Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Tiểu luận cao học truyền thông đối ngoại to he mot net van hoa dan gian

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.15 MB, 28 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................................2
1.Tính cấp thiết của đề tài:...........................................................................................................................2
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:.............................................................................................................3
3. Kết cấu tiểu luận:......................................................................................................................................3
CHƯƠNG 1.....................................................................................................................................................4
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGHỆ THUẬT NẶN TỊ HE Ở VIỆT NAM......4
CHƯƠNG 2...................................................................................................................................................10
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CỦA NGHỆ THUẬT NẶN TÒ
HE...................................................................................................................................................................10
2.1 Thực trạng của nghệ thuật nặn tò he:.............................................................................................10
2.1.1 Thành tựu của nghệ thuật nặn tò he:.............................................................................................10
2.1.2 Tồn tại của nghệ thuật nặn tò he:..................................................................................................16
2.2 Nguyên nhân và kinh nghiệm:..........................................................................................................19
2.2.1 Nguyên nhân của thành tựu:.........................................................................................................19
2.2.2 Nguyên nhân của hạn chế:............................................................................................................21
CHƯƠNG 3...................................................................................................................................................23
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN NGHỆ THUẬT NẶN TÒ
HE Ở VIỆT NAM.........................................................................................................................................23
3.1 Phương hướng:...................................................................................................................................23
3.2 Giải pháp:............................................................................................................................................23
KẾT LUẬN...................................................................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................................................................27

1


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài:
“Tị he cụ bán mấy đồng
Con mua một cái cho chồng con chơi


Chồng con đánh vỡ đánh rơi
Con mua cái khác con chơi một mình".

Một món đồ chơi dân gian gắn liền với bao thế hệ trẻ thơ, với những hình thù
độc đáo, nào đầu rồng, nào bông hoa, nào Tôn Ngộ Không, 12 con giáp… Giữa sự
tràn lan của những trò chơi từ nước ngồi đưa vào, thống nhìn đâu đó vẫn ẩn hiện
một thứ đồ chơi giản dị và dân giã của người Việt Nam: Tị he. Tị he khơng những
ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân Việt, mà còn đi vào thơ ca như những gì
đặc sắc nhất của nền văn hoá Bắc Bộ như trong bài đồng dao trên.Tò he là thứ đồ
chơi truyền thống ở Việt Nam mang nhiều nét văn hóa, lịch sử dân tộc; một thứ đồ
chơi lưu lại phần kí ức tuổi thơ đã qua, lưu giữ giá trị văn hóa truyền thống của ông
cha ta.

2


Sự phát triển hội nhập kinh tế nhanh, sự du nhập các loại hình đồ chơi nước
ngồi đang dần lấn át, làm phai nhạt những loại hình đồ chơi truyền thống dân
gian. Sự cạnh tranh đó như một trong các yếu tố hiện đại đè nén lên các yếu tố giá
trị nhân văn cốt lõi có truyền thống tự trăm năm. Trước tình hình đó các loại hình
đồ chơi truyền thống dân gian, cụ thể ở đây là nghệ thuật nặn tò he đang phát triển
theo nhiều hướng khác nhau, có cả yếu tố tích cực và những hạn chế. Trước bối
cảnh đó, vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống trong nghệ thuật nặn tò he
càng trở nên cấp thiết. Bởi vậy bài tiểu luận này xin phép được trình bày về đề tài
“Tị he – một nét văn hóa dân gian”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của tiểu luận là tìm hiểu quá trình hình thành
và phát triển của nghệ thuật nặn tị he, qua đó thấy được các giá trị văn hóa của
nghệ thuật. Tìm hiểu thực trạng phát triển của nghệ thuật nặn tò he hiện nay, từ đó
đưa ra một số đề xuất, giải pháp để bảo tồn và phát huy nghệ thuật nặn tò he, mang

nghệ thuật nặn tị he ra nước ngồi, góp phần quảng bá nét văn hóa truyền thống
của Việt Nam ra toàn thế giới.
3. Kết cấu tiểu luận:
Ngoài phần “MỞ ĐẦU” và phần “KẾT LUẬN”, tiểu luận gồm ba chương:
- Chương 1: Lịch sử hình thành và phát triển của nghệ thuật nặn tò he ở Việt
Nam.
- Chương 2: Thực trạng, nguyên nhân, và kinh nghiệm của nghệ thuật nặn tò
he ở Việt Nam.
- Chương 3: Phương hướng và giải pháp để bảo tồn và phát triển nghệ thuật
nặn tò he ở Việt Nam.

3


CHƯƠNG 1
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGHỆ THUẬT NẶN TỊ
HE Ở VIỆT NAM
Tị he là một loại đồ chơi dân gian của trẻ em Việt Nam, làm bằng bột hấp chín,
có nhuộm mầu, có thể ăn được. Có tị he ở đâu là bọn trẻ xúm xít ở đó. Chúng là
người ra đề, và người nặn tị he là người “giải đề”. Thánh Gióng, Tơn Ngộ Khơng,
rồng, gà, khỉ, voi, hổ, báo, kép võ, đào thương… đều được. Những năm trước, tò
he là thú chơi đã đi cùng bọn trẻ vào cả những giấc mơ.

