Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tài liệu Các giai đoạn trong quá trình phát sinh loài người pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.76 KB, 15 trang )

Các giai đoạn trong quá trình
phát sinh loài người

vài triệu năm và đã trải qua các giai đoạn
chính sau đây:
Vượn người hoá thạch:
+ Parapitec là vượn người cổ nhất:
Người tối cổ (người vượn) gồm:
Read More
+ Pitêcantrop
+ Xinantrop
+ Hayđenbec
- Người cổ Nêandectan
- Người hiện đại Cromanhon.

Hình 23: Vượn - Thuỷ tổ của loài người
A. Rhesus monkey
B. Chimpanzee
1. Một số phát hiện mới về nguồn gốc
loài người ở Đông Phi
Nhiều phát hiện mới ở Đông Phi đã làm
cho người ta phải thay đổi nhận thức về
giai đoạn chuyển tiếp từ con vượn sang
con người, nghĩa là từ ostralopitec đến
pitecantrop.
Phát hiện của Louis Leakey (1960) ở
Onduvai, phía Bắc Tanzania cho thấy
những di cốt mà tác giả gọi là Homo
habilis có tuổi địa chất là 1,85 - 2 triệu
năm. Thể tích não Homo habilis lớn hơn
ostralopitec, nhưng bé hơn pitecantrop.


Từ năm 1968 đến 1971, những cuộc tìm
kiếm ở vùng hồ Rudonfo (Kenia) do R.
Leakey lãnh đạo, đã phát hiện công cụ
cuội ghè có niên hiệu 2,6 triệu năm, có
thể chủ nhân của nó là người tối cổ sống
trước thời đại của Homo habilis.
Năm 1972, người ta tìm được một mảnh
sọ, được Mari Leakey dựng lại thành
chiếc sọ mang số hiệu 1470, có thể tích
800 cm3, lớn hơn sọ của Pitecantrop và
có niên đại 2,9 triệu năm. Sọ này không
có gờ trên ổ mắt, đặc trưng cho sọ của
Pitecantropus erectus. Năm 1974, tại
thung lũng sông Avas (Eliopi), người ta
phát hiện xương hàm hoá thạch có tuổi 4
triệu năm được Jonhanxon xếp vào giống
Homo, có thể nó sống cùng thời với
Austrslopitecus
Năm 1975, R. Leakey đã tìm thấy 11
homonid cổ đại có niên hiệu 3,35 - 3,75
triệu năm, trong đó có hàm của một đứa
trẻ 5 tuổi rất giống hàm của người hiện
đại.
Những phát hiện ở Đông Phi cho thấy
lịch sử của giống Homo phải dài hơn so
với những quan niệm trước đây.
Hàng loạt di tích phát hiện được cho
phép người ta quan niệm rằng con người
thoát khỏi trình độ vượn không phải cách
đây một triệu năm, mà có thể là 3 - 4

triệu năm về trước, nghĩa là khoảng cuối
thế kỷ thứ ba như Ch. R. Darwin đã tiên
đoán.
2. Giả thuyết của Machusin về nguồn gốc
loài người
Machusin (1982) giải thích rằng quá
trình đột biến do phóng xạ tự nhiên ở
vùng Đông Phi vào cuối kỷ Plioxen đã
làm xuất hiện dáng đi thẳng của vượn
người hoá thạch, tăng thể tích bộ não và
một số biến đổi khác. Để có thể tồn tại
trước hoàn cảnh sống khó khăn, tổ tiên
loài người bắt buộc phải chuyển sang
hoạt động lao động có hệ thống. Theo
Machusin sự biến đổi có ý nghĩa sinh học
trên cơ sở vượn người hoá thạch (tổ tiên
của loài người) xảy ra bởi các đột biến do
phóng xạ tự nhiên sinh ra từ các kẽ nứt
của vỏ trái đất, núi lửa, động đất và sự
đảo cực địa từ. Những tác nhân này làm
tăng dần số đột biến, tăng áp lực chọn lọc
tự nhiên, do đó tăng tốc độ cải biến
genotyte của các nhóm vượn người hoá
thạch, và điều đó đã xảy ra do đột biến số
lượng NST từ chỗ 48 NST ở vượn người
giảm xuống còn 46 NST ở người, kèm
theo những biến đổi về cấu trúc đã đưa
đến những biến đổi về thể chất và tiềm
năng trí tuệ của loài người.
Cần lưu ý rằng, giả thiết của Machusin

