Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Tài liệu Chiến tranh Tây Sơn - Chúa Nguyễn docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.55 KB, 10 trang )

Chiến tranh Tây Sơn-Chúa Nguyễn
1787-1802
Chiến tranh Tây Sơn-Chúa Nguyễn 1787-1802 là giai đoạn 2 của
Chiến tranh Tây Sơn-Chúa Nguyễn. Giai đoạn này bắt đầu khi Nguyễn
Ánh trở về tái chiếm Gia Định (1787) và kết thúc khi ông đánh bại hoàn
toàn lực lượng của nhà Tây Sơn năm 1802, thống nhất hoàn toàn Việt
Nam để trở thành vị vua đầu tiên của nhà Nguyễn là Hoàng đế Gia
Long.
Hoàn cảnh
Tình hình chính trị, xã hội trong nước dưới triều Tây Sơn mới được ổn
định hoàn toàn từ Đàng Trong ra tới Đàng Ngoài, tức là từ Trung Việt
trở ra Bắc Việt. Còn miền Nam Việt bấy giờ thuộc Đông Định Vương
Nguyễn Lữ nhưng đang có chiến tranh với quân chúa Nguyễn (Nguyễn
Ánh) nên cơ bản, Việt Nam vẫn chưa được thống nhất hoàn toàn. Riêng
về đất đai thuộc ảnh hưởng của thế lực Quang Trung thì thực tế chỉ có
thể kể từ Thuận Hóa ra Bắc.
[3]
So sánh lực lượng đôi bên
Chân dung người lính Tây Sơn năm 1793-Tranh của William Alexander
ở Hội An
Dựa theo các nguồn tư liệu của Pháp, nhiều nhất chưa có tới 100 người
Pháp tại Nam Kỳ trước năm 1792, và chỉ có ít người ở lại sau thời điểm
đó – có lẽ khoảng 12 sĩ quan và một vài người lính. Trong thời khoảng
từ 1799 đến 1802, khi mà sự giao tranh mãnh liệt nhất đã xảy ra trước
khi có sự chinh phục Việt Nam của Nguyễn Ánh, chỉ có bốn sĩ quan hải
quân là hãy còn có mặt tại Cochinchina (Đàng Trong)
[4]
. Vì thế không
thể nào nói rằng cá nhân họ đã làm thay đổi diễn biến của các sự việc.
Tuy nhiên, họ đã huấn luyện quân đội của Nguyễn Ánh về các kỹ thuật
mới và đã chia sẻ các kỹ thuật chiến đấu giúp cho quân lính và thủy thủ


của ông cân bằng được ưu thế với quân đội Tây Sơn.
Quân chúa Nguyễn tái chiếm Gia Định
Vì tranh giành quyền nên anh em Nguyễn Huệ - Nguyễn Nhạc đã không
có điều kiện kiểm soát đến các xứ thuộc Ðàng Trong nhất là từ Qui
Nhơn (Bình Ðịnh) trở vào, lợi dụng thời cơ đó, Nguyễn Ánh đã cùng với
các bộ tướng cũ, tháng 9 năm Ðinh Mùi (1787) trở về nước. Chúa
Nguyễn đã được dân miền Nam giúp đỡ rất nhiều, có nhiều tướng giỏi
đến phò như Võ Tánh, nên chẳng mấy chốc lực lượng Nguyễn Ánh đã
lớn mạnh.
[cần dẫn nguồn]
[2]
Tháng 7 năm Đinh Vị (1787) quân Nguyễn đánh vào Long Xuyên có kết
quả. Nguyễn Ánh mạo một bức thơ để Nguyễn Lữ hiểu lầm thái độ của
viên Trấn thủ Sài Côn là Phạm Văn Tham, lợi dụng sự nghi ngờ của
tướng Tây Sơn
[cần dẫn nguồn]
, Nguyễn Vương chiếm Sa Đéc, Vĩnh Long rồi
đóng quân ở Mỹ Tho dùng nơi này làm căn cứ.
Ngày 7- 9-1788 quân Nguyễn đánh được Gia Định đuổi được tướng
Phạm Văn Tham đang giữ thành này. Từ giờ này trở về sau thành Gia
Định nằm dưới sự kiểm soát của họ Nguyễn.
Tháng 9-1788, các tàu Dryade, Garonne, Đại úy Cook và Moyse mang
nhiều vũ khí đến Sài Côn và một số sỹ quan Pháp là: Olivier, Dayot,
Vannier, Laurent André Barisy, De Forsans phần nhiều sở trường về hải
quân và tổ chức các ngành quân đội theo lối Âu châu. Từ giai đoạn này
quân Gia Định của chúa Nguyễn mỗi ngày một mạnh bởi được chỉnh bị
và cải tổ theo Tây phương về chiến thuật cũng như về chiến lược.
Năm Canh tuất (1790) quân Nguyễn chiếm lại Bình Thuận.
Tháng 3 năm Quý Sửu (1793) Nguyễn Phúc Cảnh được lập làm Đông
Cung lănh chức coi Tả quân danh.

