Phân tích quy định tại Điều 6 Hiến pháp năm 2013 “ Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.” Qua đó, hãy luận giải, chỉ rõ hình th
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.19 KB, 15 trang )
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN..................................................................................................2
ĐẶT VẤN ĐỀ..................................................................................................3
PHẦN 1: NỘI DUNG TÌNH HUỐNG...........................................................5
1.1. Hồn cảnh xuất hiện của tình huống.......................................................5
1.2. Mơ tả tình huống:....................................................................................6
PHẦN 2: PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG........................................................8
2.1. Mục tiêu phân tích tình huống................................................................8
2.2. Cơ sở lý luận...........................................................................................8
2.3. Phân tích diễn biến tình huống................................................................9
2.4. Nguyên nhân xảy ra tình huống............................................................10
2.5. Hậu quả của tình huống gây ra..............................................................11
PHẦN 3: XỬ LÝ TÌNH HUỐNG.................................................................11
3.1. Mục tiêu xử lý tình huống.....................................................................11
3.2. Đề xuất phương án xử lý tình huống:....................................................12
3.3. Lựa chọn phương án xử lý:...................................................................14
3.4. Các giải pháp thực hiện phương án đã lựa chọn...................................14
PHẦN 4. KIẾN NGHỊ...................................................................................15
4.1. Kiến nghị với Đảng, Nhà nước:............................................................15
MỤC LỤC
Trang
MỤC 1..............................................................................................................1
ĐẶT VẤN ĐỀ..................................................................................................1
MỤC 2..............................................................................................................2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ...................................................................................2
1. Khái niệm chung về dân chủ....................................................................2
2. Các hình thức dân chủ..............................................................................2
2.1. Dân chủ trực tiếp...................................................................................3
2.1.1. Khái niệm............................................................................................3
2.1.2. Các cơ chế thực hiện dân chủ trực tiếp...............................................3
a. Nhân dân tham gia thành lập bộ máy nhà nước thông qua bầu cử và ứng cử
...........................................................................................................................3
b. Nhân dân biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý kiến.................................4
c. Nhân dân tham gia quản lý nhà nước.........................................................4
d. Nhân dân bãi miễn đại biểu dân cử............................................................5
e. Nhân dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo..............................................5
f. Hình thức dân chủ trực tiếp thông qua quyền trưng cầu dân ý của công
dân…………………………………………………………………………….6
g. Nhân dân thực hiện dân chủ ở cơ sở..........................................................7
2.2. Dân chủ đại diện.....................................................................................7
2.3. Hình thức thực hiện quyền lực nhân dân quan trọng nhất hiện nay.8
MỤC 3............................................................................................................10
KẾT LUẬN....................................................................................................10
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................11
MỤC 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhà nước của ta là nhà nước của Dân, do Dân và vì Dân. Từ Hiến pháp năm
1946 đến nay đều thống nhất quan điểm đó. Hiến pháp năm 2013 một lần nữa
khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân... do Nhân dân
làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức”. Hiến pháp
khơng chỉ quy định Nhân dân là chủ thể của Nhà nước, tất cả quyền lực Nhà nước
thuộc về Nhân dân mà còn quy định phương cách Nhân dân thực hiện quyền lực
Nhà nước của mình. Điều 6 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhân dân sử dụng
quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là các cơ quan đại
diện cho ý chí và nguyện vọng của Nhân dân, do Nhân dân bầu ra và chịu trách
nhiệm trước Nhân dân”. Còn Điều 6 Hiến pháp 2013 ghi: "Nhân dân thực hiện
quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua
Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước". Do
đó, điều 6 Hiến pháp năm 2013 đã sửa đổi so với điều 6 của Hiến pháp năm 1992,
quy định rõ hơn các phương cách Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước, không
chỉ bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân mà cịn bằng
các hình thức dân chủ trực tiếp.