Ngày nay, nặn tị he là một nét văn hóa dân gian ở các vùng quê Việt Nam, đặc
biệt là Bắc Bộ. Nặn tị he xuất hiện tại miền Nam Việt Nam khơng rõ từ lúc nào
nhưng có lẽ là do các nghệ nhân miền Bắc di cư vào Nam, tuy nhiên mức độ phổ
biến khơng bằng tại miền Bắc.
Nặn tị he có thể nói là một nghề độc đáo và lưu truyền từ lâu đời. Người xưa có
câu: "Thứ nhất bánh đa, thứ nhì bánh cuốn, thứ ba chim cị". Có lẽ hiếm có ai hiểu
được tại sao trị chơi ấy lại có tên là tị he. Ban đầu, tị he là sản phẩm làm bằng bột

dùng để cúng lễ nên chúng thường có hình thù các con vật như cơng, gà, trâu, bò,
lợn, cá...những con vật gần gũi với đời sống của cư dân nơng nghiệp. Vì vậy người
ta gọi sản phầm này là "đồ chơi chim cò". Một số vùng tại miền Bắc cịn có một
4


loại sản phẩm khác khơng thuộc loại chim cị mà là các mâm bồng như: nải chuối,
đĩa xơi, chân giị, quả cau, quả hồng, quả oản… để phục vụ cho các bà, các cô đi lễ
chùa vào các ngày rằm, mồng một. Sản phẩm tương đối giống đồ thực và pha thêm
chút đường, có màu sắc đẹp, có thể ăn được nên trẻ con và người lớn đều thích,
thường gọi là bánh vòng hoặc “con bánh”. Nhưng về sau, sản phẩm thường được
gắn với một chiếc kèn ống sậy, đầu kèn có dính kẹo mạch nha. Kèn có thể phát ra
một thứ âm thanh hấp dẫn, khi thổi lên có tiếng kêu ngắt qng tị… te… tị… te.
Có lẽ vì thế người ta gọi là “tị te”, sau nói chệch thành “tị he”.

Trên mạng Internet có 268.000 thơng tin liên quan tới cụm từ làng nghề tò he
nhưng hầu hết chỉ nói đến làng nghề tị he Xn La, Phượng Dực, Phú Xuyên. Đây
được coi là nơi khởi nguồn của nghề nặn tò he với lịch sử làng nghề hơn 300 năm
tuổi. Ơng Nguyễn Văn Thuận là người nặn tị he nổi tiếng vào bậc nhất trong làng
5


Xuân La kể: ngày xưa, làng Xuân La rất nghèo, đến tết trẻ con khơng có q để
chơi. Ơng cha ta mới nghĩ ra cách lấy đất sét, nặn những con giống, lấy rơm rạ
nung, rồi lấy gạch non quét màu, phơi khô mang cho trẻ con chơi. Bọn trẻ thổi kêu
toe toe nên người ta gọi là tò he. Sau đó, người ta nặn bột nếp thành tị he, trẻ con
chơi xong có thể ăn được. Từ món đồ chơi của đứa trẻ, tị he lại hóa cái dun của
ngơi làng. Nặn tị he trở thành một cái nghề, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Người dân làng khơng chỉ coi tị he là một nghề sinh nhai, mà thực sự coi
nó như niềm vui, như bầu bạn và đam mê chảy trong con người mình vậy.

Người nặn tị he có một ngun tắc của dòng họ là chỉ truyền cho con trai và
con dâu. Nặn tị he có nguồn gốc lâu đời nhưng do tư liệu chép đã bị cháy nên
khơng tìm ra được cụ tổ nghề. Hơn nữa, trong làng có rất nhiều dòng họ: Ðặng,
Nguyễn, Vũ, Lê, Chu, Trịnh... mà họ nào cũng biết nặn tị he. Vì thế chức danh tổ
nghề được phong cho dòng họ nào cũng đều xứng đáng.
Ðể nặn ra tò he chỉ cần những nguyên liệu rất đơn giản, gần gũi với cuộc sống
nơng dân. Ðó là những sản phẩm nơng nghiệp do chính bàn tay họ làm ra: bột gạo,
phẩm mầu, que tre. Giai đoạn làm bột là giai đoạn công phu nhất. Bột được làm từ
gạo nếp trộn với gạo tẻ nghiền nhỏ theo tỷ lệ 1 kg gạo tẻ với 1 lạng gạo nếp (sẽ cần
phải cho thêm nhiều gạo nếp để giữ được độ dẻo của sản phẩm nếu thời tiết nóng,
hanh khơ). Nhào bột với nước cho đến khi bột nhuyễn, quyện dính vào nhau, vê
thành cục. Cho cục bột vào nồi nước đang sôi để một giờ đồng hồ đến khi bột nổi,
chìm rồi lại nổi thì vớt ra, để nguội bột, và nhuộm màu cho bột. Bột phải được luộc
đủ thời gian và đủ lửa để bột chín tới, khơng bị ướt và nhão. Sau đó, người ta nắm
bột lại thành từng vắt và nhuộm màu riêng từng vắt. Công đoạn pha chế màu cũng
rất cầu kỳ và mất nhiều thời gian. Bốn màu cơ bản là vàng, đỏ, đen, xanh. Trước
đây, người ta sử dụng màu có nguồn gốc từ thực vật và đun sơi với một ít bột: màu
vàng làm từ hoa hòe hoặc củ nghệ, màu đỏ từ quả gấc hoặc dành dành, màu đen thì
đốt rơm rạ hoặc dùng cây nhọ nồi, màu xanh lấy từ lá chàm hoặc lá riềng. Các màu
6


sắc trung gian khác đều được tạo từ bốn màu này. Tất cả đều được chế từ thực vật,
để tránh độc hại cho trẻ khi chúng chơi hoặc ăn. Bây giờ, người ta chuyển sang sử
dụng màu thực phẩm công nghiệp vì tiện ích của nó.