Chúa Nguyễn củng cố hậu phương
Chúa Nguyễn Ánh, tức vua Gia Long sau này
Cha cố Adran, Giám mục Pigneau de Behaine, vị cố vấn đáng tin cậy
của chúa Nguyễn.
Chúa Nguyễn Ánh thi hành ở Gia Định chính sách định quốc an dân.
Việc cờ bạc, đàng điếm, mê tín nhảm nhí đều cấm ngặt. các ngạch thuế
khóa được đặt ra để lấy ngân sách duy trì quân đội và việc khẩn hoang,
trồng trọt được thúc đẩy rất là mạnh mẽ. Mười hai Điền Tuấn quan trong
đó có Trịnh Hoài Đức, Ngô Tùng Châu, Lê Quang Định được cử ra để
quản lý dân làm ăn cầy cấy.
Nhà nước cấp trâu bò và nông cụ cho ai quá nghèo rồi các thứ này được
trả bằng thóc vào ngày mùa. Chúa Nguyễn còn tổ chức các đồn điền ở
những vùng cao nguyên. Khai khẩn ở đây là những đội gồm quân lính và
dân chúng gọi là đồn điền đội, mỗi người phải nộp đồng niên 6 hộc thóc.
Dân mộ được 10 người trở lên đi làm đồn điền tì́ cho làm cai trại và
miễn sưu dịch. Nhờ có sự khôn khéo này Nam Kỳ xưa kia hoang vu dần
dần trở nên trù phú, đông đảo và vui vẻ. Người ngoại quốc ra vào buôn
bán tấp nập. Bấy giờ Nguyễn Vương chú ý rất nhiều đến việc mua các
đồ đồng, sắt, gang, thép để làm quân khí và trả bằng ngũ cốc cùng
đường cát.
[5]
Các chiến dịch theo mùa của cả 2 phe
Quang Trung, vua nhà Tây Sơn
Được Gia Định làm căn cứ có đủ thóc gạo nuôi quân, ngay năm sau là
tháng tư năm Canh Tuất (1790) Nguyễn Ánh cho Lê Văn Câu là Chưởng
Tiền Quân đem 5.000 quân thủy bộ ra đánh thành Bình Thuận. Võ Tánh
và Nguyễn Văn Thành về Gia Định. Lê Văn Câu ở lại giữ Phan Rí. Sau
việc thất bại này Câu bị lột hết chức tước, lấy làm xấu hổ nên uống
thuốc độc mà chết.
Những việc xuất quân của Gia Định trên đây xét ra không lợi. Bấy giờ là

