát, thống kê: sử dụng phương pháp này để khảo
sát, thống kê, phân loại về số lượng tin, bài viết, chương trình phát sóng phản
ánh hoạt động KH&CN trên địa bàn thực hiện khảo sát (tỉnh Tuyên Quang và
tỉnh Phú Thọ năm 2016).
- Phương pháp phân tích tác phẩm: thiết kế bảng mã để phân tích các
tác phẩm báo chí viết về KH&CN, từ đó đánh giá thành cơng, hạn chế của
báo chí 2 tỉnh Phú Thọ và Tuyên Quang trong quá trình phản ánh về hoạt
động KH&CN trên bình diện nội dung và hình thức thể hiện.
- Phương pháp điều tra xã hội học: tác giả thực hiện khảo sát và thu thập ý
kiến của công chúng của tỉnh Phú Thọ và tỉnh Tuyên Quang về nội dung, hình
thức, tác động của các sản phẩm báo chí với vấn đề phát triển KH&CN của địa
phương và những ý kiến đóng góp nhằm nâng cao vai trị, trách nhiệm của báo
chí địa phương đối với vấn đề phát triển KH&CN. Cụ thể là công chúng tiếp cận
thông tin về KH&CN qua báo in, Đài PT-TH và điện tử của tỉnh Phú Thọ và
Tuyên Quang. Tác giả thực hiện khảo sát từ tháng 5 đến tháng 6 năm 2017. Đối


10

tượng điều tra là các tầng lớp nhân dân đang sinh sống và làm việc tại hai tỉnh:
Tuyên Quang và Phú Thọ. Mẫu điều tra được thực hiện theo phương pháp chọn

mẫu ngẫu nhiên phân tầng. Tổng số phiếu điều tra là 600 phiếu, số phiếu được
thu về hợp lệ đã xử lý là 593 đạt 98.83%.
- Phỏng vấn sâu: Phỏng vấn chuyên gia, lãnh đạo cơ quan quản lý về
KH&CN, lãnh đạo cơ quan báo chí, phóng viên phụ trách nội dung thông tin
truyền thông về KH&CN để thấy được thực trạng cơng tác truyền thơng về
KH&CN báo chí đến vấn đề phát triển KH&CN của địa phương.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác
như: phương pháp tổng hợp, xử lý chạy số liệu khảo sát, chạy tương quan
bằng phương pháp điều tra xã hội học; phương pháp so sánh. Kế thừa một
cách có chọn lọc những kết quả nghiên cứu, tài liệu có liên quan đến đề tài.
6. Tính mới của luận văn
Từ việc khảo sát, nghiên cứu, đánh giá thực trạng của báo chí một số
tỉnh miền núi phía Bắc với vấn đề phát triển KH&CN, có thể chỉ ra những
thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những giải pháp để nâng cao vai trị của
báo chí địa phương khu vực miền núi phía Bắc trong việc góp phần thúc đẩy
KH&CN phát triển. Đây là một nội dung nghiên cứu hoàn toàn mới, chưa một
cá nhân, tổ chức nào nghiên cứu một cách cụ thể và chi tiết tại khu vực này.
7. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa khoa học
- Luận văn đã tổng hợp, hệ thống hóa những vấn đề nhận thức về vai
trị của báo chí địa phương khu vực miền núi phía Bắc với vấn đề phát triển
KH&CN.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thay đổi những mặt tồn tại của báo chí
địa phương đối với vấn đề phát triển KH&CN để có thể đáp ứng tối đa nhu
cầu và tâm lý tiếp nhận thông tin của công chúng. Đồng thời tham mưu, giúp
các cơ quan báo chí truyền thơng địa phương nắm bắt những phương pháp
thông tin truyền thông về KH&CN một cách hiệu quả.