Muốn học nghề tị he phải bắt đầu nặn đồ vật. Bài học thật đơn giản. Xe bột
quanh một que tăm để có một cây gậy. Nhưng muốn phân biệt đấy là gậy tre Thánh
Gióng chứ không phải thiết bổng của Tôn Ngộ Không, cách xe phải khác. Xe rộng
vòng như người viết chữ thảo, thì có gậy tre. Những vịng xe khơng đều nhau, đẩy

khúc bột chạm vào cái chai trong lòng bàn tay để cái chai xù xì ấy tạo mấu cho cây
gậy tre. Muốn gậy sắt thì xe khép vịng, khúc bột được tiện ra ở chỗ mịn nhất của
hai bàn tay, trước sau đều như đúc, vuông thành sắc cạnh như người ta viết chữ
chân phương.Khi đã vững tay nghề có thể dán lá cho khúc tre binh khí nhỏ xíu ấy.
Nặn đồ vật quen tay thì được chuyển sang tập nặn con vật. Tị he có cái cốt que tre
ở trong, vì thế trước sau chỉ có một thế đứng. Những con vật bốn chân là khó nặn,
vì chúng bị chứ có đứng bao giờ! Cho nên nặn thú cũng như người làm xiếc thú.
Phải dạy con rồng, con rắn uốn dẻo quanh cái que tre kia để dù tung hoành cách
7


chi, vẫn vào được khn phép. Con mèo thì phải trèo cây cau, để ôm vào cây cau
mà đứng như người. Học xong bài tạo thế từ loài vật mới chuyển qua bài điểm
nhãn, tạo thần cho các nét mặt con người. Nặn tò he rất giống với nghệ thuật vẽ
mặt nạ trong tuồng. Tính tượng trưng, ước lệ rất cao, Người trung mặt đỏ đơi trịng
bạc/ đứa nịnh râu thưa mấy sợi cịi. Có thể nhìn nặn tị he mà tìm ra mối quan hệ
giữa hội hoạ với sân khấu dân gian. Thạch Sanh dù là tiều phu đốn củi vẫn mặt hoa
da phấn có tướng tinh chứ khơng xám ngt như tị he Lý Thơng. Mặt trắng râu dài
nho nhã, tai to bụng lớn, ra dáng quan cách, lại ung dung tự tại, đích thị Lưu Bị.
Quan Vân Trường, mặt đỏ như chu sa, râu năm chòm đủ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín,
mắt xếch lên, sáng quắc mà vẫn hiền, bao giờ cũng mực thước, bàn tay luôn giữ
thế đàn em với Lưu Bị, khơng x năm ngón ngạo mạn mà chỉ thẳng bằng hai
ngón khép, kín kẽ, thúc quân tiến mà vẫn nghĩ đường sống cho binh lính trở về. Đã
nặn Lưu Bị mặt trắng thì Trương Phi phải đen, phải mắt ốc nhồi, trán gồ, râu quai
nón tua tủa.

Tị he, cái tên gắn liền với tuổi thơ của rất nhiều người. Đó là một đồ chơi rất
dân dã, thô sơ, mộc mạc làm bằng thủ công nhưng lại rất sinh động, bắt mắt bởi
hình dáng và màu sắc. Làm tò he đòi hỏi phải khéo léo, nhẹ nhàng, tỉ mỉ, phải có tư
8



duy quan sát, khiếu thẩm mỹ đến từng chi tiết, sáng tạo để chọn màu sắc, kết hợp
hài hòa và nổi bật lên những nét đặc trưng. Từ những nguyên liệu hết sức đơn sơ,
giản dị là những sản phẩm nông nghiệp như hạt gạo, lá rau, qua bàn tay những
người nông dân tài hoa, phút chốc đã tạo nên hình ảnh những vị anh hùng dân tộc,
những nhân vật cổ tích, những sản phẩm quen thuộc của nhà nơng như bơng lúa
vàng óng ngày mùa, con cá chép đang cong mình vượt vũ mơn, chú trâu thong
dong gặm cỏ…Ngày nay, các nghệ nhân khơng chỉ nặn tị he với hình thù đơn giản
về các con vật, các loại trái cây… mà cịn nặn nhiều hình thù phong phú khác,
nhiều nhất là các nhân vật mà trẻ con yêu thích như Aladin, Đôrêmon, Pokémon,
Tề Thiên, Trư Bát Giới, Na Tra… Những con tị he góp phần ni dưỡng tâm hồn
trong trẻo của trẻ thơ, thể hiện phần nào tâm hồn và cốt cách người dân đất Việt.

9


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM CỦA
NGHỆ THUẬT NẶN TÒ HE
2.1 Thực trạng của nghệ thuật nặn tò he:
2.1.1 Thành tựu của nghệ thuật nặn tò he:
Trước năm 1975, những người nặn tò he đi khắp 36 phố cổ ở Hà Nội để nặn và
bán tò he. Trong thời gian này, hình nặn chủ yếu là các chú bộ đội, các cơ dân qn
du kích, xe tăng, ơ tơ được các em nhỏ rất ưa thích bên cạnh 12 con giáp và các
con vật ngộ nghĩnh thường.
Xuân La có thời điểm gần như cả làng đi nặn tò he. Họ rong ruổi khắp đất nước,
từ Huế tới Sài Gòn, từ Lạng Sơn tới Cà Mau, chỗ nào cũng có người làng này kiếm
sống. Nghề lang bạt mà, mỗi người chọn một nơi khác nhau nhưng đông nhất là ở
Hà Nội. Đến vườn thú Hà Nội có thể thấy hàng chục nghệ nhân Xuân La, mỗi

