Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tài liệu Các giai đoạn trong quá trình phát sinh loài người (di tích người cổ) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.87 KB, 19 trang )



Các giai đoạn trong quá trình
phát sinh loài người
(di tích người cổ)



Vài dẫn liệu về di tích người cổ
Nói chung, các quan điểm của Lamarck
và Darwin về nguồn gốc loài người dược
nhiều nhà khoa học công nhận. Tuy
nhiên, vấn đề là cần có bằng chứng để
chứng minh, đó chính là các hoá thạch.
Hoá thạch là bất kỳ dấu vết nào của sinh
vật cổ xưa còn lại trên vỏ sò, xương hay
dấu vết in trên đất đá. Các mẫu hoá thạch
đã soi sáng và cụ thể hoá quá trình xuất
hiện loài người.
Mẫu hoá thạch thường được đặt tên dựa
vào tên địa điểm tìm thấy nó.Ví dụ, mẫu
xương người tìm thấy ở vùng
Neanderthal của Đức, được gọi là người
Neanderthal.
Có thể kể ra những phát minh chủ yếu
đến năm 1965 như sau:
+ Năm 1856 tìm thấy di tích người
Neanderthal (Đức)
+ Năm 1868 - người Cro-Magnon (Pháp)

+ Năm 1981-1893: Tìm thấy di tích


người Java.
+ Năm 1907 - người Heidelberg.
+ Năm 1925 - người vượn
Australopithecus ở Thung (Nam Phi).
+ Năm 1927 - người Bắc Kinh.
+ Năm 1961 - 1964: Tìm thấy di tích
người khéo léo Homo habilis ở Onduvai
(Tanzania).
Như vậy đến năm 1965, khá nhiều hoá
thạch người cổ đã được tìm thấy góp
phần làm sáng tỏ vấn đề nguồn gốc loài
người. Trong đó nhiều dấu vết của người
cổ tìm thấy sau năm 1965 ở Đông Phi và
Nam Phi có ý nghĩa rất quan trọng.
4. Sự tiến hoá của bộ Primates
Bộ Primates gồm khoảng 180 loài. Tìm
hiểu bộ này có ý nghĩa quan trọng trong
việc làm sáng tỏ nguồn gốc loài người.
Nghiên cứu các hoá thạch cho thấy bộ
Primates được tiến hoá từ dòng thú nhỏ
giống chuột, có tập tính leo trèo sống trên
cây, ăn côn trùng. Chúng xuất hiện vào
kỷ Thứ Ba của đại Tân Sinh cách đây 70
triệu năm, sau đó tiến hoá theo nhiều
hướng theo nhiều hướng khác nhau,
nhưng vẫn giữ một số đặc điểm chung:
(l) Xương đòn không bị thoái hoá; (2)
Khớp vai phát triển làm cho cận động
được tự do theo các hướng và có khuỷu
tay thuận tiện cho vận động quay; (3)

Giữ khả năng hoạt động 5 ngón của bàn
chân; (4) Sự vận động độc lập của mỗi
ngón được tăng cường, đặc biệt ngón cái
thường đối diện với các ngón khác; (5)
Biến đổi vua thành móng phẳng; (6) Phát
triển súc giác nhậy cảm ở đầu ngón; (7)
Thu ngắn mõm; (8) Thị giác lộ ra và phát
triển khả năng nhìn nổi; (9) Bộ não phát
triển, đặc biệt là vỏ não ; (10) Thường
chỉ có hai vú và (11) Mỗi lứa thường chỉ
đẻ một con. Phần lớn các đặc điểm đó
đều liên quan tới đời sống trên cây.
Bộ Primates xuất hiện cách đây 67 triệu
năm và ít nhất là 37 triệu năm trước khi
tách ra thành 2 nhánh chủ yếu: Prosimian
(Vượn Nguyên thuỷ) và dòng tổ tiên của
người. Hiện nay vẫn tồn tại một số loài
vượn thuột dòng Prosimian, như vượn
cáo (Lemur). Có lẽ dòng vượn tổ tiên của
người đã tách khỏi nhánh chung của
Primates cách ngày nay khoảng 50 triệu
năm. Những mẫu hoá thạch thu thập
được gần đây xác nhận các tổ tiên của
Primates có mặt trên lục địa Á - Âu
(eurasia) và tổ tiên của loài người thì ở
châu Phi.
Năm 1994, các nhà khoả cổ học phát
hiện được hai mẫu hoá thạch Primates
nhỏ có khối lượng khoảng 200gr, đó là
(l) eosimias sinensis ở Trung Quốc cách