1
MỤC 2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Khái niệm chung về dân chủ
Dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa
nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng, tự do
và quyền con người. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của
những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định. Là hình thức tổ chức chính trị của
Nhà nước, dân chủ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, như vậy dân chủ
là một phạm trù lịch sử, cũng như các biểu hiện khác của hình thái ý thức xã hội,
dân chủ do tồn tại xã hội quyết định, do phương thức sản xuất vật chất của xã hội
quyết định; và do đó, trình độ của phương thức sản xuất khác nhau tất yếu dẫn đến
sự khác nhau về trình độ dân chủ (mức độ thực hiện dân chủ và dân chủ hoá trong
xã hội). Dân chủ biến đổi và phát triển không ngừng cả về chất và lượng trong
từng giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội lồi người. Tuy nhiên, dân chủ với tính
cách là giá trị xã hội, là thành quả giá trị nhân văn trước hết được sinh ra từ
phương thức tổ chức hợp tác sản xuất vật chất và cấu kết cộng đồng giữa người với
người thì đã tồn tại ngay từ xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Và do đó, với ý nghĩa
này, dân chủ sẽ tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của con người,
là một trong những phương thức tồn tại của con người ngay cả khi Nhà nước đã
biến mất.
2. Các hình thức dân chủ
Hiến pháp năm 2013 ra đời đã khẳng định chủ quyền nhân dân trong việc xây
dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp, tôn trọng và đề cao quyền làm chủ của người
dân, thể hiện rõ hơn bản chất dân chủ của Nhà nước ta, Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Đồng thời cũng quy định cụ thể cách thức để
nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện
(Điều 6 Hiến pháp năm 2013).
2
2.1. Dân chủ trực tiếp
2.1.1. Khái niệm
Hình thức dân chủ trực tiếp là hình thức mà nhân dân trực tiếp tham gia quản
lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và của địa
phương; trực tiếp thể hiện ý kiến khi nhà nước tổ chức trưng cầu ý kiến nhân dân
(Điều 29 Hiến pháp 2013); Nhân dân trực tiếp bầu ra các đại biểu vào các cơ quan
đại diện thay mặt cho mình thực hiện quyền lực và có quyền bãi nhiệm khi họ
khơng cịn được sự tín nhiệm của Nhân dân (Điều 27 và Điều 7 Hiến pháp 2013).
Dân chủ trực tiếp là việc Nhân dân trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước.
Tức là Nhân dân thể hiện một cách trực tiếp ý chí của mình (với tư cách là chủ thể
quyền lực nhà nước) về một vấn đề nào đó mà khơng cần thơng qua cá nhân hay tổ
chức thay mặt mình và ý chí đó có ý nghĩa bắt buộc phải thi hành. Hình thức biểu
hiện cụ thể của dân chủ trực tiếp như ứng cử, bầu cử Quốc hội, Hội đồng Nhân
dân, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, trưng cầu dân ý... Các cuộc đối thoại trực
tiếp của nhân dân với cơ quan Nhà nước hiện nay cũng là hình thức biểu hiện của
dân chủ trực tiếp.
Hình thức này rất hay để Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước nên nó có
ưu điểm là Nhân dân trực tiếp quyết định, phản ảnh đúng ý chí, nguyện vọng của
mình nhưng hạn chế của hình thức này là những vấn đề mà Nhân dân trực tiếp
quyết định khơng nhiều vì điều kiện khơng cho phép. Vì dân chủ trực tiếp được mở
rộng đến đâu còn phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, trình
độ dân trí, nhận thức chính trị, trình độ pháp lý của nhân dân...của một nước.
2.1.2. Các cơ chế thực hiện dân chủ trực tiếp
a. Nhân dân tham gia thành lập bộ máy nhà nước thông qua bầu cử và ứng cử
Bầu cử và ứng cử là một trong những nội dung dân chủ về chính trị quan
trọng nhất, là biểu hiện rõ nhất của dân chủ. Thông qua bầu cử và ứng cử, nhân dân
trực tiếp thành lập ra bộ máy nhà nước.
Theo khoản 1, điều 7, Hiến pháp 2013: “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo ngun tắc phổ thơng, bình đẳng,
trực tiếp và bỏ phiếu kín”. Nguyên tắc này được coi là nguyên tắc tiến bộ nhất của
nền dân chủ hiện đại. Qua đó, nhân dân tự lựa chọn được những người xứng đáng
3
thay mặt mình để quản lý và giải quyết các công việc của nhà nước và xã hội. “Chỉ
khi nào có những uỷ ban do tồn dân bầu ra trên cơ sở quyền phổ thông đầu phiếu
mới là những uỷ ban dân chủ”[1].