11


- Qua nghiên cứu, khảo sát, tác giả hy vọng luận văn sẽ trở thành tài liệu
tham khảo có ích cho việc học tập, nghiên cứu của các sinh viên ngành Báo chí
và Truyền thơng, đồng thời cũng mong muốn góp phần giúp cho các nhà nghiên
cứu, các nhà lãnh đạo, quản lý có thể định hướng, chỉ đạo các hoạt động báo chí,
truyền thơng về KH&CN ngày càng có những đóng góp quan trọng, thiết thực
đối với sự phát triển KT-XH trên một địa bàn cụ thể cũng như cả nước.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả đạt được của luận văn nếu được áp dụng triển khai, thực hiện
sẽ nâng cao hiệu quả tuyên truyền của báo chí địa phương với vấn đề phát
triển KH&CN, góp phần phát triển KT-XH của các địa phương.
- Luận văn là công trình nghiên cứu đề cập một cách cơ bản và hệ
thống về hoạt động của báo chí địa phương với vấn đề phát triển KH&CN. Do
đó, nó có ý nghĩa tích cực nhằm chia sẻ kinh nghiệm với các cơ quan báo chí,
nhà khoa học, các doanh nghiệp, nhà quản lý đã và đang quan tâm đến việc
đưa KH&CN đến gần hơn với thực tiễn sản xuất và đời sống của người dân cả
nước nói chung và các tỉnh miền núi phía Bắc nói riêng.
- Đối với tỉnh Phú Thọ, với nhiệm vụ được giao, từ các kết quả nghiên
cứu, tác giả sẽ có những cơ sở đề xuất, tham mưu với lãnh đạo Sở Khoa học
và Cơng nghệ trình UBND tỉnh thực hiện các dự án truyền thông về KH&CN,
các nhiệm vụ, giải pháp để đẩy mạnh hoạt động thông tin và truyền thông về
KH&CN của địa phương. Cũng từ những kết quả nghiên cứu, tác giả cũng sẽ
mạnh dạn có những ý kiến tham luận tại Hội nghị giao ban về KH&CN các
tỉnh Khu vực miền núi phía Bắc tổ chức hàng năm để góp tiếng nói giúp cho
hoạt động truyền thông KH&CN thực sự thể hiện vai trị của mình đối với sự
phát triển KH&CN địa phương, góp phần phát triển KT-XH.
8. Kết cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung chính của luận văn gồm 3 chương như sau:



12

Chương 1. Cơ sở lý luận báo chí truyền thơng với vấn đề phát triển
KH&CN.
Chương 2.Thực trạng báo chí địa phương khu vực miền núi phía Bắc
với vấn đề phát triển KH&CN hiện nay.
Chương 3. Giải pháp, kiến nghị nâng cao chất lượng báo chí địa
phương khu vực miền núi phía Bắc, góp phần thúc đẩy KH&CN phát triển.


13

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG
VỚI VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
1.1 Một số khái niệm cơ bản của vấn đề nghiên cứu
1.1.1 Báo chí - truyền thơng
- Báo chí:
+ Theo quan niệm dân gian trong xã hội Việt Nam ngày trước, báo chí
nhiều khi được ví như “thằng mõ”, là người đưa tin có tính chất cơng báo, làm
nhiệm vụ loan báo cho dân làng biết những gì đã, đang và sắp xảy ra.
+ Theo Bách khoa toàn thư,
Báo, hay gọi đầy đủ là Báo chí (xuất phát từ 2 từ "báo" - thơng báo
- và "chí" - giấy), hay cịn có tên gọi cũ là Tân văn (như trong Phụ nữ tân
văn, Lục Tỉnh tân văn ), nói một cách khái quát là những xuất bản phẩm
định kỳ nhằm báo cáo về các sự vật, hiện tượng hay con người nổi bật
trong ngày mà xã hội cần quan tâm.
Báo chí là một bộ phận của truyền thơng đại chúng, nhưng là bộ phận
chiếm vị trí trung tâm, vai trị nền tảng và có khả năng quyết định tính chất,

khuynh hướng, chi phối năng lực và hiệu quả tác động của truyền thơng đại
chúng. Do đó, trong nhiều trường hợp, có thể dùng báo chí để chỉ truyền
thơng đại chúng; và ngược lại, nói đến truyền thơng đại chúng - trước hết phải
nói đến báo chí.
Báo chí trong trường hợp này được dùng, được hiểu theo nghĩa rộng,
bao gồm báo in, báo chí phát thanh, báo chí truyền hình, báo mạng điện tử
(“phát hành” trên mạng internet) và hãng thông tấn. Báo chí theo nghĩa hẹp, là
bao gồm báo, tạp chí và bản tin thời sự.
Báo chí là hiện tượng xã hội đa nghĩa, phức tạp và có nhiều cách tiếp
cận khơng giống nhau trong các xã hội có thể chế chính trị khác nhau.