không phủ nhận vai trò của lao động
trong quá trình phát sinh và phát triển xã
hội loài người, mà chỉ giải thích sự xuất
hiện của con người sinh học là do đột
biến.
Đây là vấn đề mới về nguồn gốc loài
người. Những cuộc khai quật đã tìm thấy
những bộ xương còn nguyên vẹn và cả
những dấu chân của tổ tiên được xác
định ở niên đại gần 3,7 triệu năm. Những
di tích đó đã chứng minh rằng tổ tiên con
người biết đi thẳng từ rất lâu trước khi
con người xuất hiện. Điều còn bí ẩn là tổ
tiên con người không phải chỉ có một.
Các nhà khoa học cho rằng có ít nhất là 6
loài. Trong đó ở Nam Phi 2 loài, Đông
Phi 2 loài, và Etiopi 2 loài. Ngày nay,
khoa học đã xác định được loài người
xuất hiện cách đây từ 2,8 - 3,7 triệu năm.
Theo một số nhà di truyền học, con
người đã tách khỏi tổ tiên chung với Hắc
Tinh Tinh khoảng 4 5 triệu năm về trước
do kết quả đột biến lớn. Nhiều nhà
nghiên cứu cho rằng sự kiện đó xảy ra có
thể còn sớm hơn nhiều: gần 20 triệu năm
trước đây. Mednhicov (1961) dự đoán
con người không phải bằng con đường
biến đổi dần dần, chậm chạp mà là theo
cách đột biến thành "đứa con không bình
thường", có thể nói đơn giản là một quái

thai vượn. Quê hương của hoá thạch
Australopitecus (tổ tiên của con người)
và Homo Habilis (những con người đầu
tiên) là ở Nam và Đông Phi, cũng chính
là nơi có những vỉa quặng Urani dầy nhất
thế giới có nhiêu Macma phóng xạ và
sự hoạt động mạnh mẽ của núi lửa làm
tăng bức xạ tự nhiên ở khu vực này.
Cần nói rằng điều kiện quyết định cho
quá trình hình thành loài người là lao
động và "sức mạnh của bầu trời".
Những quan sát thiên văn học vào giữa
thế kỷ XIX cho phép xác nhận sự hình
thành các vệt đen trên mặt trời - là một
quá trình rất phức tạp và xảy ra theo chu
kỳ trung bình 11, thực tế chu kỳ ấy từ 7 -
17. Ngoài ra, một số nhà thiên văn còn
cho rằng có các chu kỳ 22, 33, 72, 266
năm và
Lần đầu tiên, A.L. Trygiopxky - người
sáng lập môn sinh học Nhật xa
(heliobiology) đã xác lập biểu đồ của các
vụ nổ trên mặt trời đến sản lượng cây
trồng, sự ra hoa của thực vật, sự sinh sản
và di cư của côn trùng, chim cá Người
ta giải thích rằng sự hoạt động của các
axit nucleic là cơ sở cho cơ chế đồng hồ
sinh học.
Sự biến đổi của từ trường trái đất và sóng
điện từ mặt trời đều có ảnh hưởng tới con

người. Trong 4 triệu năm gần đây có 4
thời đại được phân biệt với nhau bởi tính
có cực khác nhau của từ trường và sóng
điện từ. Trong mỗi thời đại lại có những
trường hợp đổi cực xảy ra trong thời gian
ngắn được gọi là những sự kiện có cực
(Cox, 1969).
Sự đảo cực trường điện từ đã làm tăng
mạnh tần số đột biến ở người. Có lẽ
không phải ngẫu nhiên mà người cổ xưa
nhất (Homo erectus Habilis) đã sống một
khoảng thời gian trên trái đất có dấu của
các cực từ ngược với ngày nay. Dạng
người tiếp theo là Pitecantrop đã thay thế
người Habilis vào thời điểm xảy ra sự
đảo định kỳ các cực từ cách đây 690
nghìn năm. Khoảng 110 nghìn năm trước
đây xảy ra sự đổi cực ngắn làm cho
Pitecantrop bị tuyệt chủng và Neandectan
xuất hiện. Gần 30 - 40 nghìn năm trước
đây (một thời điểm diễn ra đổi cực) loài
người hiện đại đã thay thế Neandectan.
Có thể nói rằng, những biến đổi quan
trọng trong môi trường tự nhiên như đã
biết tạo ra ở Đông Phi và Nam Phi một
vùng có bức xạ tăng cao. Sự hoàn tất các
quá trình ấy xảy ra bởi hàng loạt sự kiện
đảo cực địa từ liên tiếp làm tăng nền bức
xạ ton hoá trên hành tinh và làm yếu từ
trường trái đất, dẫn đến tăng cường quá

