Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Tài liệu Chiến tranh Việt - Chiêm 1 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.68 KB, 5 trang )

Chiến tranh Việt – Chiêm
Chiến tranh Việt-Chiêm 1044
Chiến tranh Việt-Chiêm 1044 là tên gọi của cuộc chiến do nhà Lý phát
động năm 1044 nhằm tấn công nước Chiêm Thành ở phương Nam với lý
do người Chiêm bỏ cống luôn 16 năm cho nhà Lý.
Hoàn cảnh lịch sử
Vua Lý Thái Tông nhà Lý lên ngôi, Chiêm Thành chịu xưng thần nộp
cống, rồi Chiêm bị nội loạn, con cháu vua Chiêm giành nhau địa vị nên
biên giới của Đại Cồ Việt yên trong một thời gian. Nhưng sau ít lâu, họ
bỏ nộp cống luôn 16 năm.
Diễn biến
Ngày Quý Mão vua thân chinh đánh Chiêm Thành, dùng Khai Hoàng
làm chức lưu thử. Ngày Giáp Thìn, quân Lý xuất phát từ kinh đô, ngày
Ất Tỵ đóng quân tại cửa biển Đại Ác. Lúc đó sóng yên, có lợi cho đại
quân đi từ Đại An (tức Đại Ác) qua Ma Cô
[1]
Trong ngày ấy nhờ có gió vượt qua được 2 bãi cát dài, quân Lý đi thẳng
đến cửa biển Tư Dung
[2]
. Vua Chiêm Thành đã dàn trận trước ở sông
Ngũ Hồ để đợi quan quân nhà Lý. Lý Thái Tông bèn xuống chiếu cho
quân sĩ bỏ thuyền, lên đất liền. Vua lại cho một phần binh lính dựng cờ,
đánh trống như sắp muốn đánh nhau với người Chiêm. Quân Chiêm
Thành thấy binh lính oai nghiêm, lại quá nhiều mới sợ mà thua sớm.
Vua cho quân đuổi theo chém được ba đầu của người Chiêm. Tướng
Chiêm là Quách Gia Di chém chúa Sạ Đẩu để dâng quân Lý. Quân Lý
giết 3 vạn quân Chiêm, bắt sống 5.000 người, bắt được 30 con voi
[3]
. Lý
Thái Tông lấy làm thương xót mới xuống chiếu: "Hễ ai giết người
Chiêm Thành thì bị chém"


[4]
Vua Thái Tông kéo quân vào thành Phật Thệ, bắt cung nữ của Sạ Đẩu,
kén lấy người nào giỏi hát và biết múa điệu khúc Tây thiên cùng vô số
cung nhân, nhạc nữ đem về nước. Quân về đến Lý Nhân, triệu vợ của Sạ
Đẩu là Mỵ Ê lên hầu vua. Mỵ Ê từ chối, lấy chăn quấn mình rồi nhảy
xuống nước mà chết. Vua khen là người trinh tiết, phong cho làm Hiệp
chính Hựu thiện phu nhân.
Tháng 8 Lý Thái Tông rút quân về, tháng 9 thì về đến kinh đô Chiêm
Thành. Lý Thái Tông đem tin thắng trận cáo Thái miếu, ban tiệc rượu
thưởng công.
Chiêm Thành lại hàng, nhưng sự hàng phục của họ không lâu, bởi họ là
một dân tộc có óc quật cường rất mạnh và chí phục thù rất bền bỉ
[5]
. Sau
cuộc Nam chinh này của nhà Lý, người Chiêm muốn trả đũa quân Việt
nên đã xin thần phục nhà Tống của Trung Hoa, mong nhờ họ giúp đỡ.
Vua Thánh Tông nối nghiệp vua cha lại phải đem quân Nam chinh.
Chiến tranh Việt-Chiêm 1069
Chiến tranh Việt-Chiêm 1069 là cuộc chiến do vua Lý Thánh Tông
của Đại Việt phát động năm 1069 nhằm đánh vương quốc Chiêm Thành
ở phương Nam với lý do người Chiêm từ chối thần phục nhà Lý. Nhà Lý
gọi cuộc chiến này là Chiến dịch phạt Chiêm 1069.
Hoàn cảnh lịch sử
Từ khi Đại Việt giành được độc lập (thế kỷ thứ 10) việc đánh Chiêm
Thành thường được các vua Lý tiến hành mỗi khi Chiêm Thành bỏ việc
tiến cống và thông sứ hoặc quấy nhiễu các vùng biên giới trên bộ và ven
biển Đại Việt.
Năm Giáp Thân (1044), Lý Thái Tông đã đánh Chiêm Thành với lý do
nước này bỏ thông hiếu, phá quốc đô Phật Thệ và giết chúa Sạ Đẩu.
Sang thời Lý Thánh Tông, năm 1065 - 1069, Chiêm Thành bỏ cống. Vua