14

+ Khái niệm báo chí tiếp cận từ quan điểm hệ thống:
Khi nhìn nhận xã hội như một hệ thống trong tổng thể đang
vận hành, báo chí cũng cần được tiếp cận từ quan điểm hệ thống;
nhìn nhận báo chí như một tiểu hệ thống cấu thành hệ thống xã hội
nói chung; trong đó, báo chí là một bộ phận cấu thành và chịu sự
chi phối của hệ thống lớn cũng như sự tác động của các tiểu hệ
thống (hoặc hệ thống con). Trong hệ thống tổ chức quyền lực chính
trị khác nhau, dù cho quan điểm, chính sách và phương thức khai
thác, sử dụng báo chí khác nhau, nhưng giữa chúng vấn có những
điểm chung. Điểm chung này xuất phát từ bản chất của báo chí
truyền thơng – là hoạt động thông tin – giao tiếp xã hội hữu hiệu
nhất, là công cụ và phương thức can thiệp xã hội hiệu quả nhất
trong mối quan hệ với công chúng và dư luận xã hội, với nhân dân
và với các nhóm lợi ích, với các nước trong khu vực và quốc tế…
[18, tr.61].
Tiếp cận từ quan điểm hệ thống, có thể nêu ra khái niệm báo chí bao

gồm các thành tố và mối quan hệ giữa các thành tố ấy như sau:


15

Sơ đồ này định nghĩa khái niệm báo chí theo nghĩa rộng, ở
bình diện vĩ mơ của nền báo chí cũng như có thể tiếp cận nó trên
bình diện vi mơ khi xem xét các hiện tượng báo chí trong hoạt
động thực tiễn. Từ đó, cách nhìn nhận báo chí và hoạt động báo chí
theo một quan điểm khoa học – thực tế và luôn vận động, chi phối
hoạt động thực tiễn trong quá trình sản xuất các ấn phẩm báo chí,
trong quan hệ với cơng chúng – thị trường, với các nhóm xã hội và
nhóm lợi ích, cũng như trong quan hệ với quyền lực chính trị và các
thể chế khác, trên phạm vi mỗi nước. [18, tr.62].
Tuy phương tiện truyền tải báo chí thay đổi theo thời gian, các
nghiệp vụ báo chí vẫn bao gồm: tìm hiểu thơng tin, phân tích thơng tin
và phổ biến thơng tin đến độc giả. Mở rộng ra, khái niệm báo chí cũng
được sử dụng cho các phương pháp tìm kiếm tin tức, lối viết văn trên
báo chí, và các hoạt động (chuyên nghiệp hay khơng chun nghiệp) của
báo chí.


16

Theo thời gian, phương tiện truyền tải của thông tin đi từ nhật báo, tạp
chí (trên giấy) tới đài phát thanh, đài truyền hình (trên loa đài) tới các ấn bản
điện tử trên web (báo điện tử).
Trong xã hội hiện đại, báo chí là người cung cấp thơng tin chính và
phản hồi ý kiến về các vấn đề của công chúng. Tuy nhiên báo chí khơng phải
lúc nào cũng chỉ giới hạn ở tìm kiếm và truyền tải thơng tin. Truyền thơng báo

chí có thể mở rộng sang các hình thức khác như văn học và điện ảnh. Ở một
số quốc gia, báo chí bị chính phủ kiểm sốt và khơng phải là một cơ quan
hồn tồn độc lập.
+ Khái niệm Báo chí cịn được quy định trong Luật Báo chí sửa đổi ban
hành ngày 05 tháng 4 năm 2016, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01
năm 2017: “Báo chí là sản phẩm thơng tin về các sự kiện, vấn đề trong đời
sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất
bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới đông đảo cơng chúng thơng qua các
loại hình báo in, báo nói, báo hình, báo điện tử.
Hoạt động báo chí là hoạt động sáng tạo tác phẩm báo chí, sản
phẩm báo chí, sản phẩm thơng tin có tính chất báo chí; cung cấp thông
tin và phản hồi thông tin cho báo chí; cải chính thơng tin trên báo chí;
xuất bản, in, phát hành báo in; truyền dẫn báo điện tử và truyền dẫn,
phát sóng báo nói, báo hình”.
Mỗi khái niệm báo chí nêu trên đều đúng nhưng chưa hồn tồn đầy
đủ. Theo tác giả, Báo chí truyền thơng là hoạt động thông tin – giao tiếp xã
hội hữu hiệu, là công cụ và phương thức can thiệp xã hội hiệu quả nhất trong
mối quan hệ với công chúng và dư luận xã hội, với nhân dân và với các nhóm
lợi ích, với các nước trong khu vực và quốc tế… Báo chí là sản phẩm thơng
tin về các sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội thể hiện bằng chữ viết, hình


