SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BÀI TẬP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
MÔN VĂN
ĐỀ TÀI:
VẺ ĐẸP KHUẤT LẤP CỦA NHÂN VẬT “THỊ”
TRONG VỢ NHẶT VÀ NHÂN VẬT NGƯỜI ĐÀN
BÀ HÀNG CHÀI TRONG CHIẾC THUYỀN NGOÀI
Giáo viên hướng dẫn
: Thạc sĩ Trịnh Thị Hà Giang
Học sinh
: Lê Hồng Qun (Nhóm trưởng)
Phạm Quỳnh Anh
Lương Quỳnh Trang
Hoàng Minh Anh
Lớp
: 12D1
1
LỜI CẢM ƠN
Thực tế luôn cho thấy, sự thành công nào cũng đều gắn liền với những sự hỗ trợ,
giúp đỡ của những người xung quanh dù cho sự giúp đỡ đó là ít hay nhiều, trực
tiếp hay gián tiếp. Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu làm bài nghiên cứu khoa học
đến nay, em đã nhận được sự quan tâm, chỉ bảo, giúp đỡ của cô giáo, gia đình và
bạn bè xung quanh.
Với tấm lịng biết ơn vơ cùng sâu sắc, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất từ
đáy lịng đến cơ Trịnh Thị Hà Giang - giáo viên bộ môn Văn đã cùng dùng những
tri thức và tâm huyết của mình để có thể truyền đạt cho chúng em trong vốn kiến
thức quý báu trong suốt thời gian làm bài tập nghiên cứu. Và em cũng xin gửi lời
cảm ơn đến giáo viên chủ nhiệm của em - cô Phạm Minh Hiệp và bạn bè trong lớp
đã ủng hộ, khuyến khích chúng em để làm bài tập nghiên cứu khoa học.
Ban đầu em còn bỡ ngỡ vì vốn kiến thức của em cịn hạn. Do vậy, khơng tránh
khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của cơ giáo bộ mơn
và các bạn học cùng lớp bài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
2
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN...........................................................................................................2
MỞ ĐẦU...................................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................4
2. Mục đích nghiên cứu..........................................................................................5
3. Nhiệm vụ............................................................................................................5
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu..........................................................................6
5. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................6
NỘI DUNG...............................................................................................................6
CHƯƠNG I: Khái quát chung hai tác phẩm “Vợ nhặt” và “Chiếc thuyền
ngoài xa”................................................................................................................6
1. Những nét chính về nhà văn Kim Lân và tác phẩm “Vợ nhặt”.......................6
2. Những nét chính về nhà văn Nguyễn Minh Châu và tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa”.............................................................................................................9
CHƯƠNG II: Vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật “thị” trong tác phẩm “Vợ
nhặt” và nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền
ngoài xa”..............................................................................................................11
1. Vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật “thị” trong tác phẩm “Vợ nhặt”...................11
2. Vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà hàng chài trong tác phẩm
“Chiếc thuyền ngoài xa”...................................................................................15
3. Đặc sắc nghệ thuật trong hình tượng các nhân vật........................................22
CHƯƠNG III: So sánh sự giống và khác nhau giữa nhân vật “thị” và người
đàn bà hàng chài.................................................................................................23
1. Điểm tương đồng...........................................................................................24
2. Sự khác biệt...................................................................................................24
3. Lí giải sự khác biệt giữa người vợ nhặt và người đàn bà làng chài..............25
KẾT LUẬN.............................................................................................................25
1. Tóm tắt nội dung đã nghiên cứu.......................................................................25
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đối với bản thân mình........................................27
3. Khuyến nghị: thầy cơ, nhà trường....................................................................27
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................28
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
- Vị trí của hai tác phẩm trong chương trình
+) Vợ nhặt
Tình cảnh thê thảm của nạn đói 1945 được Kim Lân dùng ngịi bút hiện thực
của mình tái hiện lại một cách rất tinh tế và xuất sắc thông qua những nhân vật
trong tác phẩm, mà ở đó mỗi nhân vật ai cũng có những niềm đau riêng. Khơng chỉ
đề cao giá trị hiện thực mà còn nêu lên giá trị nhân đạo ẩn chứa bên trong Vợ nhặt.
