Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Quan điểm hồ chí minh về xây dựng bộ máy và cán bộ công chức nhà nước và sự vận dụng vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.04 MB, 52 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
--------------------oOo--------------------

TIỂU LUẬN HẾT MƠN
MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ TÀI 12: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG BỘ
MÁY VÀ CÁN BỘ CÔNG CHỨC NHÀ NƯỚC VÀ SỰ VẬN
DỤNG VÀO XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY.
Sinh viên: Vũ Ngọc Linh Chi
Ngày sinh: 05/04/2002
Mã số sinh viên: 2057080012
Lớp tín chỉ: TH01001_3

Hà Nội, tháng 9 năm 2021


Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

Mục lục
MỞ ĐẦU........................................................................................................................................... - 3 1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................................................- 3 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...........................................................................................- 4 2.1. Mục đích..............................................................................................................................- 4 2.2. Nhiệm vụ..............................................................................................................................- 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................................................- 4 3.1. Đối tượng nghiên cứu..........................................................................................................- 4 3.2. Phạm vi nghiên cứu.............................................................................................................- 5 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..............................................................................- 5 3.1. Cơ sở lý luận........................................................................................................................- 5 3.2. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................................- 5 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.....................................................................................................- 5 5.1.

Ý nghĩa lý luận................................................................................................................- 5 -

5.2.

Ý nghĩa thực tiễn.............................................................................................................- 5 -


6. Kết cấu của tiểu luận................................................................................................................- 6 NỘI DUNG........................................................................................................................................- 6 CHƯƠNG 1: SỰ HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN............................................- 6 1.1.

Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân....................- 6 -

1.2.
-

Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân- 8

CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG BỘ MÁY VÀ CÁN BỘ CÔNG
CHỨC NHÀ NƯỚC...................................................................................................................- 13 2.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp, xây dựng bộ máy nhà nước...................- 13 2.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.- 21 CHƯƠNG 3: SỰ VẬN DỤNG VÀO XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................................- 28 3.1. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam................- 28 3.2. Những yêu cầu về hoạt động lập pháp trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt
Nam..........................................................................................................................................- 31 3.2. Sự vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về bộ máy và cán bộ cơng chức nhà nước vào xây dựng
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.....................................................................- 32 3.3. Những phương hướng cơ bản tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân ở nước ta....................................................................................................- 43 KẾT LUẬN.....................................................................................................................................- 48 TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................................- 50 2


Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh – lãnh tụ thiên tài, người anh hùng giải phóng dân
tộc, là một nhà tư tưởng lỗi lạc, có nhiều cống hiến kiệt xuất vào kho tàng tư
tưởng – lý luận của dân tộc và nhân loại. Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau,
thế giới đều thừa nhận có tư tưởng Hồ Chí Minh và bản thân Người thực sự là
một nhà tư tưởng, nhà lý luận vĩ đại của thời đại chúng ta.Với mỗi người dân
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng chỉ là biểu tượng sáng ngời về đạo đức

cách mạng, tấm gương hi sinh, hiến dâng trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của
Đảng, của dân tộc; Người còn để lại cho các thế hệ mai sau một di sản tinh thần
vô cùng q báu, đó là tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức Hồ Chí Minh, phong
cách Hồ Chí Minh và Thời đại Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống những luận điểm khoa học rộng lớn,
sâu sắc và phong phú trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Tư tưởng của
Người luôn là tấm gương sáng cho toàn Đảng, toàn dân, đặc biện là đội ngũ cán
bộ phấn đấu học tập và noi theo. Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, tư tưởng của
Người là một kho tàng những giá trị nhân văn cao cả, để lại cho nhân dân ta
nhiều bài học quý giá. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của
chủ nghĩa Mác – Lênin, được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải
phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. “Tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống quan điểm tồn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá
trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.” Điều
cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với giải quyết xã
hội và giải phóng con người. Giá trị cao q ấy khơng những là các chỉ dẫn lý
luận mang tính sáng tạo, thiết thực mà cịn có ý nghĩa thực tiễn chỉ đạo và định
hướng trực tiếp cho công tác cán bộ của hệ thống chính trị ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay và mai sau.
Những quan điểm về nhà nước và pháp luật là một trong những nội dung
chủ yếu trong tồn bộ di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Những quan điểm đó thể
hiện các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền. Nhưng thực sự chỉ trong điều
kiện đất nước đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay, chúng ta mới có đầy đủ điều
kiện đi sâu nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn cuộc sống tư tưởng của Người.
Bộ máy nhà nước, theo quan điểm Hồ Chí Minh, cần gọn nhẹ, có hiệu lực, phù
3



Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

hợp với từng giai đoạn để phục vụ đắc lực cho mục tiêu hoạt động của Nhà
nước, tất cả vì sự phát triển của đất nước, vì lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân,
khơng vì lợi ích của cá nhân nào. Chức vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức
trong bộ máy nhà nước là do dân ủy thác, ủy quyền để làm việc cho dân, khơng
vì chủ nghĩa cá nhân.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã, đang diễn ra
sâu sắc và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm thực hiện
thắng lợi mục tiêu, nhiệm của của thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, tiến đến mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng, dân
chủ văn minh”. Từ đó địi hỏi phải có bộ máy chính quyền, đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở các cấp có đức, có tài, vừa hồng vừa chuyên, ngang tầm, đáp ứng
yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Có như vậy mới có thể xây dựng được Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vững mạnh, phát triển vươn tầm thế
giới. Vì lí do đó mà tơi chọn phân tích đề tài: “Quan điểm Hồ Chí Minh về xây
dựng bộ máy và cán bộ công chức nhà nước và sự vận dụng vào xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích

Trên cơ sở phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn, làm sáng tỏ những
nội dung cơ bản trong quan điểm của Hồ Chí Mình về xây dựng bộ máy và xây
dựng cán bộ công chức nhà nước, bài tiểu luận đề xuất quan điểm, giải pháp, vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện nay. Để thơng qua đó nâng cao hiệu quả hoạt động của nhà
nước và vai trò làm chủ của nhân dân.
2.2. Nhiệm vụ


 Làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề kiểm sốt trong việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền.
 Luận giải vấn đề lý luận chung về cán bộ và tư tưởng cán bộ.
 Phân tích, làm rõ nguồn gốc và q trình hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng bộ máy nhà nước và cán bộ công chức.
 Thực trạng của vấn đề kiểm soát trong quyền lực nhà nước Việt Nam hiện
nay.
 Đề xuất một số cách vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về vấn đề kiểm
sốt nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta.
4


Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy nhà nước,
công tác cán bộ; những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước pháp quyền và sự vận dụng tư tưởng đó vào việc xây dựng và hồn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Do tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy, cán bộ công chức, Nhà
nước pháp quyền XHCN có nội dung nghiên cứu rộng, liên quan đến nhiều vấn
đề nên chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu ở những vấn đề cơ bản thuộc kiến thức

trong “Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh” – (NXB Chính trị - Hành chính) đã
được học. Tiểu luận tập trung phân tích tư tưởng Nhà nước pháp quyền ở những
vấn đề trọng tâm như: Xây dựng Hiến pháp và pháp luật; tổ chức kiểm sốt
quyền lực nhà nước; vai trị, tầm quan trọng của cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ; xây
dựng đội ngũ cán bộ công chức, công tác cán bộ…Từ đó là cơ sở luận giải cho
việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong hồn thiện pháp luật bộ máy hành
chính, cán cbooj, ơng chức ở nước ta, làm tiền đề cho việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam trong tình hình hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3.1. Cơ sở lý luận

Bài tiểu luận được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước; tư tưởng
Hồ Chí Minh về cán bộ, về nhà nước và pháp luật cũng như những quan điểm về
vấn đề này trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam.
3.2. Phương pháp nghiên cứu

Tác giả của luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, bao
gồm: phương pháp lịch sử; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp hệ
thống; phương pháp quy nạp và diễn dịch; phương pháp so sánh và phương pháp
xã hội học
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
5.1.