trình đột biến của họ người sống ở đó. Tổ
tiên con người đã biến đổi do kết quả đột
biến và mất khả năng tồn tại bình
thường và buộc phải chuyển sang sử
dụng có hệ thống các công cụ và chế tạo
công cụ. Những kết quả biến đổi các đặc
tính di truyền của họ người là do những
đột biến lớn và tổ tiên con người chỉ có
một con đường duy nhất khỏi bị diệt
vong là hoạt động xã hội và lao động.
Như đã biết có khả năng nhiều nguyên
nhân và là những nguyên nhân quan
trọng có thể gây nên sự sắp xếp lại bộ
máy di truyền của tổ tiên con người,
trong đó có sự kết dính các NST. Thực
nghiệm đã chứng minh rằng bức xạ có
thể gây nên sự giảm số lượng NST do
chúng kết dính lại với nhau. Có thể sự
kết dính các NST (từ 48 còn 46 NST) là
nguyên nhân của những biến đổi có tính
chất di truyền của tổ tiên con người.
Đến nay cũng chưa thể xác định chính
xác thời điểm bắt đầu của các biến đổi
sinh học ở tổ tiên con người,nhưng kết
quả của các quá trình đó thì đã biết rõ.
Australopitecus là tổ tiên trực tiếp và
cũng là con người sơ khai. Nó tồn tại
trong khoảng thời gian từ 5,5 đến một
triệu năm trước đây. Thời gian chuyển
một bộ phận của dòng Australopitecus

sang lao động có hệ thống cách đây 2,6
triệu năm. Khởi đầu lịch sử của con
người không thể muộn hơn hai triệu năm.
Điều này đã được chứng minh qua các tài
liệu nghiên cứu ở Onduvai Có thể nói
cái nôi của loài người là ở Đông Phi và
Nam Phi.
Có thể nói trong 30 năm trở lại đây nhiều
cuộc khai quật với quy mô lớn được tổ
chức đã cung cấp nhiều dẫn liệu đáng tin
về nguồn gốc loài người. Hàng trăm
nghìn (200.000 - 250.000) mẫu động vật
có xương sống, trong đó khoảng 2000
mẫu di tích người cổ được phát hiện. Các
phương pháp đồng vị phóng xạ cho phép
xác định thời gian tồn tại các mẫu hoá
thạch và phương pháp di truyền phân tử
được sử dụng trong nghiên cứu cho phép
hiểu rõ hơn về nguồn gốc loài người. Các
số liệu nghiên cứu mới có thể đi đến
những hiểu biết khái quát như sau:
- Giống người vượn Australopithecus có
ít nhất 6 loài phát triển trong thời gian 5
triệu năm (có thể lâu hơn) đến 1,3 triệu
năm trước đây.
- Người khéo léo (Homo habilis) là loài
người cổ nhất sống cách đây 3 triệu đến
1,6 triệu năm.
- Người Homo erectus đã sống cách đây
khoảng 1,6 triệu năm và bị diệt vong

khoảng 400.000 năm trước đây.
- Người cận đại (Homo sapiens) xuất
hiện trong khoảng 300.000 đến 150.000
năm trước đây.
- Người hiện đại (Homo sapiens sapiens)
xuất hiện cách đây khoảng 40.000 đến
35.000 năm.
Đến nay các cuộc khai quật vẫn đang tiếp
diễn cung cấp thêm nhiều số liệu mới, cụ
thể hơn về nguồn gốc và quá trình phát
sinh loài người. Tuy vậy nghiên cứu
nguồn gốc loài người gặp phải 2 khó
khăn lớn: (1) Việc xác định niên đại hoá
thạch phụ thuộc các phương pháp đo
đồng vị phóng xạ, do đó các kết quả có
sai khác nhau; (2) Số mẫu vật thu nhận
được còn quá ít nên có thể nhầm lẫn
xương con đực và con cái khác nhau lại
được xem là 2 loài.

×