Đề cao giá trị của hình thức dân chủ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng,
tổng tuyển cử là sự thể hiện năng lực thực hành dân chủ của nhân dân. Người viết:
“Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có
tài, có đức để gánh vác việc nước nhà… Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra
Quốc hội; Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thực sự là Chính phủ của
nhân dân”. Như vậy, thông qua bầu cử, nhân dân thực hiện quyền lực của mình,
xây dựng nên một nhà nước hợp pháp theo ý nguyện của toàn dân.
b. Nhân dân biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý kiến
Trưng cầu ý dân là một hình thức dân chủ trực tiếp điển hình, một trong
những hình thức cao của việc nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Sự ra đời định chế trưng cầu ý dân đánh dấu mốc quan trọng trong sự phát triển
của nền dân chủ trên thế giới. Bỏ phiếu trưng cầu là việc nhân dân bỏ phiếu thể
hiện ý chí của mình đối với những vấn đề trọng đại của đất nước. Thơng qua hình
thức này, “người dân có điều kiện thể hiện quan điểm của mình đối với một vấn đề
chính trị xã hội quan trọng, được bày tỏ ý kiến đồng ý hay không đồng ý và cơ
quan nhà nước có trách nhiệm căn cứ vào đó để ban hành quyết định tương
ứng”[2].
c. Nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội
Xác định rõ mục tiêu xây dựng một chế độ dân chủ triệt để, dân chủ là “do nhân
dân tự quy định”, Lênin cho rằng, mục đích của chính quyền Xô viết là thu hút
những người lao động tham gia vào quản lý nhà nước, thực hiện một nền dân chủ
rộng rãi nhằm giải phóng con người và phát triển tồn diện con người trong xã hội
mới. Có nhiều phương thức để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, trong đó, việc
nhân dân tham gia thảo luận và góp ý kiến xây dựng chính sách, pháp luật của nhà
nước có ý nghĩa hết sức quan trọng. Thơng qua đó, nhân dân thể hiện một cách
4
trực tiếp ý chí của mình về các vấn đề được pháp luật điều chỉnh (Điều 28 Hiến
pháp 2013).
d. Nhân dân bãi miễn đại biểu dân cử.
Chế độ dân chủ sẽ khơng thể triệt để và hồn tồn nếu nhân dân chỉ bầu ra
những đại biểu của mình mà lại khơng có quyền bãi miễn các đại biểu đó khi họ
khơng cịn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Quyền bãi miễn là quyền có
ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện chế độ dân chủ được thể hiện tại khoản 2,
điều 7, Hiến pháp 2013:“Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân
bị cử tri hoặc Quốc hội, hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi khơng cịn xứng đáng
với sự tín nhiệm của nhân dân”. Lênin cho rằng, mọi cơ quan được bầu ra… đều
có thể coi là có tính chất dân chủ chân chính và đại biểu thực sự cho ý chí của nhân
dân khi nào quyền bãi miễn của cử tri đối với người trúng cử được thừa nhận và áp
dụng… Nguyên tắc cơ bản đó… cũng phải được áp dụng đối với Quốc hội lập
hiến… Từ chối không áp dụng quyền bãi miễn, trì hỗn thi hành quyền đó, hạn chế
nó, thì như thế tức là phản lại dân chủ…
Khi bàn về mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”. “Nếu
Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng khơng phải là chửi”[3]. Người
viết: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân
dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu của
mình”[4].
e. Nhân dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo
Việc thực hiện quyền khiếu nại tố cáo, là hình thức biểu hiện nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa là điều kiện trực tiếp để nhân dân tham gia quản lý xã hội, quản lý
nhà nước. Quyền khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân
nó được thể hiện trong các bản Hiến pháp của nước ta. Ở Hiến pháp 2013 nó được
quy định trong khoản 1 Điều 30 cụ thể như sau: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố
cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật
5
của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Khi khiếu nại, tố cáo nhân dân đã chuyển đến cho
cơ quan Nhà nước những thông tin, phát hiện về những việc làm vi phạm pháp
luật, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân,
trên cơ sở đó Nhà nước kiểm tra lại hoạt động, hành vi của các cơ quan và các cán
bộ của mình, kịp thời chấn chỉnh, xử lý sai phạm, thậm chí loại trừ ra khỏi bộ máy
Nhà nước những người không xứng đáng, làm cho bộ máy Nhà nước ngày càng
trong sạch, vững mạnh.
f. Hình thức dân chủ trực tiếp thông qua quyền trưng cầu dân ý của công dân.