Ý nghĩa lý luận

Với những kết quả nghiên cứu bước đầu, bài tiểu luận góp phần hệ thống
những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy chính
quyền và về cán bộ công chức cũng như về nhà nước pháp quyền XHCN. Chỉ ra
5



Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

giá trị của những tư tưởng này trong quá trình vận dụng vào xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay.
5.2.

Ý nghĩa thực tiễn

Trên cơ sở phẩn tích các giá trị cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng bộ máy, cán bộ cơng chức và nhà nước pháp quyền, tiểu luận chứng minh
việc kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là yêu cầu tất yếu để phát triển
đất nước. Kết quả nghiên cứu, phân tích, so sánh, tổng hợp và những đề xuất của
bài tiểu luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu liên quan đến nội
dung này.
6. Kết cấu của tiểu luận
Kết cấu bài tiểu luận gồm: Phần mở đầu; Nội dung; Kết luận; Danh mục
tài liệu tham khảo. Phần nội dung gồm chương:
Chương 1: Sự hình thành và những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Chương 2: Quan điểm Hồ Chí Minh về xây dựng bộ máy và cán bộ công chức
nhà nước.
Chương 3: Sự vận dụng vào xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: SỰ HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC CỦA DÂN,

DO DÂN, VÌ DÂN
1.1.

Sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì
dân
1.1.1. Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam
Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam như: tinh thần
đoàn kết, tương thân- tương ái, yêu thương thiên nhiên và con người, chăm chỉ
lao động, lạc quan yêu đời, ý chí đấu tranh anh dũng, tự lực, tự cường, ... thì chủ
nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc. Chủ nghĩa yêu nước
đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý làm người, niềm tự hào và
là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần Việt Nam. Hồ Chí Minh viết:
"Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa
tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba".
6


Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

1.1.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại: phương Đơng và phương Tây

Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh cịn chịu ảnh hưởng của văn
hóa phương Đơng và phương Tây. Người đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư
tưởng dân chủ, nhân văn của văn hóa Phục hưng, thế kỷ ánh sáng, của cách
mạng tư sản phương Tây như Pháp, Mỹ, Anh; những giá trị tư tưởng của Nho
giáo, kiêm ái của Mặc gia, thuận theo tự nhiên của Lão gia, từ bi bác ái của nhà
Phật đã góp phần hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước vì con

người, một nhà nước của dân, do dân và vì dân.
1.1.3. Chủ nghĩa Mác – Lênin
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề cơ bản của mọi cuộc
cách mạng là vấn đề chính quyền nhà nước. Xuất phát từ nhu cầu giải phóng dân
tộc, trên nền tảng chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp nhận chủ nghĩa Mác
– Lênin, là lý luận cách mạng tiên tiến nhất của thời đại. Được soi sáng bởi
phương pháp luận biện chứng mácxít, thơng qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí
Minh đã phát hiện vị trí lịch sử của các chế độ nhà nước đang vận hành, trên cơ
sở phân tích, so sánh và đặt chúng trong dòng chảy liền mạch của tiến bộ lịch sử.
Tháng 12 năm 1920, trong Đại hội thứ XVIII của Đảng xã hội Pháp họp ở
thành phố Tua, Đồng chí Nguyễn ái Quốc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế
cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu một
bước ngoặt trong đời hoạt động cách mạng của Người, bước ngoặt từ chủ nghĩa
yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản, đứng hẳn về con đường cách mạng tháng
Mười, đứng hẳn về chủ nghĩa Mác- Lênin và đứng hẳn về Quốc tế cộng sản. Chủ
nghĩa Mác- Lênin là nguồn gốc lý luận, cơ sở chủ yếu nhất của sự hình thành,
phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. "Khơng có chủ nghĩa Mác- Lênin thì cũng
khơng có tư tưởng Hồ Chí Minh sánh ngang tầm thời đại và giải quyết được
những nhiệm vụ lịch sử của cách mạng Việt Nam".
1.1.4. Thực tiễn hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh
Suốt chặng đường đi tìm đường cứu nước, vừa lao động, vừa học tập,
nghiên cứu chủ nghĩa Mác- Lênin, vừa tham gia trực tiếp các phong trào đấu
tranh của công nhân và nhân dân lao động, Người đã tích lũy được những tri
thức và kinh nghiệm phong phú, từng bước hình thành tư tưởng lý luận và
phương pháp cách mạng của mình. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nét
nổi bật, đặc sắc thuộc về bản chất khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh. Mọi luận
điểm của Người đều là những khái quát lý luận từ thực tiễn chính trị- xã hội,
được phân tích trên quan điểm lịch sử- cụ thể, quan điểm toàn diện, hệ thống và
7



Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

phát triển. Người viết: "Thực hành sinh ra hiểu biết; Hiểu biết tiến lên lý luận;
Lý luận lãnh đạo thực hành". Đó là con đường của q trình nhận thức các sự
vật, hiện tượng; con đường hướng đến chân lý của nhận thức.
1.1.5. Trí tuệ và phẩm chất chính trị của Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh là hiện thân của trí tuệ, phẩm chất đạo đức và truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh là người lịch thiệp, có lối
sống và phong cách giản dị, giàu lịng nhân ái, lại rất thơng minh, sắc sảo, nhạy
bén về chính trị, rất ham học hỏi, có tư duy độc lập, sáng tạo, có trí tuệ uyên bác,
kiến thức sâu rộng, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa của các dân tộc trên thế giới.
Đối với Người, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Từ những suy nghĩ đó mà trong mọi hành động cũng như việc làm, Người
luôn luôn đặt địa vị và quyền lợi của nhân dân lên trên hết, trước hết. Người rất
gương mẫu và cũng luôn căn dặn, giáo dục cán bộ, đảng viên phải kính dân,
trọng dân, yêu dân, gần dân, học dân, tin tưởng vào trí tuệ và lực lượng của dân.
Nét đặc biệt trong phong cách chính trị Hồ Chí Minh là luôn gần gũi với nhân
dân, lắng nghe ý kiến của quần chúng, quan tâm đến mọi tầng lớp nhân dân.
1.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của
dân, do dân, vì dân
1.2.1. Khái quát về những quan điểm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước của dân, do dân, vì dân
Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn
đề cơ bản của chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ quyền lợi cho ai.
Năm 1927, trong cuốn “Đường Kách Mệnh” Bác chỉ rõ: “Chúng ta đã hy sinh
làm kách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao kách mệnh rồi thì
quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới

khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”. Sau khi giành độc
lập, Người khẳng định, “nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hạn đều của
dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân... nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở
nơi dân”. Đó là điểm khác nhau giữa nhà nước ta với nhà nước bóc lột đã từng
tồn tại trong lịch sử.
Thế nào là nhà nước của dân?
Nhà nước của dân thì mọi người dân là chủ, người dân có quyền làm bất
cứ việc gì mà pháp luật khơng cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước
của dân phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền
8


Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

làm chủ của người dân. Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là thừa uỷ quyền của
dân, chỉ là công bộc của dân.
Thế nào là nhà nước do dân?
Nhà nước đó do nhân dân lựa chọn bầu ra những đại biểu của mình, nhà
nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để chi tiêu, hoạt động; nhà nước đó
lại do dân phê bình xây dựng, giúp đỡ. Do đó Bác yêu cầu tất cả các cơ quan nhà
nước là phải dựa vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và
chịu sự kiểm sốt của nhân dân. “Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền
đuổi chính phủ” nghĩa là khi cơ quan nhà nước khơng đáp ứng lợi ích và nguyện
vọng của nhân dân thì nhân dân có quyền bãi miễn nó.
Thế nào là nhà nước vì dân?
Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân,
khơng có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong nhà
nước đó, cán bộ từ chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân.

“Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm,
Việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh”
Hồ Chí Minh chú ý mối quan hệ giữa người chủ nhà nước là nhân dân với
cán bộ nhà nước là công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân dân thừa uỷ
quyền. Là người phục vụ, nhưng cán bộ nhà nước đồng thời là người lãnh đạo,
hướng dẫn nhân dân. “Nếu khơng có nhân dân thì chính phủ khơng đủ lực lượng.
Nếu khơng có chính phủ thì nhân dân khơng ai dẫn đường”. Cán bộ là đày tớ của
nhân dân là phải trung thành, tận tuỵ, cần kiệm liêm chính..., là người lãnh đạo
thì phải có trí tuệ hơn người, sáng suốt, nhìn xa trơng rộng, gần gũi với dân,
trọng dụng hiền tài... Cán bộ phải vừa có đức vừa có tài.
Về quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, Hồ Chí Minh xác định: “Nếu
khơng có nhân dân thì Chính phủ khơng đủ lực lượng. Nếu khơng có Chính phủ
thì nhân dân khơng ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đồn kết
thành một khối”. Chức năng đối nội cơ bản của Nhà nước là hướng dẫn nhân dân
tổ chức tốt đời sống, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, từng bước cải thiện
đời sống vật chất, tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu cần thiết hàng ngày. Theo
Hồ Chí Minh “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết
rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của
độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.
Chúng ta phải thực hiện ngay:
1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
9


Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

3. Làm cho dân có chỗ ở.

4. Làm cho dân có học hành.
Cái mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng
đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập” .
1.2.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân,
do dân, vì dân
1.2.2.1.

Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở chủ nghĩa lập hiến

Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, một nhà nước dân chủ, tiến bộ phải là
một nhà nước có Hiến pháp, cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước
phải được quy định trong Hiến pháp. Một nhà nước không được tổ chức và hoạt
động trên cơ sở những quy định của Hiến pháp thể hiện ý chí của nhân dân thì
nhà nước đó là bất hợp hiến, bất hợp pháp.
1.2.2.2.

Nhà nước do nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân

Tư tưởng thống nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một nhà nước dân chủ,
văn minh và tiến bộ phải là một nhà nước do toàn thể quần chúng lao động lập
nên; quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân ủy thác; nhà nước
là công cụ của nhân dân; mọi chủ trương, chính sách của nó đều xuất phát từ
quyền, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân; nhà nước phải chịu trách nhiệm
trước nhân dân về những hoạt động của mình; đồng thời, nhân dân cũng có nghĩa
vụ xây dựng, bảo vệ và phát triển nhà nước, bảo đảm về mọi mặt để nhà nước
phát huy hiệu lực, hiệu quả của mình.
Theo Người, nhà nước của dân, do dân làm chủ phải là nhà nước luôn
luôn đặt dưới sự kiểm tra, kiểm soát của nhân dân. Sự kiểm tra, kiểm sốt của
nhân dân đối với nhà nước khơng có nghĩa là bó buộc nhà nước, là nhân dân

khơng tin vào nhà nước; trái lại là để nhà nước ngày càng trưởng thành và lớn
mạnh hơn, luôn giữ vững được bản chất cách mạng của mình.
1.2.2.3.

Nhà nước phục vụ quyền lợi của nhân dân

Nhà nước ta, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đó là một nhà nước từ nhân dân
mà ra, vì quyền, tự do và hạnh phúc của nhân dân mà phục vụ. Nhà nước khơng
có mục đích tự thân, khơng phục vụ cho lợi ích của riêng bất cứ giai cấp, tầng
lớp nào trong xã hội, mà đó là nhà nước của toàn thể dân tộc Việt Nam. Nhà
nước ra đời và hoạt động là vì quyền và lợi ích của thể dân tộc Việt Nam, khơng
làm được điều đó thì khơng cịn lý do để nhà nước tồn tại.
10


Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

Theo Hồ Chí Minh việc đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của nhân
dân là tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả, năng lực hoạt động của nhà nước.
Trong tư tưởng của Người, nhà nước là của dân, do dân lập nên, do dân làm chủ
nên hoạt động vì quyền và lợi ích của nhân dân, ngồi mục đích đó, nhà nước
khơng có mục đích nào khác. Như vậy, nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh
mang tính thiện và tính nhân văn sâu sắc.
1.2.2.4.

Nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân

Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, khơng có

nghĩa là "nhà nước tồn dân", nhà nước phi giai cấp. Bản chất giai cấp công nhân
thể hiện ở chỗ toàn bộ hoạt động của nhà nước từ pháp luật, cơ chế, chính sách
đến những nguyên tắc tổ chức và hoạt động đều thể hiện tư tưởng, quan điểm
của giai cấp công nhân, nhằm từng bước xây dựng quyền làm chủ của nhân dân,
phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc. Bản
chất giai cấp cơng nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của nhà nước trong tư
tưởng Hồ Chí Minh là thống nhất, hịa quyện với nhau, bắt nguồn từ sự thống
nhất lợi ích của giai cấp cơng nhân với lợi ích của nhân dân lao động và dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, để đảm bảo giữ vững bản chất giai cấp công nhân của
nhà nước, cần quán triệt những vấn đề có tính ngun tắc sau:
Thứ nhất, xây dựng, củng cố và hồn thiện chính quyền nhà nước phải
trên cơ sở các nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin về nhà nước, có sự vận dụng
sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh của nước ta. Xa rời chủ nghĩa Mác- Lênin sẽ
làm biến dạng nhà nước, lu mờ bản chất giai cấp và chệch hướng phát triển đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, luôn luôn đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với nhà
nước. Hồ Chí Minh cho rằng, khơng có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhà
nước không thể là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Tách Đảng với nhân dân không chỉ phá hoại sự lãnh đạo của Đảng mà còn
phá hoại quyền làm chủ của nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng và quyền lực của
nhân dân gắn liền và thống nhất với nhau. Hoàn toàn khơng có sự đối lập giữa
vai trị lãnh đạo của Đảng và hiệu lực của nhà nước, khơng có sự hy sinh cái này
cho cái kia, mà chỉ có sự thống nhất làm tăng sức mạnh lẫn nhau của cả Đảng và
Nhà nước.
Thứ ba, tổ chức và hoạt động của nhà nước phải theo nguyên tắc tập trung
dân chủ. Nguyên tắc này bảo đảm bản chất giai cấp công nhân và là nguyên tắc
tổ chức đặc thù của nhà nước kiểu mới.
11



Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

1.2.2.5.

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

Nhà nước kết hợp hài hòa giữa pháp luật và đạo đức trong trong quản
lý xã hội

Theo Hồ Chí Minh, pháp luật không chỉ thể hiện quyền lợi công dân đơn
thuần mà cịn nhằm mục đích xây dựng một nền đạo đức xã hội đảm bảo cho
mọi người có cuộc sống lương thiện, hạnh phúc, kẻ ác phải bị trừng phạt. Theo
tác giả Vũ Đình Hịe, ở Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc, pháp luật là chuẩn. Đạo
đức và pháp luật hỗ trợ, bổ sung cho nhau để hạn chế cái ác, hướng tới cái thiện.
Đạo đức, đối với Hồ Chí Minh, khơng những là cơ sở của pháp luật, của quyền
lực của pháp luật, mà còn song hành với việc thực hiện pháp luật. Người thực
hiện pháp luật cũng phải là người có đạo đức.
Người chủ trương quản lý xã hội bằng pháp luật kết hợp với đạo đức, có
lý, có tình. Tư tưởng của Người là: "khơng dùng xử phạt là khơng đúng, song
chút gì cũng dùng đến hình phạt cũng khơng đúng". Thực hành kết hợp "đức trị"
với "pháp trị" dựa trên cơ sở đạo đức và cụ thể hóa ở các quy định pháp luật là tư
tưởng xuyên suốt của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, thực hành
nghiêm chỉnh pháp trị là ta đã đạt tới trình độ cao của đức trị. Đức trị là biểu hiện
ở sự bình đẳng, pháp trị cũng biểu hiện ở sự bình đẳng. Đây là chỗ gặp nhau giữa
đức trị và pháp trị.
1.2.2.6.