17

ảnh, âm thanh, được sáng tạo, xuất bản định kỳ và phát hành, truyền dẫn tới
đông đảo công chúng thông qua các loại hình báo chí khác nhau.
- Truyền thơng:
+ Theo Bách khoa tồn thư,
Truyền thơng (từ Latin: commūnicāre, nghĩa là "chia sẻ") là hoạt động
truyền đạt thông tin thông qua trao đổi ý tưởng, cảm xúc, ý định, thái độ,

mong đợi, nhận thức hoặc các lệnh, như ngôn ngữ, cử chỉ phi ngơn ngữ, chữ
viết, hành vi và có thể bằng các phương tiện khác như thông qua điện từ, hóa
chất, hiện tượng vật lý và mùi vị. Đó là sự trao đổi có ý nghĩa của thơng tin
giữa hai hoặc nhiều thành viên.
+ Truyền thơng có gốc từ tiếng Latinh là “commūnicāre”, nghĩa là biến
nó thành thơng thường, chia sẻ, truyền tải. Truyền thông thường được mô tả
như việc truyền ý nghĩ, thông tin, ý tưởng, ý kiến hoặc kiến thức từ một
người/một nhóm người sang một người/hoặc một nhóm người khác bằng lời
nói, hình ảnh, văn bản hoặc tín hiệu. Về thực chất, đó chính là q trình trao
đổi, tương tác thơng tin với nhau về các vấn đề của đời sống cá nhân/nhóm/xã
hội, từ đó tăng vốn hiểu biết chung, hình thành hoặc thay đổi nhận thức, thái
độ, chuyển đổi hành vi cá nhân/nhóm/xã hội.
+ Theo John R.Hober (1954), truyền thơng là q trình trao đổi tư duy
hoặc ý tưởng bằng lời.
+ Martin P. Adeslsm thì cho rằng, truyền thơng là q trình liên tục, qua đó
chúng ta hiểu được người khác và làm cho người khác hiểu được chúng ta. Đó là
một q trình ln thay đổi, biến chuyển và ứng phó với tình huống…
Cịn rất nhiều quan niệm khác nhau về truyền thông. Mỗi khái niệm lại
có khía cạnh hợp lý riêng. Tuy nhiên các khái niệm có những điểm chung,
những nét tương đồng. Từ các quan niệm trên đây và thực tiễn vận động của
truyền thơng, có thể nêu ra khái niệm chung nhất về truyền thông như sau:


18

Truyền thơng là q trình liên tục trao đổi thơng tin, tư
tưởng, tình cảm…, chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm giữa hai hoặc
nhiều người với nhau nhằm mở rộng hiểu biết, nâng cao nhận
thức, tiến tới điều chỉnh hành vi và thái độ phù hợp với nhu cầu
phát triển của cá nhân, của nhóm và của cộng đồng xã hội nói

chung, bảo đảm sự phát triển bền vững.[18, tr.15].
Trong các loại hình và dạng thức truyền thơng, cần chú ý truyền thông
đại chúng. Truyền thông đại chúng là những kênh truyền thông hướng tác
động vào đông đảo công chúng; nó có vai trị quyết định sức mạnh, tính chất
và khuynh hướng của nền truyền thông. Trong truyền thông đại chúng, báo
chí với các loại hình báo in, phát thanh, truyền hình, báo mạng điện tử là
những kênh truyền thơng có vai trị nền tảng, vị trí trung tâm và ý nghĩa quyết
định đối với truyền thơng nói chung. Bởi vì, truyền thơng đại chúng có thể
được hiểu là hệ thống (hoặc mạng lưới) các phương tiện truyền thông hướng
tác động vào đông đảo công chúng xã hội (nhân dân các vùng miền, cả nước,
khu vực hay cộng đồng quốc tế) để thông tin, chia sẻ, nhằm lôi kéo và tập
hợp, giáo dục thuyết phục và tổ chức đông đảo cơng chúng xã hội và nhân
dân nói chung tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế, văn hóa, xã hội đã và
đang đặt ra, bảo đảm phát triển bền vững.
Báo chí có vai trị chi phối, quyết định sức mạnh, tính chất và khuynh
hướng của truyền thơng đại chúng. Cho nên, trong nhiều trường hợp, người ta
dùng thuật ngữ báo chí để chỉ các phương tiện truyền thơng đại chúng; mặt
khác, nói đến truyền thơng đại chúng, trước hết là nói đến báo chí (hay giới
truyền thơng nói chung). Thơng tin báo chí và thơng tin trên các phương tiện
truyền thơng khác có sự khác biệt căn bản, nhưng giữa chúng có sự chia sẻ,
phối hợp, kết nối để gia tăng sức tác động và sự lan tỏa trên diện rộng cũng
như len lỏi vào công chúng xã hội theo nhóm nhỏ.