nay khoảng 45 triệu năm, được xem là
Primates cổ nhất đã tìm thấy, và (2)
Algeripithecus minutus tồn tại cách thời
nay khoảng 45-50 triệu năm được tủn
thấy trên sa mạc Sahara. Trước đó, mẫu
hoá thạch Aegytopithecus tủn thấy ở Ai
Cập có niên đại 32 triệu năm được xem
là mẫu vật cổ nhất.
Proconsul là đại diện đầu tiên đáng lưu ý
trong nghiên cứu tổ tiên xa xưa dẫn tới
phát sinh loài nghĩnh. Năm 1927, H.
Gordon đã phát hiện răng và xương của
một loài vượn cổ có niên đại 18 triệu
năm ở châu Phi. Năm 1931, A. Hopwood
cho rằng đó là một loài vượn tổ tiên của
hắc tinh tinh (chimpanze) và ông đặt tên
loài mới này do ông phát hiện thêm một
mẫu vật là Proconsul africanus. Sau đó
nhiều mẫu xương của Proconsul được
tìm thấy. Đến năm 1980, nhà khoa học
Mĩ A. Walker tình cờ phát hiện xương
của Proconsul trong đống xương động ở
bảo tàng cổ sinh học của Kenya. Sau đó,
năm 1984 các nhà chuyên môn tìm thấy
nhiều mẫu xương đủ để lắp ráp bộ xương
Proconsul khá hoàn chỉnh. Proconsul có
tập tính di chuyển chậm trên cây có thể
chuyển từ cây này sang cây khác, đu đưa
trên cành cây nhờ có tay và không có
đuôi.

Có thể Proconsul là tổ tiên chung của cả
người và vượn người, chứ không phải chỉ
là tổ tiên của hắc tinh tinh và khỉ đột.
Proconsul tồn tại ít nhất khoảng 18 triệu
năm trước đây.
Một sự kiện rất quan trọng là tìm thấy
các mẫu hoá thạch của Kenyapithecus
trong các lớp địa tầng có niên đại 10,5
triệu năm. Một số mẫu xương và răng có
tuổi địa chất từ 9 đến 6 triệu năm được
xem là tiền thân của loài người. Các dẫn
liệu khảo cổ cho phép mô tả khái quát sơ
đồ tiến hoá dẫn đến loài người như sau:
khoảng 45-50 triệu năm trước đây, người
và vượn khỉ có nguồn gốc chung là một
loài linh trưởng cổ. Các nhánh tiến hoá
của các loài khỉ có đuôi và không đuôi đã
tách nhau cách nay khoảng 25-30 triệu
năm, trong đó nhánh tiến hoá thành
người tách ra vào khoảng 5-10 triệu năm.
Do vậy xét về quan hệ họ hàng thì hắc
tinh tinh gần với người hơn cả.
Vấn đề đặt ra là cần xác định thời điểm
xuất hiện những dạng người đầu tiên.
Các mẫu hoá thạch tìm kiếm được cho
thấy Dryopithecus rất giống
Kenyapithecus châu Phi. Hoá thạch của
chúng tìm thấy ở châu Âu từ Thổ Nhĩ Kì
đến Tây Ban Nha trong những địa tầng
niên đại từ 1,5 đến 12 triệu năm. Theo

quan điểm ngày nay, Dryopithecus
không phải tổ tiên của loài người và cũng
không phải tổ tiên của đười ươi
(Orangutan). Mẫu hoá thạch
Ramapithecus được tìm thấy năm 1934 ở
phía bắc Ấn Độ, sau đó thấy ở Pakistan.
Tuy vậy, các hội nghị quốc tế về nguồn
gốc loài người vào năm 1981 và 1982
đều xác nhận Ramapithecus không phải
là tổ tiên trực tiếp của loài người. Mấu
răng và hàm của Ramapithecus giống với
đười ươi nhiều hơn hắc tinh tinh. Phân
tích hoá sinh bằng cách thử hoạt tính
protein và phản ứng kháng nguyên cũng
chứng minh điều nói trên. Ramapithecus
không phải là tổ tiên của người và cả
đười ươi. Trong khi đó, các bằng chứng
sinh học phân tử và khảo cổ học cho thấy
các dạng tổ tiên của con người chỉ xuất
hiện ở châu Phi.
Về sự phân hoá, có thể nói quá trình phát
triển của Primates từ 25 triệu năm trở lại
ngày nay được mô tả trên sơ đồ hình 21.
Điều đáng chú ý là dòng vượn phát triển
thành người được bắt nguồn từ Proconsul
vào khoảng 20 triệu năm, và tiếp sau đó
là Kenyapithecus trong khoảng 15 đến 11
triệu năm trước đây. Australopithecus
được coi là dạng đầu tiên của loài người,
mặc dầu còn nhiều nét giống vượn.