tháng 7, gió Bắc thổi mạnh phải đợi gió thuận thủy quân mới đi đánh
nhau được.
Năm Nhâm Tý (1792) vua Quang Trung qua đời, con là Quang Toản lên
ngôi mới 10 tuổi, vì thế Vương nghiệp triều Tây Sơn nhanh chóng rơi
vào suy vong. Quang Toản lên ngôi vua, dùng cậu là Bùi Đắc Tuyên làm
thái sư giám quốc trông coi mọi việc trong ngoài. Vì Quang Toản còn
nhỏ quá, Bùi Đắc Tuyên ngày càng chuyên quyền nên trong ngoài đều
oán, đại thần trong triều ngoài trấn nghi kỵ lẫn nhau.
Ðược tin vua Quang Trung băng hà, Nguyễn Ánh rất vui mừng, ông đẩy
mạnh việc chuẩn bị đánh Tây Sơn. Dưới trướng Nguyễn Vương lúc bấy
giờ có nhiều quan chức người nước ngoài như Dayot (Ông Trí), Philippe
Vannier (Ông Chấn), Guilloux, Laurent Barisy (Ông Mân), De Forcant
(Ông Lăng), Jean Baptiste Chaigneau, Olivier de Puymanel (Ông Tín),
Theodore Lebuen. Những quan chức nầy là những cố vấn kỹ thuật cho
Nguyễn Vương trong lãnh vực quân sự, vũ khí, đấp thành, v.v
Năm Nhâm tý (1792) chúa Nguyễn tự thân đi đánh Qui Nhơn nhưng
cũng không thành công.[3]
Từ đấy hằng năm cứ đến mùa gió nồm Phúc Ánh cho quân tiến ra đánh
các tỉnh miền Trung, khi gió bấc nổi lên ngài lại rút quân về Gia Định.
Người trong nước, mà chủ yếu là ở vùng Thuận - Quảng trông ngóng
quân của chúa Nguyễn từ Gia Định ra đánh Tây Sơn nên thời bấy giờ có
câu ca dao còn truyền tụng đến giờ:
[6]
Lạy trời cho cả gió nồm,
Để cho chúa Nguyễn kéo buồm thẳng ra.
Chiến dịch gió mùa đầu tiên, trong năm 1792, đưa đến một sự triệt hạ
gần như hoàn toàn hải quân của Tây Sơn tại Thị Nại, hải cảng ở Qui
Nhơn. Tại đó người anh của Hoàng Đế, Nguyễn Nhạc, đã thả neo một
hạm đội các chiến thuyền vừa mới xây dựng xong để chuẩn bị cho một
cuộc xâm lăng xuống miền nam. Khi tin tức về chiến dịch chủ định của

họ đến tai Nguyễn Phúc Ánh, ông đã phát động một cuộc viễn chinh của
chính mình dưới sự chỉ huy của hai người Pháp. Với chiều gió thuận lợi
cho nó, lực lượng này đã mau chóng tiến tới cửa Thị Nại, nhận thấy các
chiến thuyền Tây Sơn đậu kín tại hải cảng, và đã tiến vào bến tàu, nơi
binh sĩ tức thì đổ bộ và chiếm giữ các đồn lũy. Viên tướng Tây Sơn và
lực lượng của ông ta đã bỏ chạy, để lại đàng sau các chiến thuyền và vũ
khí của mình. Trong số các thuyền tham dự trận đánh này có 40 chiếc
thuyền hải tặc được tuyển mộ bởi Hoàng Đế Quang Trung. Ba trong số
các thuyền này bị bắt giữ bởi phe chúa Nguyễn, cùng với 75 chiến
thuyền khác từ hạm đội mới của Nguyễn Nhạc.
[7]
Cờ hiệu Hải tặc Trung Hoa Thế kỷ XIX-Hải tặc Trung Hoa là lực lượng
đã tham gia trong Hải quân của nhà Tây Sơn
.
Sự biến Phú Xuân
Triều đường chi ân của nhà Tây Sơn.
Chiến sự Qui Nhơn
Gươm và súng của quân đội nhà Tây Sơn.
Cuộc thất trận tệ hại nhất vẫn chưa xảy ra. Trong tháng Bảy, các lực
lượng phe chúa Nguyễn, sau khi dành được lối tiếp cận với tòa thành, đã
chinh phục được Qui Nhơn, nơi họ đặt tên lại là Bình Định. Họ ở lại đó
cho đến tháng Mười Một năm 1799, khi mà sự từ trần của vị cố vấn
quân sự từ lâu của Nguyễn Phúc Ánh, đức giám mục Adran, Pigneau de
Behaine, đã buộc họ phải gửi lực lượng chủ yếu về lại miền nam. Một
hạm đội dưới quyền Tổng Binh Võ Tánh đã được lưu lại phòng vệ hải
cảng ở đó, cửa Thị Nại, để chống lại hải tặc Tây Sơn.
Bình Định ở vị trí lẻ loi khó tiếp viện, nên mùa thu năm đó quân Tây
Sơn vây thành và chận đường tiếp viện phía nam. Nhờ Võ Tánh giỏi cố
thủ nên thành không bị mất. Năm Canh Thân (1800) chúa Nguyễn tự
thân đi cứu viện đánh nhau nhiều phen với quân Tây Sơn nhưng không