19

Như vậy, khái niệm trên đã chỉ ra bản chất và mục đích truyền thơng.
Về bản chất, truyền thơng là quá trình chia sẻ, trao đổi hai chiều, diễn ra liên
tục giữa chủ thể truyền thông và đối tượng truyền thơng. Khi có sự chênh lệch
trong nhận thức, hiểu biết… giữa chủ thể và đối tượng truyền thông gắn với

nhu cầu chia sẻ, trao đổi thì hoạt động truyền thơng diễn ra. Q trình truyền
thơng vì vậy chỉ kết thúc khi đã đạt được sự cân bằng trong nhận thức, hiểu
biết… giữa chủ thể và đối tượng truyền thông. Về mục đích, truyền thơng
hướng đến những hiểu biết chung nhằm thay đổi thái độ, nhận thức, hành vi
của đối tượng truyền thông và tạo định hướng giá trị cho công chúng.
- Truyền thông hiện nay được coi như là một thiết chế kiến tạo xã hội:
Gần đây, những cụm từ “chính phủ kiến tạo, chính phủ hành động,
chính phủ phục vụ, chính phủ liêm chính” được sử dụng thường xuyên. Đặc
biệt trong đó, cụm từ “chính phủ kiến tạo” là một khái niệm khá mới trong
tiếng Việt, rất hay, sâu sắc.
Việt Nam đang đi theo hướng xây dựng một “chính phủ kiến tạo”. Một
chính phủ kiến tạo và phục vụ sẽ không phải là một thiết chế được sinh ra để
giải quyết các vấn đề của chính nó (qua đó tiêu hao phần lớn các nguồn lực
cho nhân sự và hoạt động của bộ máy) mà để xử lý các vấn đề mà người dân
và xã hội có nhu cầu. Ngành KH&CN đã và đang hướng đến mục tiêu xây
dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động phục vụ nhân dân, doanh
nghiệp; nâng cao chất lượng xây dựng, triển khai chính sách, pháp luật; tăng
cường nâng cao hiệu quả phối hợp công tác, đưa KH&CN gắn chặt với việc
thực hiện chương trình, kế hoạch phát triển của các ngành, lĩnh vực, địa
phương; đơn giản hoá các thủ tục hành chính; phát triển hệ sinh thái khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo; triển khai thí điểm cơ chế đối tác cơng – tư…
Đồng hành cùng với “chính phủ kiến tạo”, báo chí truyền thơng đã làm
gì? Có thể khẳng định rằng, báo chí truyền thơng có vai trị rất lớn và được
coi như một thiết chế góp phần kiến tạo xã hội.


20

Trong hoạt động truyền thơng có hai loại: truyền thơng một chiều và
truyền thông hai chiều. Trong bối cảnh hiện nay, khi chúng ta đang nỗ lực xây