Khi mới phát hiện người cổ Java, các nhà
nghiên cứu cho rằng sự ra đời dạng
người đầu tiên được tính cách đây
khoảng 500 000 năm. Tuy vậy, các nhà
khảo cổ học dựa trên nhiều mẫu hoá
thạch lại xác định rằng con người xuất
hiện cách đây khoảng 15 triệu năm, các
nhà sinh học phân tử cho là khoảng 3
triệu năm. Sau khi tranh luận, họ tạm thời
thống nhất khoảng 7,5 triệu năm. Ngày
nay đa số quan niệm dạng người đầu tiên
ra đời khoảng 8-10 triệu năm trước đây.
Địa điểm xuất hiện loài người là ở châu
Phi, cụ thể là trên các vùng đất của
Ethiopia, Kenya, Tanzania và Nam Phi.
Khi xem xét bản đồ châu Phi, Y.
Coppens nhận thấy các địa điểm thu mẫu
hoá thạch người cổ chỉ nằm ở Đông Phi,
còn hắc tinh tinh và khỉ đột hiện đang
sống chỉ tìm thấy ở phía Tây châu Phi.
Trong khi đó mẫu hoá thạch người cổ
không tìm thấy ở phái Tây, và mẫu hoá
thạch hắc tinh tinh và khỉ đột không tìm
thấy ở Đông Phi. Sự khác nhau giữa hai
vùng này của châu Phi thể hiện rõ ở chỗ
Đông Phi là đồng cỏ (savanna), còn Tây
Phi là rừng rậm cây to. Như vậy giữa họ
Panidae (hắc tinh tinh và khỉ đột) và họ
người đã có sự cách li địa lý trong quá
trình hình thành loài. Có lẽ, khoảng 8

triệu năm trước đây có một biến cố kiến
tạo địa chất rất lớn xảy ra đã tạo thành
dãy núi ngăn cách Đông và Tây Phi là
một nhân tố tác động dẫn đến sự xuất
hiện loài người ở phía Đông.
Sự tiến hoá của các nhóm Primates có
liên quan đến các biến đổi địa chất, địa
lý, như các biến động tạo sơn, sự nối
liền lục địa châu Phi và Âu-A khoảng 15
triệu năm trước đây, và sự xuất hiện bình
nguyên do đứt gãy lục địa chạy Phi. Sự
biến đổi địa lý đó kéo theo thay đổi khí
hậu, làm cho Đông Phi trở nên khô hạn
hơn. Những biến đổi đó có ý nghĩa quan
trọng đối với sự xuất hiện loài người. Sự
cách địa lý và các điều kiện môi trường
biến đổi sâu sắc là một tiền đề đưa đến
những thay đổi căn bản vật chất di truyền
(thay đổi bộ NST), tạo điều kiện cho sự
phát sinh loài người.
Năm 1995, tại nước cộng hoà Tchad
thuộc Trung Phi, mẫu hoá thạch xương
hàm dưới của một Australopithecus được
phát hiện đã cho thấy cái nôi loài người
không chỉ là Đông Phi. Một dạng vượn
có thể gọi là người vượn đã sống cách
thời nay ít nhất 3- 4, có thể từ 8-10 triệu
năm được gọi là Australopithecus - vượn
phương Nam. Có thể xem
Australopithecus là một dạng quan trọng