Tổ chức quyền lực nhà nước hợp lý và khoa học, đảm bảo chủ quyền
của nhân dân; xây dựng chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt và chịu trách
nhiệm trước nhân dân


Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ nhân
dân, thống nhất thuộc về một chủ thể duy nhất là nhân dân. Trong quá trình
tổ chức và thực thi quyền lực phải có sự phơng cơng, phân quyền rõ ràng,
nhằm phịng tránh sự chun quyền, độc đốn; góp phần phát huy dân chủ và
nêu cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan nhà nước.
Nguyên tắc chung trong xây dựng bộ máy nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí
Minh đó là:
Thứ nhất: Xây dựng Quốc hội (Nghị viện nhân dân) là cơ quan quyền lực cao
nhất, cơ quan đại diện cao nhất cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của tồn
thể nhân dân Việt Nam.
Thứ hai: Xây dựng Chính phủ trong sạch, mạnh mẽ, hiệu lực, hiệu quả và
dám chịu trách nhiệm trước nhân dân về những hoạt động của mình.
Thứ ba: Về tổ chức chính quyền địa phương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề
cao vai trị quan trọng và khơng thể thay thế của chính quyền địa phương
12


Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

trong tổng thể bộ máy nhà nước ở địa phương, Hội đồng nhân dân được xem
như là một cơ quan "tự quản" của nhân dân, một cơ quan quyết định về
những vấn đề có tính địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân địa phương.
Thứ tư: Trong xây dựng, thiết kế tổ chức bộ máy nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln nhất quán nguyên tắc đảm bảo cho Tòa án được độc lập trong tổ
chức và hoạt động. Thẩm phán chỉ trọng pháp luật và công lý, các nhánh
quyền lực khác không được can thiệp. Khi xét xử thẩm phán chỉ theo pháp

luật và lương tâm của mình, khơng một quyền lực nào được can thiệp trực
tiếp hay gián tiếp vào việc xét xử.
1.2.2.7.

Nhà nước có đội ngũ cán bộ, cơng chức vừa hồng, vừa chuyên; thực sự
là công bộc của dân

Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, "cán bộ là nguồn vốn của Nhà nước", là cái
gốc của mọi công việc; công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ quyết
định; chủ trương, đường lối, chính sách dù có hay, có đúng đến đâu đi chăng
nữa, nhưng nếu khơng có cán bộ với phẩm chất đạo đức tốt, năng lực chun
mơn cao thì cũng khơng thể thực hiện được. Vì thế, chất lượng, năng lực, hiệu
lực và hiệu quả điều hành, quản lý của nhà nước phụ thuộc rất lớn vào chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức. Người cho rằng, cán bộ cơng chức nhà nước
phải vừa có đức, vừa có tài, tức là vừa hồng, vừa chuyên; nhưng đức phải là gốc,
là nền tảng, giữ vai trò quyết định sự thành bại của công việc cũng như sự thành
cơng của mỗi con người.
Tóm lại, trong chương này, tiểu luận tập trung nghiên cứu, phân tích và
làm sáng tỏ những quan điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của dân,
do dân, vì dân. Như vậy, những quan điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước của dân, do dân, vì dân chứa đựng những tính chất của nhà nước pháp
quyền. Phải khẳng định rằng, những quan điểm ấy rất thực tiễn, không phải chỉ
là lý thuyết mà nó đã trở thành hiện thực sinh động thông qua việc thiết lập, xây
dựng và phát triển chính quyền nhân dân theo Hiến pháp 1946 - bản hiến pháp
đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Do đó, những quan điểm ấy sẽ có giá trị to lớn và
ý nghĩa vô cùng sâu sắc trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

13



Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

CHƯƠNG 2: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG BỘ
MÁY VÀ CÁN BỘ CÔNG CHỨC NHÀ NƯỚC
2.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về hoạt động lập pháp, xây dựng bộ máy nhà
nước
2.1.1. Hoạt động lập pháp

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật là một bộ phận cấu thành
của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, với những nội dung nổi bật là: Xây dựng pháp luật để
thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân; Ban hành pháp luật
để tổ chức bộ máy nhà nước, thực hiện một nhà nước pháp quyền; Ban bố pháp
luật để công bố các quyền tự do, dân chủ của nhân dân; Nghiêm trị bằng pháp
luật các tội phạm và vi phạm pháp luật; Pháp luật phục vụ cho công cuộc kháng
chiến và kiến quốc.
Nhận thức của Hồ Chí Minh về vai trị của pháp luật trong quản lý xã hội
đã có từ rất sớm. Ngay từ năm 1919, trong Bản yêu sách gửi tới Hội nghị Véc
xây, Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu: Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các
đạo luật. Đến năm 1922, trong tác phẩm Việt Nam yêu cầu ca, Người viết: Bảy
xin Hiến pháp ban hành; trăm điều phải có thần linh pháp quyền. Tư duy này đã
đạt đến chân giá trị của nền pháp quyền. Bởi vì, trong nền pháp quyền mọi hoạt
động của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đều tuân theo
pháp luật. Lấy pháp luật làm nền tảng để đảm bảo cho tự do, công bằng và dân
chủ.
Sau ngày đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, ngày 03/09/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra Những nhiệm vụ cấp

bách của Nhà nước dân chủ mới, Người chỉ rõ: “Trước chúng ta đã bị chế độ
quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân khơng kém phần chun
chế, nên nước ta khơng có Hiến pháp”. Vì thế, Người u cầu cần “phải có một
Hiến pháp dân chủ”, chính Người đã trực tiếp soạn thảo ra Hiến pháp dân chủ
năm 1946 và chỉ đạo soạn thảo Hiến pháp năm 1959. Chúng ta thấy tư tưởng của
Người về xây dựng pháp luật xã hội chủ nghĩa (XHCN) được thể hiện ở những
nội dung chủ yếu như sau:
 Thứ nhất, pháp luật xã hội chủ nghĩa phải thể hiện ý chí của giai cấp
cơng nhân nhằm bảo vệ Tổ quốc, thực hiện quyền lợi của nhân dân lao
động
Giai cấp thống trị sử dụng pháp luật thông qua bộ máy nhà nước để
thực hiện mục tiêu chính trị của mình. Như vậy, bản chất giai cấp của pháp
14


Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

luật là phổ biến của tất cả các kiểu hình thức nhà nước. Nắm vững quan
điểm đó, khi xây dựng pháp luật XHCN, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Pháp
luật của chúng ta… là ý chí của giai cấp cơng nhân lãnh đạo cách mạng,
đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động. Pháp luật ta không những đặt
ra là để đàn áp kẻ thù của cách mạng mà còn để cải tạo xã hội theo định
hướng XHCN, giáo dục quần chúng làm cách mạng, xây dựng cuộc sống
tốt đẹp của mình”. Để xây dựng pháp luật XHCN, Hồ Chí Minh chủ
trương phải dựa hẳn vào lực lượng nhân dân, lực lượng lao động và số
đơng dân chúng.
Tính giai cấp của pháp luật XHCN Việt Nam là bảo vệ Tổ quốc và
thực hiện quyền lợi cho nhân dân lao động. Người viết: “Phải góp phần

làm cho luật pháp của ta tốt hơn, càng ngày càng phong phú hơn… “Pháp
luật phải làm sao đóng góp vào việc làm cho nước nhà được độc lập, dân
được tự do, hạnh phúc, nhân loại khỏi đau khổ.” Chủ trương này thể hiện
tính cách mạng triệt để của pháp luật XHCN là nhằm thiết lập trật tự cách
mạng, lật đổ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới, trong đó, thiết lập trật tự
mới phải xuất phát từ pháp luật, bằng pháp luật.
 Thứ hai, pháp luật xã hội chủ nghĩa phải thực sự dân chủ nhằm chống
quan liêu, mệnh lệnh và sự tùy tiện của cá nhân
Pháp luật XHCN mà chúng ta xây dựng khơng chỉ có ý nghĩa như là
một cơng cụ để trấn áp kẻ thù, xử lý, trừng trị những kẻ phạm tội mà cịn
là cơng cụ tun truyền, giáo dục hữu ích đối với nhân dân. Hồ Chí Minh
yêu cầu những người phụ trách thi hành pháp luật phải nêu cao cái gương:
“Phụng cơng, thu pháp, chí cơng vơ tư cho nhân dân noi theo”. Cịn đối
với Chính phủ, Người từng khẳng định trước kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa
I rằng: “Tuy trong quyết nghị khơng nói đến, không nêu lên hai chữ liêm
khiết, tôi cũng xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế
giới: Chính phủ sau đây là một Chính phủ liêm khiết… và nếu làm gương
khơng xong, thì sẽ dùng pháp luật mà trị những kẻ ăn hối lộ - đã trị, đương
trị và sẽ trị cho kỳ hết”. Có như vậy mới xây dựng được pháp luật XHCN
mang tính nhân văn và tính dân tộc sâu sắc.
 Thứ ba, pháp luật xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy tính tích cực của
nhân dân, đẩy mạnh sản xuất góp phần nâng cao năng suất lao động
Hồ Chí Minh khẳng định, pháp luật XHCN phải phát huy được
những truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong xây dựng chế độ mới. Hồ
Chí Minh gắn việc xây dựng pháp luật XHCN với nâng cao năng suất lao
15


Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012


Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

động, thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Muốn
xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải tăng sản xuất và thực hành tiết kiệm.
Muốn tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm thì phải quản lý tốt. Muốn
quản lý tốt thì cán bộ và cơng nhân phải thơng suốt tư tưởng, phải có thái
độ làm chủ nước nhà, làm chủ xí nghiệp. Muốn quản lý tốt phải nâng cao
tinh thần trách nhiệm, phải làm đến nơi đến chốn, làm tốt, vượt mọi khó
khăn”. Cho nên, cần phải thi đua lao động và chấp hành tốt kỷ luật lao
động, thông qua thi đua và giữ gìn kỷ luật sẽ tạo ra tính sáng tạo, gúp cơng
nhân phát triển được tài năng của mình.
 Thứ tư, pháp luật phải bảo vệ quyền con người, để xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa
Hồ Chí Minh đã nhìn thấy, pháp luật là một trong những yếu tố
quyết định trong việc thiết lập và bảo vệ quyền con người, quyền công
dân. Người yêu cầu mọi quyền của người dân phải được thể chế hóa bằng
Hiến pháp và pháp luật, phải bằng pháp định.
Chúng ta thấy, từ Bản yêu sách đến Tuyên ngôn độc lập, đến Hiến
pháp năm 1946, quyền con người ngày càng được ghi nhận và mở rộng
đầy đủ hơn. Nếu trong Bản yêu sách chỉ yêu cầu thực hiện quyền con
người như: tự do đi lại, tự do báo chí, tự do hội họp… thì ở Hiến pháp
1946 quyền dân chủ, quyền bầu cử, ứng cử, tự do tư tưởng được khẳng
định cụ thể và chi tiết. Trong Hiến pháp 1959, quyền con người mà cụ thể
là quyền công dân được phát triển ở chiều sâu: như quyền khiếu nại, tố
cáo đối với bất cứ cơ quan nhà nước nào về hành vi phạm pháp của nhân
viên cơ quan nhà nước; quyền làm việc, quyền nghỉ ngơi; quyền học tập;
quyền tự do nghiên cứu khoa học; sáng tác văn học nghệ thuật và tiến
hành các hoạt động văn hóa khác… Nội dung này thực sự là cơ sở pháp lý
vững chắc cho nhân dân thực sự được hưởng quyền tự do dân chủ của
mình.

 Thứ năm, pháp luật xã hội chủ nghĩa phải hướng tới đoàn kết dân tộc
và xây dựng xã hội đồng thuận
Hồ Chí Minh đã chỉ ra nhiệm vụ trực tiếp và chủ yếu của cách mạng
Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh để thống
nhất nước nhà nên pháp luật XHCN phải hướng tới đại đoàn kết dân tộc.
Người viết: “Bây giờ nước ta có nhiệm vụ chung cho các ngành là đấu
tranh thống nhất nước nhà, khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, tăng gia
sản xuất, thực hành tiết kiệm. Trong nhiệm vụ chung đó, tư pháp cịn góp
16


Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

phần của mình là thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi
nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ của ta. Đó là nhiệm vụ tích cực. Đồng
thời có một nhiệm vụ nữa là ngăn ngừa trừng trị những kẻ âm mưu phá
hoại chế độ ta, phá hoại lợi ích của nhân dân”.
Nước ta là nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống
trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, gắn bó
ruột thịt với nhau trên một lãnh thổ chung và trải qua một lịch sử lâu đời
cùng nhau lao động và đấu tranh để xây dựng Tổ quốc tươi đẹp. Pháp luật
của ta, làm thế nào phải chuyển tải được nội dung quan trọng này.
2.2.2. Xây dựng bộ máy nhà nước

Nói đến bộ máy nói chung và bộ máy nhà nước nói riêng là đề cập tới hệ
thống, gồm nhiều bộ phận liên quan, gắn bó và ràng buộc lẫn nhau, thúc đẩy
nhau cùng phát triển. Bộ phận này là điều kiện của bộ phận kia và ngược lại. Tuy
nhiên, mỗi bộ phận lại có chức năng, vị trí riêng, có tính độc lập tương đối trong

toàn bộ hệ thống, cả bộ máy phải đạt được những tiêu chí chung và có mục đích
chung. Bộ máy nhà nước theo quan điểm Hồ Chí Minh phải bảo đảm hiện đại,
dân chủ, hiệu lực, phù hợp với tình hình, đặc điểm từng giai đoạn lịch sử. Quyền
lực của bộ máy nhà nước thuộc về nhân dân và nhân dân sử dụng quyền lực
thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Bộ máy như vậy là thể hiện bản chất
dân chủ của nhà nước kiểu mới: mạnh mẽ. sáng suốt, hoạt động vì lợi ích của
nhân dân Quyền lực của bộ máy nhà nước thì khơng chia sẻ theo kiểu “tam
quyền phân lập”, mà tập trung, thống nhất. Nhưng để bộ máy hoạt động có hiệu
quả thì có sự phân cơng thực hiện các chức năng cụ thể. Bộ máy đó gồm:
Hồ Chí Minh quan niệm bộ máy nhà nước là một hệ thống bao gồm nhiều
bộ phận gắn chặt, liên kết, ràng buộc và thúc đẩy lẫn nhau, nhưng mỗi bộ phận
lại có một vị trí riêng, có tính độc lập tương đối. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đặt
vấn đề thiết kế và xây dựng một nhà nước pháp quyền: mạnh mẽ, sáng suốt, hoạt
động vì lợi ích của nhân dân.
 Ngun tắc chung xây dựng bộ máy nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh
bao gồm:
o Xây dựng Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của đất nước. Quốc hội
biểu quyết ngân sách và giải quyết những vấn đề chung trên phạm vi tồn
quốc theo chức năng của mình, xây dựng hiến pháp, pháp luật, chuẩn y
các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngồi, biểu quyết ngân sách, danh
sách Thủ tướng và các Bộ trưởng.
17


Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

o Xây dựng một Chính phủ mạnh, hoạt động có hiệu quả. Chính phủ là cơ
quan hành pháp cao nhất của Nhà nước, hoạt động trên cơ sở Hiến pháp,

pháp luật, là trung tâm đầu não điều chỉnh mọi hoạt động quản lý của các
cơ quan nhà nước.
o Bộ máy tư pháp gồm tòa án viện kiểm sát hoạt động độc lập theo pháp luật
và lương tâm không phụ thuộc với bất cứ một quyền lực nào. Thẩm phán
được Chính phủ bổ nhiệm. Khi xét xử có sự tham gia của phụ (hội) thẩm
nhân dân. Quyền bào chữa, biện hộ của các bị cáo được bảo đảm. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về bộ máy tư pháp thể hiện tính dân chủ. hiện đại đáp
ứng nguyện vọng của nhân dân về một nền công lý sáng suốt.
o Xây dựng một nền hành chính hiện đại từ trung ương đến địa phương và
cơ sở. Trong quan niệm của mình, Hồ Chí Minh rất chú ý mối quan hệ
giữa chính quyền các cấp và hiệu quả hoạt động của Nhà nước tùy thuộc ở
việc xử lý mối quan hệ đó.
o Nền hành chính tập trung theo nguyên tắc dân chủ. Để nền hành chính
hoạt động có hiệu quả, Hồ Chí Minh quan tâm tới giải quyết mối quan hệ
giữa chính quyền các cấp. Theo đó, nhà nước trung ương thực hiện sự
thống nhất tập trung cơng việc có tính chất quốc gia, cịn chính quyền địa
phương giải quyết những cơng việc theo chức năng, quyền hạn của mình.
Hội đồng nhân dân do nhân dân bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân
địa phương, quyết định những vấn đề trong phạm vi của mình nhưng phải
theo đúng Hiến pháp và pháp luật.
o Tùy theo hoàn cảnh lịch sử để vận dụng sáng tạo, nhưng vẫn bảo đảm quy
định của Hiến pháp và pháp luật, nhằm đem lại hiệu quả hoạt động của bộ
máy nhà nước trong mọi tình huống
Những nội dung tổ chức bộ máy nhà nước được Hồ Chí Minh vận dụng
linh hoạt, phù hợp điều kiện lịch sử trong từng giai đoạn cụ thể, tránh được sự xơ
cứng, trì trệ, giáo điều, rập khn. Có thể xem đó là chuẩn mực, kiểu mẫu để tiếp
tục đẩy mạnh cải cách bộ máy nhà nước, nền hành chính quốc gia giai đoạn đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
 Tổ chức quyền lực nhà nước phải có sự phân cơng, phân quyền và kiểm
tra, giám sát lẫn nhau nhằm phòng tránh sự lạm quyền và bảo đảm chủ

quyền của nhân dân.
Theo Hồ Chí Minh, để nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân
thì trong tổ chức quyền lực nhà nước phải có sự phân cơng, phân quyền rõ
ràng, có sự kiểm tra và giám sát lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực. Điều
18


Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

này khơng chỉ nhằm phịng tránh sự độc đốn, chuyên quyền dẫn đến lồng
quyền, lạm quyền, xâm hại đến các quyền, tự do và dân chủ của nhân dân
mà cịn bảo đảm cho nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, có tinh
thần trách nhiệm đối với nhân dân.
 Xây dựng chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt; xây dựng chế độ trách nhiệm
của nhà nước, của chính phủ đối với nhân dân
Theo Hồ Chí Minh, để có được chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt
của nhân dân thì trong tổ chức bộ máy nhà nước còn phải tinh gọn, phân
định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và trách nhiệm giữa các cơ quan nhà
nước, giữa chính quyền trung ương và địa phương; phải giáo dục, bồi
dưỡng và xây dựng được một đội ngũ cán bộ, công chức vừa hồng, vừa
chuyên; phải phát huy dân chủ rộng rãi và phải biết dựa vào nhân dân để
xây dựng và cổng cố chính quyền cách mạng. Bên cạnh đó, để có chính
quyền mạnh mẽ, sáng suốt và chịu trách nhiệm trước nhân dân, theo Hồ
Chí Minh cần phải có biện pháp phịng tránh và kiên quyết chống lại
những căn bệnh thường gặp trong bộ máy nhà nước như tham ơ, lãng phí,
quan liêu... Nếu không thường xuyên và kiên quyết chống lại những căn
bệnh đó sẽ làm hủy hoại, suy yếu và biến dạng nhà nước.
 Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có phẩm chất đạo đức tốt, tinh thơng

nghiệp vụ.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, cơng chức là nguồn vốn của
nhà nước; công việc thành hay bại đều do cán bộ tốt hay xấu; chủ trương,
chính sách dù có hay, có tốt mấy đi chăng nữa nhưng nếu khơng có đội
ngũ cán bộ với phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chun mơn thì cũng
khơng thể thực hiện được. Do vậy, nhà nước chỉ thực sự là của dân, do
dân, vì dân khi và chỉ khi có được một đội ngũ cán bộ, cơng chức vừa
hồng, vừa chuyên.
 Xây dựng một nền tư pháp độc lập, chỉ tn theo pháp luật, là thành trì
của cơng lý và lẽ phải.
Quan điểm và tư tưởng xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
nền tư pháp trong nhà nước của dân, do dân, vì dân là làm sao để tòa án
được độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong q trình xét xử. Theo
Người, chỉ có độc lập thì tịa án mới có đủ khả năng bảo vệ chế độ nhà
nước, chế độ xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, bảo vệ cơng
lý và công bằng xã hội.
19


Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

 Dân chủ và thực hành dân chủ trong tưởng Hồ Chí Minh mang những nét
độc đáo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ được thể hiện rất rõ ở ba thành
tố, đó là: triết lý về con người, về công quyền và về thiết chế xã hội. Trước
hết về con người, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người là quý giá nhất.
Nên mọi hoạt động của nhà nước, của xã hội, của mối người đều phải
nhằm mục đích đem đến những điều tốt đẹp nhất cho con người. Thành tố

thứ hai trong tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh là cơng quyền. Quyền
của nhân dân, quyền của cơng dân, quyền của từng tập đồn cơng dân
trong dân tộc và trong xã hội. Đối với Hồ Chí Minh, quyền hạn luôn đi đôi
với nghĩa vụ, với trách nhiệm. Thành tố thứ ba là thiết chế xã hội. Người
đề cao tư tưởng về một xã hội theo luật (thay chế độ ra các sắc lệnh bằng
chế độ ra các đạo luật). Luật nêu rõ dân có quyền hạn, có lợi ích, có trách
nhiệm đối với nhà nước và xã hội. Chính phủ phải đặt lợi ích của nhân dân
nên trên hết, nếu làm hại dân thì dân có quyền đuổi. Đảng và đoàn thể phải
ở trong xã hội, phải do dân tổ chức...
 Kết hợp hài hòa giữa đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một mẫu mực về sự kết hợp đạo đức và
pháp luật, chú trọng giáo dục đạo đức đi đơi với khơng ngừng tăng cường
vai trị, sức mạnh của luật pháp. Đây chính là một nét đặc sắc trong tư
tưởng, phong cách Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật và về quản lý xã
hội. Theo Hồ Chí Minh việc đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của
nhân dân là tiêu chí số một để đánh giá hiệu quả năng lực hoạt động của
nhà nước. Muốn đạt được mục đích nhân bản đó, vấn đề đặt ra là phải
bằng mọi cách giữ cho được định hướng hoạt động của nhà nước, bảo đảm
cho bộ máy thật sự trong sạch. Nếu hoạt động của nhà nước kém hiệu quả,
bộ máy quan liêu, đội ngũ cán bộ cơng chức, nhất là cán bộ chủ chốt, bị
thối hóa, biến chất thì nhà nước đó đã trượt ra khỏi quỹ đạo dân chủ nhân
dân, trở thành một thế lực đối lập với nhân dân. Bằng nhạy cảm chính trị,
chiêm nghiệm thực tiễn của mình, Hồ Chí Minh đã phát hiện và cảnh báo
ngay từ rất sớm những căn bệnh có thể phát sinh làm biến dạng, tha hóa
nhà nước. Quán triệt phép biện chứng duy vật, Hồ Chí Minh ý thức rằng,
quản lý đất nước, xã hội là một việc làm khó, cán bộ, cơng chức của ta lại
ít kinh nghiệm, chưa qua đào tạo, chắc chắn có thiếu sót, sai lầm, nhưng
nếu biết thành thật, học hỏi, đặt lợi ích nhân dân lên trên hết, trước hết thì
có thể khắc phục, sửa chữa được.
20



Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

Theo Hồ Chí Minh, nguy hại nhất là khi được nhân dân ủy quyền,
một số cán bộ, công chức “đã vác mặt làm quan cách mạng”, kéo bè, kéo
cánh để thu vén lợi ích cá nhân. Vì ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân mà trong bộ
máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương đã nảy sinh những “lỗi lầm
rất nặng” làm biến dạng nhà nước. Hồ Chí Minh sớm cảnh báo những căn
bệnh khá phổ biến, đó là trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu
ngạo. Người chỉ ra thực chất, hình thức biểu hiện phong phú của các căn
bệnh này, gọi đó là “giặc nội xâm” hết sức nguy hiểm và gây hậu họa
nghiêm trọng, làm thất thoát tiền của nhà nước, chậm tốc độ phát triển,
nhất là làm xói mịn niềm tin của dân, làm cho dân xa nhà nước.
Vì thế, chống đặc quyền, đặc lợi, khắc phục những tiêu cực trong bộ máy
nhà nước là nhu cầu và việc làm thường xuyên, đảm bảo cho nhà nước thật sự là
công bộc của dân. Nếu thấu hiểu và làm đúng tư cách đó thì mỗi cán bộ, cơng
chức có thể phịng tránh, ngăn ngừa, khơng phạm phải những lỗi lầm kể trên.
Cịn nếu “Ai đã phạm những lầm lỗi trên này thì phải hết sức sửa chữa;
nếu khơng tự sửa chữa thì Chính phủ sẽ không khoan dung”.
Nhận thức và cảnh báo của Hồ Chí Minh về các nguy cơ, căn bệnh phát
sinh trong quá trình hoạt động của bộ máy nhà nước và cách phòng tránh, khắc
phục chúng ngày nay vẫn còn ngun giá trị và có tính thời sự, soi đường chỉ lối
cho cuộc đấu tranh chống tham nhũng đạt kết quả cao, đảm bảo cho Nhà nước ta
thật sự phục vụ quyền lợi của nhân dân, trở thành công bộc, đầy tớ của dân.
2.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng
chức nhà nước
2.2.1. Tiêu chuẩn của người cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí Minh


Tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác cán bộ là hệ thống những quan điểm lý
luận tồn diện và sâu sắc về cán bộ và cơng tác cán bộ nước ta được hình thành
trên cơ sở tiếp thu, kế thừa tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
cán bộ cùng với truyền thống 9 trọng dụng nhân tài gắn với tiêu chuẩn đạo đức ở
Việt Nam được nảy sinh và kiểm nghiệm qua thực tiễn ở Việt Nam, là cơ sở tư
tưởng chỉ đạo công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề cán bộ và cơng tác
cán bộ, Người nói: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”; “Muôn việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém”, để có cán bộ tốt, thì cơng tác cán bộ có
ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Xuất phát từ vai trò hết sức quan trọng của người
cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những tiêu chuẩn của
người cán bộ cách mạng, phải tự giác rèn luyện về mọi mặt, không ngừng nâng
21


Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

cao phẩm chất và năng lực để “xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật
trung thành của nhân dân”. Người đưa ra tiêu chuẩn của người cán bộ không
phải từ ý muốn chủ quan mà do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng.
Yêu cầu về tiêu chuẩn cán bộ của Người mang tính tồn diện và đầy đủ, gồm các
tiêu chuẩn về đạo đức, phẩm chất năng lực, về trình độ lý luận, về phong cách và
phương pháp của người cán bộ. Cụ thể là:
Một là, trung thành với sự nghiệp cách mạng.
Hai là, hang hái, thành thạo cơng việc.
Ba là, có mối liên hệ mật thiết với quần chúng.
Bốn là, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

Năm là, có chí tiến thủ, vươn lên về mọi mặt
 Người cán bộ phải có đạo đức cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln đề cao đạo đức của người cán bộ cách mạng.
Người cho rằng, cán bộ chỉ có giác ngộ chính trị chưa đủ, mà còn phải thấm
nhuần, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Người từng viết: “… Người cách mạng
phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng khơng lãnh đạo
được nhân dân. Bởi vì, mọi việc thành hay bại là do cán bộ có thấm nhuần đạo
đức cách mạng hay khơng. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa cá nhân là gốc
của tình trạng suy thoái đạo đức cách mạng, là căn bệnh nguy hiểm nhất phải tập
trung chữa trị từ sớm. Người căn dặn các cán bộ của Đảng phải tránh sa vào chủ
nghĩa cá nhân, ví chủ nghĩa cá nhân là một thứ “vi trùng rất độc”, nó là thứ
“bệnh mẹ”, do nó mà sinh ra các thứ “bệnh con”, các chứng bệnh nguy hiểm
như: bệnh quan liêu, bệnh tham lam, bệnh kiêu ngạo, bệnh lười biếng, thiếu kỷ
luật, óc hẹp hịi, óc địa phương…
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng của người cán bộ phải được
thường xuyên rèn dũa, giống như “ngọc càng mài càng sáng”, thể hiện rõ trong
cơng tác và trong sinh hoạt thường ngày. Đó là:
Trung với nước, hiếu với dân.
Có tình thương u con người, tình thương đồng bào, đồng chí.
Phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư”.
Phải có tinh thần trách nhiệm trước cơng việc.
 Người cán bộ phải tích cực học tập và tự trau dồi kiến thức, phải được
huấn luyện và rèn luyện kỹ năng để trưởng thành
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc học tập chính trị của cán
bộ. Người từng nhắc nhở: “mỗi cán bộ, đảng viên phải học lý luận, phải đem lý
22


Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012


Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

luận áp dụng vào công việc thực tế. Phải chữa bệnh kém lý luận, khinh lý luận và
lý luận sng”. Người cho rằng, phải có lý luận, phải có chủ nghĩa thì tinh thần
mới vững, hành động mới nhất quán. Người cán bộ phải trước hết là người hiểu
đúng, quán triệt sâu sắc mọi chủ trương, đường lối của Đảng. Hiểu đúng rồi thì
đem ra vận dụng để cho công việc thành công. Với quan niệm “cán bộ là cái gốc
của mọi cơng việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định “huấn luyện cán bộ là công
việc gốc của Đảng”.
Để huấn luyện, bồi dưỡng và làm cho cán bộ trưởng thành, Đảng phải bỏ
nhiều công sức, phải nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây
cối quý báu. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, để huấn luyện, học tập có kết quả
thì trước hết phải xác định đúng mục đích huấn luyện, học tập. Người căn dặn,
cán bộ đi học là để “làm việc, làm người, làm cán bộ”; học để sửa chữa tư tưởng,
học để tu dưỡng đạo đức cách mạng. Người chỉ rõ, việc đào tạo cán bộ là việc
hết sức hệ trọng: phải đào tạo một đội ngũ cán bộ có gan phụ trách, có gan làm
việc, ham làm việc. Có thế Đảng mới thành công.
2.2.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
Trong công cuộc xây dựng bộ máy nhà nước và nền hành chính, Hồ Chí
Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức. Trong vấn đề
này, Hồ Chí Minh đã đề cập đến những nội dung cốt lõi cơ bản.
Hồ Chí Minh có một quan niệm nhất quán, chuẩn xác hiện đại về cán bộ
công chức nhà nước. Ngay trong kháng chiến, vào những năm 1948, 1950, Hồ
Chí Minh đã ký Sắc lệnh 188/SL và 76/SL quy định về thang lương và quy chế
công chức, trong đó xác định rất rõ vị trí và nhiệm vụ của công chức nhà nước.
“Công chức Việt Nam là những công dân giữ một nhiệm vụ trong bộ máy nhà
nước của chính quyền nhân dân dưới sự lãnh đạo tối cao của Chính phủ.
Vậy, người cơng chức phải đem hết tất cả sức lực và tâm trí theo đúng
đường lối của Chính phủ và nhằm lợi ích của nhân dân mà làm việc. Đi đôi với
nhiệm vụ trên, cơng chức Việt Nam cần có một địa vị xứng đáng với tài năng của