dựng một “chính phủ kiến tạo” thì truyền thơng hai chiều được ứng dụng
rộng rãi. Truyền thơng hai chiều chính là có sự phản hồi thông tin từ đối
tượng tiếp nhận thông điệp đến nguồn phát. Thông tin phản hồi từ đối tượng
tiếp nhận là một yếu tố quan trọng nhằm tăng cường hiệu quả của các hoạt
động truyền thơng. Mơ hình truyền thông hai chiều được ứng dụng ngày càng
nhiều trong điều kiện hiện nay khi mà giới truyền thông luôn mong muốn có
sự cân bằng trong truyền thơng để đạt được sự chia sẻ, phản hồi, qua đó có
những thay đổi mang tính tích cực đối với cả chủ thể truyền thông và khách
thể truyền thông. Những thành quả mà truyền thơng KH&CN mang lại đang
góp phần khẳng định báo chí truyền thông hiện nay đã trở thành một thiết chế
kiến tạo xã hội.
- Truyền thơng nói chung và truyền thơng KH&CN hiện nay đã phát
huy vai trị của mình trong môi trường truyền thông số:
Trong xã hội thông tin thời đại số, các phương tiện truyền thông đại
chúng đã và đang trở thành diễn đàn chia sẻ thơng tin, tình cảm, kỹ năng, kinh
nghiệm… của đông đảo công chúng. Sản xuất, trao đổi, chia sẻ thông tin là
một trong những hoạt động chủ yếu trong nền kinh tế tri thức và xã hội số
hố. Truyền thơng đại chúng tác động và làm thay đổi thái độ, nhận thức, dư
luận xã hội, tạo nên định hướng giá trị cộng đồng. Truyền thơng đại chúng
cũng mang mục đích chính trị sâu sắc. Đối tượng phản ánh của truyền thông
đại chúng bao gồm các sự kiện và vấn đề về mọi lĩnh vực khác nhau của cuộc
sống, nó đáp ứng mọi nhu cầu phát triển của con người và xã hội từ tâm lý,
tình cảm, nhận thức đến hiểu biết, hành vi…
Một điều khơng thể phủ nhận là tất cả các nước có nền KH&CN phát
triển thì hệ thống truyền thơng của họ cũng rất phát triển. Sự phát triển mạnh
mẽ của KH&CN tác động trực tiếp đến hoạt động cung cấp thông tin cũng


21


như nhu cầu thơng tin của cơng chúng. Ví dụ, Mỹ không chỉ là cường quốc
số một về kinh tế, KH&CN, quân sự… mà còn là người khổng lồ trong lĩnh
vực truyền thơng. Trung bình cứ 1 người dân Mỹ sở hữu tới 2 radio và 1 tivi.
Để đáp ứng nhu cầu thông tin của số lượng máy thu khổng lồ này, nước Mỹ
có 1.300 đài truyền hình và hơn 10.000 đài phát thanh. Đại bộ phận đài phát
thanh và truyền hình Mỹ thuộc sở hữu tư nhân. Tại Anh, trung bình mỗi
người ngồi trước màn hình 3 giờ rưỡi để thu nhận thơng tin. Hơn 97% hộ gia
đình Anh có tivi màu, 73% có đầu máy video. Nhà nào cũng có radio và có
tới 70% người Anh bắt sóng radio hàng ngày. Ngành phát thanh, truyền hình
phát triển khá mạnh nhờ KH&CN. Đài phát thanh và truyền hình Anh (BBC)
cung cấp thuê bao duy nhất với 2 kênh truyền hình BBC1, BBC2, 5 đài phát
thanh phủ sóng tồn lãnh thổ. Hệ thống điện tử Anh tăng trưởng với tốc độ
chóng mặt về số lượng với 3 kênh truyền hình tư nhân, 3 đài phát thanh tư
nhân phát sóng tồn quốc và khoảng 200 đài khu vực... Trong thời đại phát
triển mạnh mẽ của cơng nghệ thơng tin, tồn cầu hóa truyền thơng đại
chúng, sự phát triển nhanh chóng của các phương thức, tư duy kỹ thuật đã
khiến cho nhu cầu thông tin của con người và xã hội ngày càng cao. Sự phát
triển vượt bậc của công nghệ thông tin đã đưa thế giới đến một kỷ nguyên
của các phương tiện truyền thơng dân chủ, trong đó con người tiếp cận với
thông tin mà không bị giới hạn bởi những rào cản nào. Sự đổi mới này đã
làm xuất hiện các loại phương tiện truyền thông mới, với những phương
thức phân phối, mua bán và sử dụng thông tin mới...
1.1.2. KH&CN
- Khoa học:
Tiếng La-tinh là Scientia có nghĩa là “kiến thức” hoặc “hiểu biết” là các
nỗ lực thực hiện phát minh và tăng sự hiểu biết của con người về tự nhiên - xã
hội - tư duy. Nó tồn tại dưới dạng các lý thuyết, định lý, quy luật, nguyên tắc,
phạm trù, tiền đề.