người một góc, họ lặng lẽ mua chỗ ngồi và nặn những con tò he đủ màu sắc sặc sỡ.
Đạp xe khoảng 30km tới đất thủ đơ là họ đã có thể hành nghề. Đường xa đạp mãi
thành quen, biết bao con phố Hà Nội đã thành quen thuộc.
Trước kia, người dân làng Xuân La thường nặn sẵn tò he nhà rồi mang ra chợ,
các con tị he khơng được gắn vào thanh tre như bây giờ mà được nặn và đặt lên
những vịng trịn như chiếc đĩa. Sau này, khi "cơng nghệ" que tre ra đời người ta
tạo hình tị he trực tiếp lên đó, và làm ngay tại chợ. Một thùng gỗ nhỏ hoặc thùng
xốp với vài cục bột màu, một chiếc lược con, nắm que tre nhỏ và chút sáp ong hay
bánh xà bông, những "nghệ nhân làng" tỏa đi khắp nơi mang niềm vui, sắc màu
đến cho cuộc sống. Với một hòm hành trang gọn nhẹ, các nghệ nhân nặn tị he
thường xa nhà ít nhất là vài ba ngày, lâu là hàng tháng trời. Họ rong ruổi trong các
phiên chợ quê, trong các ngõ xóm, phố phường để sống và giữ nghề tổ tiên. Ở đâu
10


có họ là có đám đơng trẻ nhỏ xúm quanh. Chỉ được xem các nghệ nhân thao tác
thôi, cũng đủ thấy mê rồi. Cá biệt, có người mời họ về nhà đắp những nhân vật
trong hòn non bộ, nặn những bộ tam đa, những nhân vật trong truyền thuyết.
Những lần như vậy, họ thường được đón tiếp và trả cơng khá hậu hĩnh. Theo các
nghệ nhân, nếu một ca gạo chuyển thành bột, qua tay người nặn, thành sản phẩm
bán thu về có giá trị bằng 3 ca gạo.

Người làm tò he bây giờ cũng năng động rất nhiều trước thị hiếu của khách
hàng. Nếu như ngày trước các đối tượng để nặn tò he chủ yếu là các loại cây quả,
con giống, hình người là Tơn Ngộ Khơng, Trư Bát Giới,.. thì bây giờ tị he phong
phú hơn rất nhiều. Với riêng đối tượng thiếu nhi, họ rất để ý đến những phim hoạt
hình mới mà các em được xem. Nếu các em yêu cầu được mua những hình mình
thích thì chỉ cần nhìn qua là các nghệ nhân có thể nặn giống được. Và để nắm vững
được thời gian cụ thể của những ngày hội, ngày lễ họ có trong tay cả quyển sách
ghi lại các ngày lễ tết của tất thảy mọi vùng miền trong cả nước. Họ cũng quan tâm

cả đến thời tiết, nhiệt độ… vì đó cũng là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến
chất lượng cũng như số lượng tò he bán được.
11


Nặn một con tò he mất chừng năm phút, bán được vài ngàn đồng, có khi cả
ngày cũng chỉ bán được vài con giống, nhưng các nghệ nhân nặn tò he quan niệm:
lời lãi chẳng bao nhiêu nhưng mỗi lần nhìn những đứa trẻ vui đùa với nhau bên
những con tò he, họ cũng vui lây mà thêm yêu nghề. Giờ đây, khi Xuân La đã trở
nên nổi tiếng, du khách đến với làng rất thích cái vẻ mộc mạc, giản đơn của mỗi
con tị he và tìm hiểu về lịch sử làng nghề, rồi tự tay nặn những con tị he mình
thích đem về làm kỷ niệm.
Ngày nay các buổi sinh hoạt tìm hiểu về nghệ thuật nặn tị he được tổ chức, các
em khơng chỉ được ngắm nhìn những con tò he sặc sỡ, mà dưới sự hướng dẫn của
nghệ nhân, các em còn được thỏa sức sáng tạo để tự tay tạo nên những tác phẩm
nghệ thuật tý hon. Những con vật ngồ ngộ, đáng yêu, những bông hồng với đủ màu
sắc xanh đỏ dù chưa rõ hình thù, đường nét cịn gồ ghề nhưng nó tốt lên sự ngộ
nghĩnh, sự trong sáng trẻ thơ… Công việc giúp cho các em rèn luyện năng khiếu
mỹ thuật, đồng thời cảm nhận rõ hơn giá trị của món đồ chơi dân gian này. Tị he là
món ăn tinh thần của trẻ thơ trên khắp mọi miền đất nước. Những con giống tị he
ngộ nghĩnh, bắt mắt ấy đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn trong trẻo, ngây thơ của
12


trẻ em; góp phần giáo dục các em về lịch sử, bản sắc văn hóa, cội nguồn dân tộc;
cách nhận biết màu sắc, các con vật và biết liên tưởng đến các câu chuyện cổ tích
xa xưa của cha ơng.

Tị he cịn là một món hàng giúp bà con sau ngày mùa nặng nhọc có thêm
nguồn thu nhập cải thiện cuộc sống. Người dân làng Xuân La có câu ca lưu truyền:

“Thứ nhất bánh đa, thứ nhì bánh cuốn, thứ ba chim cò” - chim cò ở đây là chỉ nghề
nặn tò he. Cái nghề chỉ được xếp thứ 3 ở làng đã giúp cho người dân Xuân La nổi
tiếng cả nước, và cũng với cái nghề chim cò ấy, họ đã rong ruổi khắp mọi miền
quê.
Nghề nặn tò he bây giờ đã dần tìm được chỗ đứng trong làng đồ chơi Việt. Tuy
nhiên, nó vẫn chỉ được coi là nghề tay trái, để người dân kiếm thêm đồng ra, đồng
vào lúc nông nhàn. Những người thợ Xuân La phân tán đi các tỉnh, rồi dừng chân
tại các điểm vui chơi, giải trí, trường học, cơng viên, nơi có nhiều khách du lịch
qua lại… để nặn bán và giới thiệu tò he – “báu vật” của quê hương.