Trưng cầu ý dân là hình thức lấy ý kiến nhân dân đối với những
vấn đề hệ trọng của đất nước hoặc của từng địa phương thơng qua hình thức
bỏ phiếu trực tiếp, ngồi ra nhân dân cịn tham gia đóng góp ý kiến, kiến nghị đối
với các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Thông qua
hoạt động này, những người dân đến tuổi trưởng thành, với tư cách cơng dân của
mình, thể hiện chính kiến một cách cụ thể trên những vấn đề cần có quyết định dứt
khốt sau khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã làm hết sức mình nhưng
chưa tìm được giải pháp thoả đáng. Điều 29 Hiến pháp 2013 có quy định: “Cơng
dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu
ý dân”. Qua trưng cầu ý dân, các cử tri có quyền và có dịp bày tỏ quan điểm của
mình và đó chính là điều kiện để các cơ quan lãnh đạo và quản lý “tự kiểm tra”
mình. Nhưng quan trọng hơn là qua đó, người dân có điều kiện kiểm tra, giám sát
trực tiếp việc thực hiện ý kiến trưng cầu, được cung cấp đầy đủ thông tin về các
vấn đề và sự kiện có liên quan.
Luật Trưng cầu ý dân gồm 8 chương, 52 điều được Quốc hội khóa XIII thông
qua tại kỳ họp thứ 10 ngày 25/11/2015 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2016.
Luật Trưng cầu ý dân được ban hành đã kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối
của Đảng, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013 về phát huy dân chủ
và quyền làm chủ của nhân dân. Việc ban hành Luật Trưng cầu ý dân góp phần tạo
ra cơ sở pháp lý đồng bộ và những điều kiện thuận lợi để người dân trực tiếp thực
hành dân chủ, sử dụng phương thức trưng cầu ý dân để nhân dân thể hiện ý chí và
6
quyền lực của mình với tư cách chủ thể đối với các vấn đề quan trọng của đất
nước; đồng thời, góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật của nước ta.
g. Nhân dân thực hiện dân chủ ở cơ sở
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao tầm quan trọng của dân chủ ở cơ sở. Để người
dân thực hiện quyền làm chủ của mình một cách thực sự, Người yêu cầu: “bất cứ
việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân
đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương”[5].
Thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở thực chất là thực hiện phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra”. Dân chủ ở cơ sở là một cơ chế
đặc biệt, nó bao gồm cả các hình thức dân chủ trực tiếp khác như bầu cử và bãi
miễn đại biểu cơ quan dân cử, các tổ chức, chức danh đại diện cho ý chí và nguyện
vọng của nhân dân ở cấp cơ sở; bàn bạc, thảo luận, tham gia quyết định, giám sát,
kiểm tra việc thực hiện các công việc trong đời sống cộng đồng ở cơ sở, ở cơ quan,
doanh nghiệp.
2.2. Dân chủ đại diện
Dân chủ đại diện là hình thức tham gia quản lý nhà nước thông qua các đại
diện được bầu cử. Dân chủ đại diện thể hiện thông qua các cuộc bầu cử định kỳ để
lựa chọn các đại biểu thay mặt cho cử tri trong việc thực hiện các chức năng hoạch
định chính sách, quản lý nhà nước và xã hội. Do đó, cần thực hiện đầy đủ quyền đề
cử, ứng cử và bầu cử của người dân trong việc lựa chọn đại diện để hành động vì
lợi ích của mình. Việc lựa chọn được thể chế hóa và thực hiện bằng các cuộc bầu
cử được tiến hành định kỳ dưới hình thức bỏ phiếu kín, và tất cả mọi cơng dân
trưởng thành đều có quyền bầu cử.
Nhà nước ta được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý
xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Dân
chủ đại diện là cơ chế hình thành nên các cơ quan quyền lực nhà nước từ trung
ương đến địa phương. Phân định rõ vai trị và hồn thiện cơ chế giải quyết tốt mối
quan hệ giữa nhà nước và thị trường là điều kiện pháp lý nền tảng cho việc thực
hiện và phát huy dân chủ đại diện.