giải được vây.
Chúa Nguyễn lấy lại Phú Xuân và xưng Đế
Phú Xuân Thế kỷ XIX
Từ năm 1800, triều sóng chiến trận đã từ từ trở nên bất lợi cho phía Tây
Sơn. Lần đầu tiên Nguyễn Phúc Ánh, thay vì trở về miền nam, đã ở lại
Quy Nhơn, khi đó đang dưới sự bao vây. Sau gần một năm không có các
kết quả quyết định, ông ta lựa chọn việc chuyển hướng tấn công vào Phú
Xuân.
Từ ngày giữ chức Đại nguyên sóai đến lúc này trải qua 25 năm, Nguyễn
Ánh được 40 tuổi, nhiều phen ông vào sinh ra tử mới thu phục lại được
Kinh đô cũ.
Hoàng đế Trung Hoa Gia Khánh
Ðến tháng Tư năm Nhâm Tuất (1802) vua Gia Long cho sửa chữa
Hoàng Thành, qua ngày mồng một tháng 5 cho lập đàn ở xã An ninh
(nay là Kim Long, Hương Trà, Thừa Thiên) hiệp tế trời đất về việc đặt
niên hiệu, hôm sau ngày mồng hai tháng 5 (1.6.1802) vua ngự ở điện
nhận lễ triều hạ, đặt niên hiệu Gia long, ban lệnh đại xá khắp nước. Sau
đó cho dựng Thái Miếu ở bên trái Hoàng Thành. Lên Ngôi vua rồi, ông
sai Trịnh Hoài Ðức, Ngô Nhân Tĩnh đem phẩm vật và những ấn sách
của nhà Thanh đã phong cho Tây Sơn, sang nạp cho Thiên Triều và xin
cho mình làm An Nam Quốc Vương thay thế Tây Sơn.
Đoàn sứ thần của vua Gia Long đi trên 2 thuyền Bạch Yến và Hoàng
Hạc vượt biển tới cửa Hổ Môn thuộc Quảng Đông đem theo cả bọn hải
tặc Tây Sơn để nộp. Tổng đốc nhà Thanh là Ái Tân Cát Khánh đem việc
này chuyển lên Gia Khánh. Gia Khánh vốn ghét Tây Sơn vô đạo, chiêu
nạp bọn Mạc Quan Phù cho cướp bóc, đã lâu ngăn trở ở ngoài biển, nay
được tin báo nên rất vui lòng, khoản đãi sứ thần rất hậu và đưa các tướng
lãnh hải tặc Tây Sơn ra giết hết.
[8]
Vua tôi Tây Sơn chạy ra Bắc

Đại chiến Trấn Ninh
Trận chiến tại Kỳ Sơn
Những trận đánh cuối cùng
(Đoạn trên bị xoá do vi phạm bản quyền)
Nhà Tây Sơn tới đây là dứt. Quang Toản lên ngôi vua nǎm 1793, đến
nǎm 1802 thì bị giết ở tuổi 20, ở ngôi được 9 nǎm. Như vậy triều Tây
Sơn kể từ vua Thái Đức Nguyễn Nhạc đến hết Cảnh Thịnh tồn tại được
24 nǎm (1778-1802).
Ðến tháng 6 cùng năm thì vua Gia Long đã thống nhất được sơn hà,
chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài gần 300 năm.[4] Trận đánh cuối cùng
của vua Gia Long và tàn quân Tây Sơn là tại đảo Giang Bình thuộc tỉnh
Quảng Tây, Trung Quốc tháng 7/1802. Quân chúa Nguyễn đã chém đầu
Đại Tư Mã Trịnh Thất-1 hải tặc Trung Hoa trong hàng ngũ Tây Sơn-và
kết thúc hoàn toàn cuộc nội chiến đã kéo dài suốt gần 30 năm.
Tháng Giêng năm Giáp tý (1804), Gia Long làm lễ nhận tuyên phong
của nhà Thanh, qua tháng 2 đổi quốc hiệu là Việt Nam và mãi đến năm
Bính Dần (1806) vua Gia Long mới chính thức làm lễ lên ngôi Hoàng
Ðế ở điện Thái Hòa.

×