13


Câu lạc bộ làng nghề truyền thống Tò he ở Xn La được thành lập, ngơi nhà
trưng bày tị he được xây dựng, nhân dịp kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long Hà Nội. Đặc biệt là những chuyến “xuất ngoại” đi Mỹ, Nhật, Campuchia… của tò
he là một trong những đại diện của trò chơi dân gian Việt Nam được giới thiệu với
bạn bè quốc tế.
Một trong những nghệ nhân cao tuổi nhất của nghệ thuật nặn tò he là cụ Ðặng
Văn Tố (81 tuổi), cụ được phong tặng những danh hiệu: “Nghệ nhân dân gian”,
“Ngôi sao quê lụa” của Hội Văn nghệ Dân gianViệt Nam và UBND tỉnh Hà Tây.
Cụ đã vinh dự được mang nghề truyền thống của quê hương đại diện cho Việt Nam
tham gia “Những ngày văn hóa Việt Nam” tại Nhật Bản. Một số nghệ nhân cao
tuổi như cụ Đặng Văn Tố, Nguyễn Văn Thuận đã qua đời song lớp thợ trẻ như anh
Đặng Văn Hổ, Đặng Văn Thảo đang tiếp tục nối gót. Họ liên tục được mời đến
Bảo tàng Dân tộc học, các trường mẫu giáo, tiểu học để hướng dẫn thiếu niên, nhi

14


đồng nặn tò he, giúp các cháu thêm hiểu, thêm yêu bản sắc văn hóa và lịch sử dân

tộc qua những đồ chơi giàu tính nhân văn.
Chính nhờ những nét độc đáo và tài tình trong cách tạo nên đồ chơi cho trẻ thơ
mà người thợ Xuân La cùng những sản phẩm tị he đã khơng ít lần có mặt trong
các chương trình giới thiệu, trao đổi văn hóa tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ… và đã
tạo được ấn tượng đẹp, sức hấp dẫn rất riêng với bạn bè quốc tế. Những nghệ nhân
nặn tò he được mời tới nhiều lễ hội dân gian cũng như ra nước ngoài để nặn biểu
diễn. Nghề nặn tò he tưởng như bé mọn đã được đơng đảo bạn bè quốc tế biết đến.
Đó thực sự là những phần thưởng quý giá dành cho những người có nhiều cống
hiến trong việc giữ gìn và phát huy nghề tò he truyền thống.

15


Nặn tị he khơng chỉ là nghề tạo nguồn thu nhập đáng kể cho người dân lúc
nông nhàn ở Xuân La mà còn là nghề tạo nên nét đẹp văn hóa cổ truyền của một
vùng q phía Nam Thủ đơ.
2.1.2 Tồn tại của nghệ thuật nặn tò he:
Trải qua bao thăng trầm lịch sử, đã có lúc tưởng chừng làng nghề đứng trước
nguy cơ biến mất như những năm 1980. Đã có thời, tị he cịn bị cấm vì nhà nước
cho rằng nghề đó gây lãng phí. Mỗi ngày một người nặn tò he của làng Xuân La sẽ
đổ đi ít nhất 1kg gạo nếp, mà làng có khoảng hơn 200 người đi nặn tò he. Vậy nên
chơi tò he bị coi là thú chơi khơng tiết kiệm.Thời hồng kim, nặn tị he là nghề
mang lại thu nhập chính cho cả làng. Tuy nhiên, tới nay nghề này chỉ còn được coi
là nghề tay trái vào những lúc nông nhàn tháng ba ngày tám. Số lượng nghệ nhân
giảm còn 1/4.

Mùa xuân, mùa lễ hội cũng là mùa kiếm sống của những nghệ nhân tò he trên
mọi nẻo đường. Tháng giêng mở đầu với hội Đống Đa, qua hội Cổ Loa, vịng về
hội Lim, sau đó tản về các hội q xa. Thường đêm 30 tết là đêm mà những nghệ
nhân trong làng kiếm được nhất, nhưng lúc giao thừa khi mọi người về nhà đoàn tụ

16


thì những nghệ nhân tị he lại lầm lũi bước những bước mệt mỏi trở về nhà, có khi
là nhà trọ. Khơng ít nghệ nhân bỏ tết, ngủ lại trên hè phố, ghế đá công viên để hôm
sau lại tiếp tục cùng những con tò he rong ruổi. Người trở thành nghệ nhân tị he
đương nhiên đã có q nhiều nắng mưa lẫn tài hoa hòa trộn vào từng con giống.
Nghề tò he là nghề phải đi nhiều, trong dịp lễ hội hay những nơi chợ búa phố
thị đông dân cư. Bởi đi kiếm sống ở xứ người nên chuyện bị trấn lột, xua đổi là
bình thường. Thứ nữa gặp trời mưa thì mất cả chì lẫn chài. Mỗi cây tị he có giá chỉ
từ 2 đến 5 ngàn đồng. Nghề tò he chỉ đủ sống chứ chẳng mấy ai làm giàu được từ
nghề này. Nhiều người từ việc nặn tị he đi ra ngồi, học thêm nhiều nghề mới của
thiên hạ, về lại bỏ nghề tò he.