7
Bản chất dân chủ đại diện của Nhà nước Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí
Minh được thể hiện rõ trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội Việt Nam trong
điều kiên hiện nay. Đó là Quốc hội thực sự do Nhân dân bầu ra thông qua bầu cử,
là cơ quan quyền lực cao nhất, đại diện quyền làm chủ của Nhân dân, đồng thời là
người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Là cơ quan duy nhất có
quyền lập hiến và lập pháp, thể chế hóa chủ trường, đường lối của Đảng và mọi
chính sách, pháp luật của Nhà nước đều phản ánh lợi ích của đại đa số Nhân dân
lao động. Và Quốc hội đại diện toàn thể Nhân dân để quyết định những vấn đề
quan trọng nhất của đất nước.
Điều đó có nghĩa là Nhân dân thực hiện quyền dân chủ của mình thơng qua
cơ quan đại diện cao nhất của mình, khơng chỉ thực thi quyền mà cịn có trách
nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của nhà nước.
2.3. Hình thức thực hiện quyền lực nhân dân quan trọng nhất hiện nay.
Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện là hai hình thức biểu hiện của cùng thực
thể dân chủ, cả hai hình thức này đều đóng một vai trị quan trọng bảo đảm cho
việc thực hiện dân chủ, là hai hình thức khơng thể thiếu được của việc thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý, điều hành, kiểm soát và thực thi quyền
lực. Việc vận dụng chúng hồn tồn phụ thuộc vào tình hình cụ thể. Giữa hai hình
thức này có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại và chuyển hoá cho nhau. Để
thực hiện được dân chủ đại diện thì phải cần đến dân chủ trực tiếp, chẳng hạn việc
bầu cử lựa chọn ra các đại biểu Quốc hội hay đại biểu Hội đồng nhân dân, nghĩa là
trước khi mỗi công dân chuyển giao quyền lực của mình cho người đại diện như
những đại biểu dân cử và cho Nhà nước thì họ đã phải thực hiện dân chủ trực tiếp
bằng cách:
Thứ nhất, tham gia vào hội nghị hiệp thương nhân dân để lựa chọn các ứng cử
viên hoặc thông qua tiếp xúc trực tiếp với một hay một số ứng cử viên mà mình sẽ
lựa chọn;
8
Thứ hai, thơng qua việc bỏ phiếu kín, trên ngun tắc phổ thông đầu phiếu,
công bằng, công khai và minh bạch, để lựa chọn cho mình một đại biểu ưu tú dựa
trên ý chí quyết định của chính mình. Ngược lại, đến lượt mình, các đại biểu Quốc
hội khi thực hiện quyền lực của công dân (cử tri) giao cho thì lại cần phải dựa trên
phương thức dân chủ trực tiếp, nghĩa là tham gia một cách trực tiếp và thể hiện ý
chí của mình trong việc lập pháp cũng như các công việc quan trọng khác của Nhà
nước.
Chế độ xã hội của nước ta dựa trên nền dân chủ đại diện, nhưng khơng có
nghĩa đó là hình thức dân chủ duy nhất, bởi vì bản thân dân chủ đã ln ln bao
chứa trong nó cả hai hình thái tồn tại và chỉ có như vậy thì dân chủ mới thực hiện
theo đúng nghĩa đầy đủ của nó, mà cần phải thấy rằng chính hình thức dân chủ trực
tiếp là nội dung, là cái quyết định đối với nền dân chủ đại diện này. Chỉ khi nào
mức độ dân chủ trực tiếp được hiện thực hoá một cách đầy đủ, hiệu quả và sâu
rộng thì đó chính là tiền đề quan trọng cho việc thực hiện tốt hình thức dân chủ
đại diện và nền dân chủ đại diện. Chẳng hạn, khi quyền làm chủ của nhân dân đã
được uỷ thác cho những đại biểu của mình thì địi hỏi những đại biểu này cần
thường xuyên lắng nghe và phản ánh về những vấn đề thiết yếu hàng ngày của
người dân. Những cuộc tiếp xúc trực tiếp với các cử tri và xử lý kiến nghị của cử
tri cũng chính là một hình thức của dân chủ trực tiếp giúp cho việc thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân ở cấp đại diện (Quốc hội) được bảo đảm hiệu quả hơn, phản