mình”. Quan điểm của Hồ Chí Minh xác định rõ tính cách chun nghiệp của
cơng chức theo chế độ chức nghiệp.
 Xây dựng hệ tiêu chuẩn đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ cơng chức nhà nước vừa có đức, vừa có tài, vừa
hồng, vừa chuyên, nhưng đức phải là gốc. Người nhấn mạnh đến các tiêu chuẩn
trung thành và hăng hái, liên lạc mật thiết với quần chúng nhân dân, thạo việc,
dám phụ trách giải quyết những vấn đề trong lúc khó khăn, khi thất bại khơng
23


Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo, khi thi hành nghị quyết thì gan góc,
kiên quyết.
Cán bộ cơng chức nhà nước phải có đủ các đức tính: cần, kiệm, liêm,
chính, chí cơng vơ tư, có tri thức và học thức, nắm vững lý luận, sâu sát thực tế,
có lý trí vững chắc, tình cảm trong sáng, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị và
khoa học, chấp hành đúng pháp luật. Nắm vững pháp luật và vận dụng nhuần
nhuyễn luật pháp để giải quyết đúng công việc hàng ngày là địi hỏi khơng thể
thiếu đối với cán bộ, cơng chức.
Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu phải biết người, biết dùng
người, tạo điều kiện cho nhân viên phát huy được tài năng và phẩm chất của
mình.
 Xây dựng quy chế khung thi tuyển cán bộ, cơng chức nhà nước.
Hồ Chí Minh có u cầu rất cao đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà
nước. Đội ngũ này phải mang tính chuyên nghiệp và được tiêu chuẩn hóa. Để đạt
mục tiêu đó, Người đã xây dựng một chế độ thi tuyển cán bộ, công chức vào các
ngạch, bậc của ngành hành chính. Chế độ thi tuyển này rất chặt chẽ về cách làm,

hình thức và nội dung. Các mơn thi bao gồm: chính trị, kinh tế, pháp luật, lịch
sử, địa lý, ngoại ngữ. Nội dung từng môn thi phải căn cứ vào yêu cầu và thực
tiễn cụ thể mà quy định nhằm mục đích tạo cho cán bộ, công chức một nền tảng
tri thức ổn định, đủ sâu, rộng để giải quyết vấn đề có liên quan đến quản lý đất
nước, xã hội. Kết quả kỳ thi phản ánh năng lực, trình độ chun mơn của từng
người, là căn cứ quan trọng để tuyển chọn, bổ nhiệm.
Chế độ thi tuyển cán bộ, công chức do Hồ Chí Minh khởi xướng thể hiện
một cách rõ nét tư tưởng chính quy, hiện đại, dân chủ, cơng khai, cơng bằng,
bình đẳng xã hội, khơng có đặc quyền đặc lợi. Đây là cơ sở lý luận và kinh
nghiệm thực tiễn quý giá để chúng ta xây dựng, thực hiện quy chế công chức
phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước.
Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn cán bộ phải quan tâm đến những kiến
nghị, đề đạt của nhân dân: “Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó đến đâu
mặc lịng, những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử
kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho
chu đáo, phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân. Nói tóm lại, hết thảy những việc có
thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được ta đặc biệt chú ý”.
 Công tác cán bộ
24


Vũ Ngọc Linh Chi – 2057080012

Quan hệ công chúng chuyên nghiệp K40

Về cơng tác cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng: “huấn luyện cán bộ là công
việc gốc của Đảng”, và “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là việc làm rất
quan trọng và rất cần thiết”. Người có những yêu cầu rất cụ thể và rõ ràng đối
với công tác cán bộ: Một, phải hiểu rõ và đánh giá đúng cán bộ. Có như vậy mới

bố trí và sử dụng đúng, mới tránh được những thiếu sót, sai lầm; mới phát huy
mặt mạnh, hạn chế mặt yếu trong từng con người cán bộ. Hai, phải khéo dùng
cán bộ, tức là phải đặt đúng người, đúng việc vì việc mà đặt người. Khéo dùng
cán bộ thể hiện ở chỗ biết kết hợp các thế hệ, các loại cán bộ một cách đúng đắn.
Khi dùng cán bộ phải hết sức khách quan, công tâm, chống tư tưởng địa phương
chủ nghĩa, “óc bè phái, óc hẹp hịi”. Ba, phải “có gan cất nhắc cán bộ ”. Tức là
phải mạnh dạn đề bạc, bổ nhiệm cán bộ vào các cương vị cần thiết để đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ cách mạng đề ra. Bốn, phải yêu thương cán bộ và tích cực giúp
đỡ cán bộ sửa chữa khuyết điểm. Chớ nên thành kiến, xa lánh những cán bộ có
thiếu sót, khuyết điểm.
o Phát hiện, lựa chọn cán bộ
Phát hiện và lựa chọn cán bộ là cơng đoạn đầu tiên của tồn bộ cơng tác
cán bộ. Về vấn đề này, Hồ Chí Minh rất quan tâm và coi đó làm nguồn gốc cho
việc xây dựng, hình thành đội ngũ cán bộ. Để phát hiện, lựa chọn cán bộ, Hồ
Chí Minh yêu cầu phải sâu sát với thực tiễn, kịp thời phát hiện cán bộ có đức, có
tài. Người cảnh báo căn bệnh thường gặp ở người cán bộ là thói quan liêu, nó
gây thiệt hại đến tiềm năng con người, vốn quý nhất và lâu dài của cách mạng,
đất nước. Khi đã mắc căn bệnh đó thì khơng có khả năng phát hiện được những
người có khả năng thích hợp với cơng việc cũng như cán bộ không đủ khả năng
đảm đương công việc.
o Đánh giá cán bộ
Đánh giá cán bộ là khâu quan trọng trong công tác cán bộ. Theo Người,
đánh giá đúng cán bộ là tiền đề quan trọng nhất, giữ vai trị chi phối tất cả các
khâu trong cơng tác cán bộ. Đánh giá đúng cán bộ là cơ sở khách quan, khoa học
cho việc lựa chọn, bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm và thực hiện đúng chính sách
cán bộ, phát huy được nguồn lực cán bộ, góp phần giữ vững đồn kết nội bộ.
Đồng thời việc đánh giá đúng cán bộ sẽ giúp cán bộ đó phát huy ưu điểm, khắc
phục khuyết điểm, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và năng lực
cơng tác để tiến bộ không ngừng. Đánh giá không đúng cán bộ sẽ dẫn đến lựa
chọn nhầm những cán bộ không đủ phẩm chất, năng lực dẫn đến hỏng việc, hỏng

người, thui chột tài năng, mất dần động lực phát triển, gây tổn thất cho tổ chức,
địa phương và sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
25


×