Cũng như nhiều làng nghề truyền thống khác ở nước ta, làng nghề tò he cũng
vướng mắc chuyện “đầu ra”’ cho sản phẩm. Vì vậy, Xuân La đang cố gắng vươn
mình tìm đến những thị trường rộng lớn hơn. Người ta thích tị he khơng giống như
sự u thích những thứ đồ chơi hiên đại, đắt tiền mà thích ở cái mộc mạc, đậm tính
dân tộc của tị he, ở tính thủ cơng từ những đơi tay khéo léo. Sở dĩ tị he chưa được
quảng bá rộng rãi ra nước ngồi là vì nhược điểm của chất liệu tạo ra chúng. Bột
17


gạo rất rẻ và dẻo khi nặn nhưng lại không để được lâu, dễ bị mốc và khô, nứt. Mỗi
sản phẩm tò he thong thường chỉ để được từ 3 đến 30 ngày (tuỳ thuộc vào tay nghề
của thợ nặn, thời tiết và cách bảo quản). Gia đình nghệ nhân dân gian Đặng Văn Tố
từng đón tiếp rất nhiều đồn khách trong và ngồi nước đến tìm hiểu về nghề nặn
tị he. Trong số những vị khách ấy, có khơng ít người đặt vấn đề đưa tị he ra nước
ngồi. Thế nhưng sản phẩm làm ra, đem đóng hộp mang sang đến nước bạn thì bị
khơ nứt. Kế hoạch đưa tò he ra thị trường thế giới đành phải tạm dừng…vô thời

hạn!
Một mặt, người dân Xuân La vẫn cố gắng duy trì nghề truyền thống của mình,
mặt khác, họ khơng ngừng thử nghiệm, tìm kiếm những chất liệu mới. Gia đình bà
Diền là gia đình đầu tiên và duy nhất ở Xuân La thử nặn tò he bằng bột đao. Tị he
làm bằng bột đao có thể để được rất lâu (khoảng 1năm) mà không sợ nứt, mốc.
Nhưng nhược điểm là rất khó nặn và khơng đẹp bằng tị he làm từ chất liệu bột
gạo. Hơn nữa, khi nặn xong phải đem luộc lại – mất rất nhiều thời gian. Vì vậy, thợ
nặn phải làm trước ở nhà rồi mới đem bán. Chính điều này làm mất đi cái hay của
tò he - người mua được chứng kiến tận mắt bàn tay khéo léo của thợ nặn.
Trò chơi dân gian độc đáo này, tiếc rằng đang ngày càng bị lấn lướt trước sức
cạnh tranh của các trò chơi điện tử và đồ chơi Trung Quốc, vì thế khơng cịn hấp
dẫn được trẻ em bây giờ. Ngày 27/5/2009, trong Hội thảo "Thực trạng và giải pháp
phát huy giá trị nghề sản xuất đồ chơi truyền thống của Hà Nội”, được tổ chức tại
chính làng Xuân La, Th.s Lê Vũ Trọng - Trung tâm Nghiên cứu và Hỗ trợ trẻ, đã
đưa ra các con số đáng giật mình: Trong vịng 4 năm trở lại đây, đã có 84.000
trường hợp trẻ em bị tai nạn thương tích do đồ chơi gây ra. Nhiều trường hợp bị trì
trệ trí tuệ, rối loạn tâm thần, hỏng mắt, bỏng, ngộ độc, nghẹn thở hay thậm chí tử
vong. Tại Viện Nhi Trung ương có gần một nửa trong số hơn 100 mẫu dị vật đường
thở đang được bảo lưu trong khoa Nhi là sản phẩm của đồ chơi trẻ em. Theo ước
18


tính, những năm gần đây đồ chơi Trung Quốc chiếm gần 80% thị phần trên thị
trường Việt Nam, trong đó có khơng ít đồ chơi độc hại, có giá cắt cổ tới cả triệu
đồng. Lúc đó người ta mới giật mình nhìn lại những con tị he thân thương, bé nhỏ,
một trò chơi truyền thống mà mẫu mã cổ, dù đã qua tay nhiều thế hệ, vẫn còn đây.
Giá những tác phẩm tị he q rẻ mạt: Ở nơng thơn nhiều lắm chỉ từ 2 - 5 ngàn,
mang ra thành phố thì giá có cao hơn nhưng cũng chỉ từ 10 - 15 ngàn đồng, lại
khơng có chỗ bán nên chả mấy ai cịn theo đuổi cái nghề ơng cha để lại. Nghề tị he
cũng từ đó mai một dần theo các nghệ nhân ở làng về với tiên tổ. Nếu khơng có

cách nào bảo tồn nghề thì chỉ thời gian khơng xa nghề làm tị he sẽ biến mất.
2.2 Nguyên nhân và kinh nghiệm:
2.2.1 Nguyên nhân của thành tựu:
Tò he được coi là món đồ chơi thuần Việt nhất. Không chỉ bao gồm những
nguyên liệu đơn giản gắn liền với vùng lúa nước Bắc Bộ mà còn gần gũi với cuộc
sống, qua bàn tay tài hoa của người thợ nơng dân tạo nên những hình ảnh thân
thuộc, đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Có lẽ tính lịch sử, văn hóa, nghệ
thuật và giáo dục trong mỗi con tị he chính là yếu tố khiến cho tị he được khơi
phục lại, duy trì và phát triển như ngày hơm nay.
Chẳng cầu kì đèn đóm, chẳng dán dính nhiều nhặn gì, tị he được nặn, tạo hình
tạo dáng chỉ bởi chút bột, bởi đôi bàn tay tài hoa, điêu nghệ của người nghệ nhân.
Có lẽ cái lớn nhất, đẹp nhất mà tị he mang trong mình, đó là tình u nghề của
người làm nên nó, mang trong mình những giá trị văn hóa dân gian trường tồn theo
thời gian.
Nhờ niềm đam mê với những khối bột, tinh thần gìn giữ và phát huy những
thành quả lao động sáng tạo của cha ơng, những giá trị văn hóa dân gian của dân
tộc, các nghệ nhân nặn tò he đã và đang gìn giữ, phát huy loại hình nghệ thuật đặc
sắc này.
19