ánh đúng và sâu sát với những bức xúc, trăn trở của nhân dân. Hơn nữa, quyền lực
của nhân dân do được thực hiện thông qua người đại diện của mình (đại biểu Quốc
hội) cho nên đơi khi nó “bị khúc xạ” qua lăng kính trình độ và trách nhiệm của
những người đại biểu. Do vậy, việc thực hiện dân chủ đại diện không thể tách rời
dân chủ trực tiếp cịn ở chỗ dân chủ trực tiếp chính là thước đo và là tiêu chuẩn để
kiểm nghiệm, giám sát và đánh giá dân chủ gián tiếp. Chẳng hạn, trước khi một dự
luật được Quốc hội thơng qua hay một chính sách, nghị định nào của Chính phủ
được ban hành thì điều hết sức quan trọng là nó cần phải được gửi cho tất cả mọi
công dân để lấy ý kiến của nhân dân, hoặc phải tiến hành trưng cầu dân ý, đây
chính là một hình thức của dân chủ trực tiếp. Hình thức này cần phải được coi là
9
nền tảng để thực hiện dân chủ trực tiếp cũng như là cơ chế hết sức quan trọng để
thực hiện quyền dân chủ của mọi công dân. Nghĩa là, trưng cầu dân ý cần phải trở
thành nguyên tắc Hiến định đối với hoạt động thực thi và giám sát quyền lực của
nhân dân. Quy chế dân chủ ở cơ sở là hết sức quan trọng và cần thiết bảo đảm cho
việc thực hiện quyền dân chủ của nhân dân thông qua hình thức dân chủ trực tiếp
nhưng như thế vẫn chưa đủ, cần phải xây dựng một dự luật về trưng cầu dân ý. Chỉ
có như vậy mới giúp cho việc lập pháp và việc hoạch định chính sách tránh được
những bất cập, thiếu tính khả thi và chưa thực sự hiệu quả.
Nguyên tắc nền tảng của việc thực thi và bảo đảm dân chủ đó là “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Từ mục đích như vậy, cần xây dựng và hoàn
thiện hệ thống các cơ chế cần thiết cho việc thực hiện mục tiêu này. Tổng thể các
biện pháp này tạo ra một cơ chế hữu hiệu và duy nhất cho việc bảo đảm và thực thi
quyền dân chủ rộng rãi trong xã hội. Chẳng hạn, nếu dân không được biết, không
được tham gia vào quá trình hoạch định chính sách, pháp luật, vào cơng việc của
Nhà nước nghĩa là dân đã không được bảo đảm các quyền chính trị của mình. Dân
khơng “biết”, dân sẽ khơng thể “bàn” được, và do đó sẽ khơng “làm” được và
khơng thể “kiểm tra” được q trình hay cơng việc đó.
10
MỤC 3
KẾT LUẬN
Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã mở ra triển vọng cho việc thúc đẩy dân chủ trực
tiếp ở Việt Nam trong những năm qua. Cùng với việc tái khẳng định các quy định
về trưng cầu ý dân, bãi miễn đại biểu dân cử và quyền tham gia quản lý nhà nước,
xã hội của người dân như đã nêu trong các Hiến pháp 1980, 1992, Hiến pháp 2013
lần đầu tiên quy định cụ thể rằng, nhân dân có hai phương thức thực hiện quyền
lực nhà nước là bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện (Điều 6). Thêm vào đó,
nó cũng tái quy định quyền cho ý kiến về dự thảo hiến pháp của nhân dân (Điều
120 khoản 3) mà đã từng được ghi nhận trong Hiến pháp 1946, đồng thời ấn định
trách nhiệm của Nhà nước phải: “…tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà
nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến
nghị của công dân” (Điều 28). Những quy định mới này cho thấy ý định của các
nhà lập hiến là củng cố nền tảng hiến định về dân chủ trực tiếp ở nước ta, đồng
thời cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết về hồn thiện khn khổ pháp luật để thực thi
các quy định đó trong thực tế.
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] V.I.Lênin: Toàn tập. t.66;
[2] TS Trần Minh Hương: Vấn đề xây dựng pháp luật về trưng cầu ý dân, tập
chí luật học, số 6-2004, tr.54;
[3,5] Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.5. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.60, 698699;
[4] Hồ Chính Minh: Sđd, t.9, tr.591.
12
1