22

Theo Điều 3 Luật Khoa học và Công nghệ sửa đổi có hiệu lực ngày
01/01/2017, “Khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và
phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy” [28, tr.1].
Bên cạnh đó, Viện Ngơn ngữ học thuộc Uỷ ban Khoa học xã hội cho
rằng “Khoa học là hệ thống các tri thức tích luỹ trong quá trình lịch sử và
được thực tiễn chứng minh, phản ánh những quy luật khách quan của thế giới
bên ngoài cũng như những hoạt động tinh thần của con người, giúp con
người có khả năng cải tạo thế giới hiện thực” [52, tr.34].
Như vậy, những quan niệm được dẫn ở trên đều cho thấy bản chất của
Khoa học chính là hệ thống những tri thức mang tính quy luật. Nó có vai trị
đặc biệt quan trọng trong nhận thức và cải tạo thế giới tự nhiên phục vụ nhu
cầu tồn tại, phát triển của con người và xã hội loài người.
- Cơng nghệ:
Thuật ngữ Cơng nghệ có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp “Technologia” hay
“Vexvonopơ”, “Techne” có nghĩa là thủ cơng, “logia” có nghĩa là châm ngơn.
“Technologia” là một thuật ngữ rộng ám chỉ đến những công cụ và mưu mẹo
của con người.
Trong tiếng Anh, “Technologia” có nghĩa là “Tài nghệ học”, sự tinh sảo
của một tay nghề, một kỹ năng hay bí quyết để tạo nên một sản phẩm chất
lượng cao.
Theo tổ chức Phát triển công nghiệp của Liên hiệp quốc (UNIDO) định
nghĩa thì “Cơng nghệ là việc áp dụng khoa học và công nghiệp bằng cách sử
dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý một cách có hệ thống và có phương
pháp” [5, tr.43].
Cịn Tổ chức Uỷ ban kinh tế - xã hội Châu Á Thái Bình Dương (ESCAP)
cũng đã định nghĩa về Cơng nghệ chính là “Hệ thống các kiến thức về quy trình
và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin”. Tuy nhiên, định nghĩa này



23

sau đó được mở rộng thêm “nó bao gồm tất cả các kỹ năng, thiết bị và phương
pháp sử dụng trong chế tạo, dịch vụ, quản lý thông tin” [5, tr.43].
Viện Ngôn ngữ học thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội cho rằng “Cơng
nghệ là tổng thể nói chung các phương tiện kỹ thuật, các phương pháp tổ
chức, quản lý được sử dụng vào quy trình sản xuất để tạo ra các sản phẩm
vật chất và dịch vụ” [9, tr.57].
Theo Điều 3, Luật Khoa học và Công nghệ sửa đổi có hiệu lực ngày
01/01/2017, “Cơng nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm
theo hoặc khơng kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực
thành sản phẩm”. [28, tr.1].
Nghiên cứu khoa học là hoạt động khám phá, phát hiện, tìm hiểu bản
chất, quy luật của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo giải
pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn.
Như vậy, khoa học được hiểu là hệ thống tri thức của con người về tự
nhiên, xã hội và tư duy với bản chất và quy luật vận động của chúng được thể
hiện bằng những khái niệm, phán đoán, học thuyết định hướng hoạt động của
con người. Cịn cơng nghệ là sự ứng dụng, vật chất hóa các tri thức khoa học
vào thực tiễn sản xuất và đời sống, đó là tập hợp các giải pháp, phương pháp,
quy trình, kỹ năng, phương tiện kỹ thuật,… được sử dụng tạo ra sản phẩm vật
chất và dịch vụ cụ thể.
Thuật ngữ KH&CN là sự thể hiện, đồng hành gắn bó giữa lý luận, lý
thuyết và thực tiễn, thực hành, giữa nghiên cứu và ứng dụng thực tế.
1.1.3. Truyền thông KH&CN
- Truyền thông KH&CN:
Hiểu một cách đơn giản và khái quát nhất, thì truyền thơng KH&CN có
nhiệm vụ tun truyền các vấn đề về KH&CN và tạo cầu nối giữa những
người làm khoa học với công chúng và xã hội. Nhưng trong xã hội ngày nay,

truyền thơng KH&CN cịn có vai trị lớn hơn thế. Đó là cơng cụ để hỗ trợ và


×