Các nghệ nhân hiện thời đã có nhiều cải biên về mẫu mã nhưng những mẫu mã
truyền thống vẫn được giữ nguyên. Họ tìm về loại hình truyền thống nằm có lẽ một
phần nào lưu lại những phần kí ức tuổi thơ đã trôi qua, một phần nào đấy để lưu
giữ một giá trị văn hóa truyền thống của cha ông đã vài trăm năm tuổi. Chính bằng
sự tâm huyết của những người yêu quý nghề thủ công truyền thống của quê hương,
nhiều năm trở lại đây, tò he lại xuất hiện trên khắp các phố phường Hà Nội và
nhiều địa phương khác, thậm chí được đem đi quảng bá với bạn bè quốc tế.
Hiệp hội làng nghề Việt Nam quan tâm, đề ra những biện pháp để bảo tồn và
phát huy làng nghề tò he truyền thống. Tiêu biểu như bên lề hội thảo Thực trạng và

giải pháp phát huy giá trị nghề sản xuất đồ chơi truyền thống của Hà Nội hướng tới
1.000 năm Thăng Long, làng Xuân La vui như mở hội. Ngày mùa được gác lại, các
nghệ nhân thi nhau trình diễn nghệ thuật nặn tị he để giới thiệu với du khách, thêm
một lần khẳng định với các nhà nghiên cứu, nhà quản lý hương vị quê nhà.

2.2.2 Nguyên nhân của hạn chế:
20


Mặc dù truyền thống của nghề đã được kế thừa và phát triển hơn 300 năm lịch
sử, từ những lớp ông, cha cho đến các lớp thế hệ thanh niên, nhi đồng. Bao đời
nay, việc truyền dạy nghề luôn gặp những khó khăn và trở ngại.
Giá trị kinh tế của mỗi sản phẩm tò he tương đối thấp (giá dao động từ 5 – 10
ngàn đồng/ 1 sản phẩm ) kéo theo đó nhu cầu tiêu dùng, ưa thích sản phẩm tị he
cũng khơng tăng cao như ngày trước (thời điểm thời bao cấp, thời kỳ mới bắt đầu
hội nhập kinh tế mở). Chính vì vậy nghề nặn tị he có thu nhập thấp, khó đủ để
ni sống các nghệ nhân, hiện nay nghề nặn tò he chủ yếu được coi là nghề tay trái
vào những lúc nông nhàn.
Do sự phát triển kinh tế thị trường thời mở cửa, số lượng ngành nghề mới tại
thơn - xã mang tính chất Cơng nghiệp ra đời, hịa trộn vào sự tăng tiến nhanh của
việc nâng cao tri thức cũng như mức sống của xã hội. Các ngành công nghiệp mới
gia tăng phát triển, đem lại lợi nhuận kinh tế cao cho người dân (như một số xí
nghiệp cơng ty dệt may, cơ khí, chế tạo máy,…) nên những lớp thế hệ trẻ tiếp nối
truyền thống trong làng nặn tò he dần dần chuyển đổi sang ngành nghề kinh tế
khác, để đem lại lợi nhuận cao hơn để trang trải kinh tế gia đình.
Những lớp nghệ nhân có tuổi nghề, cịn giữ được ngọn lửa đam mê, đã và đang
theo đuổi gìn giữ nghề cịn gặp nhiều trắc trở trong q trình kinh doanh cũng như
làm việc. Những nơi để tị he phơ những món “võ” của nghề chính là những khu
chợ cổ, công viên cây xanh, bảo tàng hay các trường tiểu học, nhưng những nơi đó
vẫn chưa được nhà nước bảo hộ và tạo điều kiện kinh doanh thỏa đáng, hay có

nhiều qui định ngăn cản.
Nghệ thuật nặn tị he đang ngày càng bị lấn lướt bởi sức cạnh tranh của trò chơi
điện tử và đồ chơi Trung Quốc, khiến cho tị he khơng cịn hấp dẫn được trẻ em
như lúc trước.

21


Hiệp hội làng nghề Việt Nam tuy đã quan tâm đến việc bảo tồn và phát huy
nghệ thuật nặn tò he truyền thống, nhưng vẫn chưa đưa ra được những biện pháp
khẩn cấp, có hiệu quả cao để phát triển và quảng bá rộng rãi nghệ thuật nặn tị he.
Chính vì các lí do chủ yếu nêu trên khiến cho việc khôi phục, bảo tồn, phát huy,
phát triển nghệ thuật nặn tị he cịn gặp nhiều khó khăn và thử thách.

22


CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN NGHỆ
THUẬT NẶN TÒ HE Ở VIỆT NAM
3.1 Phương hướng:
Nghệ thuật nặn tò he được đánh giá là độc đáo, mang đậm tính dân gian và bản
sắc văn hố dân tộc. Để kế thừa, bảo tồn và phát triển nghệ thuật nặn tị he, chính
quyền địa phương làng nghề nặn tị he, các cơ quan, ban ngành văn hóa cần quan
tâm, đưa ra định hướng cho nghệ thuật nặn tị he phát triển hết nội lực của mình,
đưa tị he Việt Nam bước chân vào sân chơi rộng hơn, lớn hơn.
3.2 Giải pháp:
Chính quyền địa phương làng nghề nặn tị he, các cơ quan, ban ngành văn hóa
đưa ra chính sách rõ ràng, dự án đầu tư các cụ thể nhằm ưu tiên, khuyến khích, tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển lâu dài và bền vững của nghệ thuật nặn tò he