trên con đường hình thành dạng người.
Mẫu hoá thạch của nhiều loài
australopithecus khác nhau tìm thấy ở
Đông Phi cũng sống trong thời gian cách
thời nay khoảng 5 triệu năm.
Năm 1924, Raymond Dart tìm thấy một
mẫu xương sọ hoá thạch ở Taung thuộc
vùng Đông Nam châu Phi, đó là sọ của
một đứa bé chừng 5-6 tuổi R. Dart khẳng
định rằng đó là một mẫu người nguyên
thuỷ và đặt tên là Australopithecus
africanus (Vượn phương Nam). Phát hiện
này được công bố trên báo Sau của
Johannesburg ngày 25/02/1925.
Đến năm 1936, Robert Broom nhận định
ý kiến của R. Dart đưa ra trước đó là
đúng và cũng năm đó ông đã tìm thấy
một hoá thạch nữ của Australopithecus.
Năm 1948, R. Broom phát hiện
Australopithecus robustus ở Kromdraii
và nghiên cứu hoá thạch của nhiều dạng
Australopithecus, rồi nhấn mạnh
Australopithecus là một giống (genus)
gồm ít nhất hai loài: A. Africanus nhỏ
hơn và A. Robustus to hơn. Theo R.
Broom, A. Africanus xuất hiện sớm hơn,
đã đi bằng hai chân, sống cách thời nay
khoảng 2 triệu năm và tổ tiên của loài
người. Sau 23 năm, đến năm 1959, hai
vợ chồng nhà khảo cổ nhân học người

Anh là Louis và Mary Leakey đã phát
hiện ở hẻm vực Onduvai (Bắc Tanzania)
các dấu vết hoá thạch của một cá thể
tương tự Australopithecus. Vào một buổi
trưa, bà Mary Leakey tìm được một mẫu
sọ não hoá thạch, đó là sọ của một vượn
người độ 18 tuổi, được đặt tên là
Zinjanthronus boisei, về sau mẫu này
được đặt tên lại là A. Boisei. Các kết quả
khai quật của hai vợ chồng Louis và
Mary Leakey thu nhận được ở Kenya và
Onduvai đã khẳng định sự tồn tại của
Australopithecus. Mẫu hoá thạch
Zinjanthropus boisei, về sau được sửa lại
là Australopithecus boisei, có niên đại
cách thời nay là 1750 000 năm. Như vậy,
người ta đã tìm thấy hoá thạch của 3 loài
Australopithecus.
Từ năm 1973 đến 1977, các nhà nghiên
cứu đã thu thập hàng trăm mẫu hoá thạch
tương ứng với ít nhất 65 cá thể, tất cả đều
thuộc Australopithecus, có niên đại
khoảng 3,8 đến 2,5 triệu năm, chúng
sống trên các đồng cỏ, ẩm, có cây bụi,
cạnh những sông và hồ lớn.
Ngày 30/11/1974, nhà nghiên cứu người
Mĩ Donald Johanson may mắn tìm thấy
mẫu xương vượn người
Australopithecus, gồm 52 xương không
trùng lặp của một cá thể khoảng 20 tuổi,

cao khoảng một mét và nặng gần 30 kg,
đó chính các mẫu xương hoá thạch của
Lucy, có ký hiệu AL 288-1. Việc xác
định niên đại cho thấy Lucy đã từng sống
cách thời nay khoảng 3,5 triệu năm, được
đặt tên loài loài A. Afarensis (Hình 27:
Hình tái tạo của Lucy). Kết quả nghiên
cứu thu nhận được cho thấy người vượn
đã sống cách đây khoảng 4 đến 6 triệu
năm: Suốt một thời gian dài sau đó, Lucy
được coi là tổ tiên của loài người. Về sau
đã được thay đổi bằng loài A. Africanus.
Các dấu vết hoá thạch của
Australopithecus được phát hiện nhiều ở
Đông Phi, trong đó một số mẫu vật đáng
chú ý là:
+ Năm 1994, phát hiện được dạng "con
trai của Lucy", đó là mẫu A. Afarensis có
niên đại 2,9 triệu năm.
+ Năm 1993, Tim White tìm thấy hoá
thạch bậc tiền bối của Lucy ở Aramis,
với hơn 50 mẫu từ 17 cá thể có niên đại
4,4 triệu năm. Đó là loài mới A.
Ramidus.
+ Năm 1995, tại nước cộng hoà Tchad
thuộc Trung Phi, người ta phát hiện
xương hàm dưới của một
australopithecus, được đặt tên là Abel
chứng tỏ cái nôi của loài người không
phải chỉ là Đông Phi. Có thể nói

Australopithecus có ít nhất 8 loài, sống
trong thời gian khá dài và đã có sự phân
hoá giới tính về hình thái, như con đực
cao trung bình 1,3 mét, nặng gần 45 kg,
con cái không cao quá 1,2 mét và mang
không quá 30 kg.
Các Australopithecus là dạng trung gian
giữa tổ tiên xa xưa và người Homo.

×