Thánh Tông lại đem quân Nam chinh. Nhưng một vài sử gia cho rằng tới
giai đoạn lịch sử này cuộc đánh Chiêm chẳng phải riêng vì việc đoạn
tuyệt giao hiếu, mà do Đại Việt bắt đầu thi hành chính sách mở rộng
biên giới, dựa vào chỗ Chiêm Thành có tinh thần bất khuất chống đối
đối với Đại Việt và lại lén lút thần phục nhà Tống
[1]
.
Quốc vương Chiêm là Chế Củ muốn dựa vào nhà Tống để chặn bước
tiến của Đại Việt, xin thần phục và được vua Tống Thần Tông giúp đỡ,
cho ngựa trắng và cho phép họ mua lúa ở Quảng Châu, Chiêm Thành
không tiếp tục nạp cống cho Đại Việt nữa. Mọi hành động của Chiêm
Thành đều bị người Việt cho là khiêu khích họ
[2]
.
Diễn biến
Năm 1068 vua Lý Thánh Tông sửa soạn thêm chiến thuyền (việc giao
thông từ thành Phật Thệ tới Đại Việt bằng đường núi theo lời sứ Chiêm
tâu với vua Tống phải mất 40 ngày. Vua nhà Tiền Lê trước đây có đào
tân cảng và sửa chữa đường sá nhưng xét ra dùng thủy đạo vẫn dễ dàng
cho việc chuyển quân hơn. Lực lượng quân sự của Lý triều tất cả có
chừng 200 chiếc thuyền, Lý Thường Kiệt được làm Đại tướng đi tiên
phong, em Thường Kiệt là Lý Thường Hiến giữ chức Tán kỵ Võ úy.
Ở triều bấy giờ Lý Thánh Tông giao cho Nguyên phi Ỷ Lan và Thái sư
Lý Đạo Thành trông coi việc nước. Bảy ngày sau khi rời khỏi Thăng
Long các đạo quân Việt đã có mặt ở Nghệ An, ba ngày sau tới phía Nam
núi Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh), vào hải phận Chiêm Thành.
Năm ngày sau Lý Thường Kiệt tới cửa Nhật Lệ là nơi tập trung của thủy
quân Chiêm Thành. Tại Nhật Lệ, một nhóm nhỏ thủy quân Chiêm xông
ra chặn quân Việt. Tướng của quân Lý là Hoảng Kiệt đánh lui họ rồi tiến
về phía Nam không bị ngăn trở, mục đích của quân Đại Việt là tiến

thẳng tới thành Phật Thệ phá kinh đô và bắt quốc vương. Bốn ngày sau
nữa tới cửa Tư Dung nay gọi là Tư Hiền là cửa sông vào các phá và
sông thuộc Quy Nhơn ngày nay. Quân Lý mất ba ngày nữa, tính tất cả là
26 ngày từ Thăng Long đến đấy.
Thành Phật Thệ
[3]
, ba phía Tây-Nam-Bắc có núi che chở, phía Đông giáp
biển. Thủy quân của nhà Lý đổ bộ ở đây. Tướng Chiêm là Bố Bì Đà La
dàn trận trên bờ sông Tu Mao chặn đánh. Quân Lý xông lên giết được
Bố Bì Đà La và rất nhiều binh sĩ.
Lý Thường Kiệt vượt được sông Tu Mao, lại qua hai con sông nữa mới
tới kinh đô Chiêm Thành. Đang đêm nghe tin quân của mình bại trận ở
Tu Mao, vua Chế Củ mang vợ con chạy trốn. Đêm ấy, quan quân nhà Lý
tràn vào thành Phật Thệ, đến bến Đồng La, dân ở thành Phật Thệ phải
xin hàng
[4]
.
Vua Thánh Tông đánh Chiêm Thành lâu lắm không hạ nổi, bèn đem
quân trở về. Đi nửa đường đến châu Cư Liên, vua nghe thấy nhân dân
khen bà Nguyên phi ở nhà giám quốc, trong nước được yên trị, Thánh
Tông nói: “Người đàn bà trị nước còn được như thế, mà mình đi đánh
Chiêm Thành không thành công, thế ra đàn ông hèn lắm sao?”
Vua Thánh Tông quay trở lại đánh Chiêm. Lý Thường Kiệt đem quân
theo phía Nam. Tháng tư quân Lý tiến đến biên giới Chân Lạp
(Campuchia), qua các vùng Phan Rang, Phan Thiết ngày nay mà tiếng
Chiêm gọi là Panduranga. Tháng 4 Lý Thường Kiệt bắt được vua Chế
Củ ở biên giới Chân Lạp. Vua Chiêm vốn có cựu thù với nước Chân Lạp
nên hết đường chạy phải ra hàng, kết quả là ông bị Lý Thường Kiệt cầm
tù. Cuộc đuổi bắt vua Chế Củ mất hết một tháng.
Người có công lớn nhất trong cuộc đại thắng này của nhà Lý là Lý

Thường Kiệt.
Tháng 5 Lý Thánh Tông ngự tiệc cùng quần thần ở cung điện của vua
Chiêm, vua lại thân hành múa thuẫn và đánh cầu ở nơi thềm điện ấy.
Trước khi về nước Thánh Tông còn không quên sai đếm tất cả nhà của
dân ở trong và ngoài thành Phật Thệ, gồm có hơn 2.660 căn đều thiêu rụi
sạch
[5]
.
Ngày 19 tháng 6 năm Quý Tỵ, thuyền của quân Lý về đến cửa Tư Minh,
có lẽ là Tư Dung. Ngày 17 tháng 7 năm Tân Dậu, đạo quân Nam chinh
về tới Thăng Long. Vua Thánh Tông lên bộ ngự trên xe, quân thần cỡi
ngựa theo sau. Vua Chiêm mặc áo vải trắng, đầu đội mũ làm bằng cây
gai, tay bị trói sau lưng do 5 người lính Võ đô dắt. Quyến thuộc đi sau
cũng bị trói. Chế Củ xin dâng 3 châu Bố Chính, Ma Linh và Địa Lý để
chuộc tội nên ông được tha về.
Mùa thu, tháng 7 tại nhà Thái Miếu, vua Lý Thánh Tông dâng trình việc
thắng trận. Chiến tranh kết thúc với thắng lợi và mở rộng đất đai của Đại
Việt.

×