như:
Đầu tư xây dựng các nhà trưng bày sản phẩm, tích cực tổ chức các hội trợ triển
lãm nhằm quảng bá rộng rãi nghệ thuật tò he; Tổ chức các hội thảo về thực trạng
và giải pháp để phát huy giá trị của nghệ thuật nặn tị he.
Khuyến khích mở xí nghiệp hay cơng ty sản xuất các sản phẩm tị he, nhân
rộng mơ hình bày bán sản phẩm quà lưu niệm đến các điểm bán lẻ, bán xỉ, tổ chức
thành lập các phương thức sản xuất tạo hình đại trà; Thiết lập trang web thương
mại điện tử, nâng sản phẩm tò he lên tầm cao mới trở thành mặt hàng xuất khẩu,
vận dụng quảng bá trong và ngồi nước, đưa tị he sánh ngang với các loại hình đồ
chơi truyền thống của Nhật Bản, Nga…Tham gia hợp tác với các hiệp hội đoàn thể
nghề và làng nghề truyền thống tại Việt Nam nhằm kêu gọi sự hỗ trợ từ bên ngoài

23


mặt khác gia tăng lợi ích của các nghệ nhân từ đó nâng cao mức thu nhập cho
người dân trong vùng.
Các nhà khoa học tiến hành nghiên cứu, tìm ra chất liệu mới để làm
tị he khơng những đẹp mà còn bền hơn rất nhiều lần, giúp cho nghệ thuật nặn tị he
khơng chỉ phát triển ở trong nước mà cịn được đơng đảo bạn bè quốc tế biết đến.
Các thành viên trong câu cậu lạc bộ tò he cần tham gia tích cực vận động tài trợ
xã hội, hỗ trợ các lợi ích cộng đồng; Thường xuyên tổ chức các buổi cho nghệ
nhân nặn tò he đến các bảo tàng dân tộc, các trường mẫu giáo, tiểu học để hướng
dẫn thiếu niên, nhi đồng nặn tị he, tạo hình nghệ thuật từ bột nặn. Hình ảnh người
nghệ nhân lấm tấm giọt mồ hôi mặn chát nhưng tay vẫn khéo léo nặn những con tò
he, ánh mắt sáng lên những đam mê là những hình ảnh quảng bá đẹp nhất cho nghề
tò he. Việc giảng dạy cho thế hệ trẻ, đặc biệt hướng tới trẻ con, khiến chúng thích
thú và truyền miệng nhau về tò he cũng là cách tốt để quảng bá cho nghệ thuật tò
he. Các nghệ nhân dạy nặn tò he nhưng cũng đồng thời là dạy về nét tinh túy của
văn hóa dân gian, giúp thế hệ trẻ thêm hiểu, thêm yêu bản sắc văn hóa và lịch sử

dân tộc qua những đồ chơi giàu tính nhân văn.
Những nghệ nhân nặn tị he phải ln giữ trong mình ngọn lửa đam mê, tâm
huyết với nghề, ý thức những sản phẩm mình làm ra chính là những đứa con tinh
thần để cho ra được những sản phẩm có hồn, có tính nghệ thuật cao và khơng làm
mai một nghệ thuật nặn tò he.

24


KẾT LUẬN
Tị he là một trong số ít những trị chơi dân gian còn lưu truyền đến ngày nay.
Những tác phẩm sinh động, đầy màu sắc, mộc mạc, mang đầy nét hoài cổ nhưng
tươi vui rạng rỡ, lạc quan như trẻ nhỏ, thơm như đồng lúa đang thì con gái được
làm nên từ chính bơng lúa q hương bởi bàn tay khéo léo của những nghệ nhân đã
chu du khắp bốn phương, làm say đắm bao tâm hồn người Việt…
Tò he khơng chỉ là một sản phẩm hàng hóa bình thường, nó là một sản phẩm
đơn chiếc với sự chuyên biệt cao nhất của từng cá thể nghệ nhân, là một sản phẩm
có giá trị nhân văn thường được nhấn mạnh, những điều đó cịn cao hơn nhiều so
với giá trị kinh tế. Mỗi một sản phẩm do đôi bàn tay của nghệ nhân tạo ra vừa có
giá trị vật dụng, vừa thể hiện được bản sắc văn hóa truyền thống dân gian độc đáo
của dân tộc. Những sản phẩm đó được những bàn tay tài hoa cùng với khối óc của
người thợ gửi gắm vào đó những phong tục tập quán, tín ngưỡng, nghi lễ, sinh hoạt
đời sống cộng đồng thơng qua những đường nét của tạo hình, hình khối và màu sắc
đặc trưng của sản phẩm. Chính vì vậy, sản phẩm của nghề và làng nghề truyền
thống đồng thời là sản phẩm mang đậm dấu ấn văn hóa của các chủ thể văn hóa tạo
ra sản phẩm đó.
Vượt lên trên giới hạn của một nghề mưu sinh, nghệ thuật nặn tị he đã trở
thành nét đẹp văn hóa dân gian, góp phần giáo dục cho nhiều thế hệ tuổi thơ ở
khắp mọi miền đất nước về lịch sử, bản sắc văn hóa và cội nguồn dân tộc. Đã có
những khoảnh khắc, tị he tưởng chừng bị qn lãng trước sự phát triển của các

loại đồ chơi hiện đại và những nghệ nhân tưởng như không thể trụ được bằng nghề
truyền thống… Nhưng cuối cùng, tò he vẫn giữ được giá trị đích thực của mình
trong tâm hồn Việt.
Giá trị văn hóa dân gian được lưu giữ trong những con tò he thân thương mang
theo hồn đất nước đến với mọi người, hấp dẫn du khách xa gần. Đó chính là điểm
25


×