Dẫu khốn kh‚, đói kém tưởng như rất gần với cái chết, thế nhưng ta ln có khát
vọng sống mãnh liệt, niềm tin vào một tương lai tươi sáng, niềm tin vào cách mạng
sƒ thay đ‚i cuộc đời. Tác phẩm “Vợ nhặt” giúp chúng em thấm thía hơn nỗi kh‚
của tồn thể nhân dân Việt Nam, sâu đậm thêm sự đồng cảm đối với người nông
dân nghèo. Không chỉ vậy, phẩm chất của người nông dân chất phác còn được toả
sáng trong cảnh tang thương, chết chóc của thực tại. Chính tâm hồn của họ là ánh
sáng lấp lánh trước nghịch cảnh, là tình thương giữa người với người, khát vọng
vượt lên cuộc sống vô cùng tiềm tàng. Qua tác phẩm chúng em vừa có thể hiểu sâu
thêm về phong cách nghệ thuật, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật mà nhà văn
gửi gắm cho người đọc.
+) Chiếc thuyền ngoài xa
Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kỳ đ‚i mới
đã đi sâu khám phá đời sống ở bình diện đạo đức thế sự. Truyện Chiếc thuyền
ngồi xa của Nguyễn Minh Châu là phát hiện về đời sống và con người theo hướng
đó. Ở tác phẩm này, nét độc đáo trong xây dựng cốt truyện của Nguyễn Minh Châu
là cách tạo tình huống mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống. Tình huống
là sự kiện có ý nghĩa bộc lộ mọi mối quan hệ, thử thách phẩm chất, đôi khi tạo ra
những bước ngoặt trong tư tưởng, tình cảm, trong cuộc đời con người. Truyện
Chiếc thuyền ngoài xa là sự nhận thức và phê phán cái xấu, cái ác trong cuộc sống
thường ngày. Đặc biệt, truyện Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng
đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều
chiều, phát hiện ra bản chất thực sự sau vẻ ngoài đẹp đƒ của hiện tượng. Qua tác
phẩm chúng em cũng một phần có thể hiểu được những tâm tư suy nghĩ của nhân
vật để có thể thấm sâu những triết lí, bài học mà tác phẩm đã để lại.
4
- Sứ mệnh của các nhà văn chân chính là đi tìm những “hạt ngọc” ẩn chứa trong bề
sâu tâm hồn
Hai tác phẩm đã khắc hoạ sâu sắc hình tượng nhân vật Thị và nhân vật người
đàn bà hàng chài. Họ đều mang vẻ đẹp khuất lấp mà ta cần phải kiếm tìm thật kĩ
càng để phát hiện sau “lớp vỏ bọc” đó là vẻ đẹp phẩm chất cao quý của những
người phụ nữ Việt Nam. Đến với người đọc ban đầu là những ấn tượng về cô Thị
“ham ăn, vô ý tứ, sỗ sàng” và người đàn bà “to lớn, thô kệch với nét mặt mệt mỏi”
nhưng đằng sau những cử chỉ, hành động đó là vẻ đẹp tâm hồn đang bị che khuất
đi bởi hoàn cảnh, càng đi sâu ta sƒ càng nhận ra được nét đẹp đó.
2. Mục đích nghiên cứu
Hai tác phẩm trên là một trong những tác phẩm chủ chốt trong q trình ơn
luyện thi TN, vậy nên chúng em sƒ:
- Làm n‚i bật số phận của những người phụ nữ Việt Nam nói chung, họ là những
nhân vật mang trong mình vẻ đẹp mà ta cần phải "tìm những hạt ngọc ẩn giấu
trong bề sâu tâm hồn con người". Từ đó ta thêm hiểu về phẩm chất cao quý, đáng
kính trọng của những người phụ nữ Việt Nam
- Góp phần thêm tư liệu vào quá trình học tập, thêm tài liệu để chúng em có thể b‚
sung nguồn kiến thức thêm phong phú, dồi dào qua đó có thể hiểu được tác phẩm
một cách sâu sắc nhất
- Củng cố kiến thức chung của tác phẩm, kiến thức chuyên sâu giúp bài văn thêm
dày dặn, lập luận sắc bén. Hơn nữa nghiên cứu khoa học cịn giúp chúng em phát
triển khả năng làm việc nhóm, có ý thức trách nhiệm cơng việc mình được giao.
3. Nhiệm vụ
Nhóm chúng em sƒ cùng nghiên cứu, thảo luận, tìm kiếm thơng tin một cách chi
tiết nhất, phân bố cơng việc rõ ràng cho từng người để có thể chun tâm cho cơng
việc của mình. Từ đó mỗi phần trong bài NCKH sƒ được chuẩn bị kĩ càng nhất,
5
vừa để hồn chỉnh bài tập nhóm của chúng em cũng như là cung cấp thêm tài liệu
cho kì thi THPTQG.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” và “Vợ nhặt”.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành bài tập nghiên cứu khóa học, chúng em đã làm một số phương
pháp sau:
-Phân tích
-Hệ thống theo nhóm
6
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: Khái quát chung hai tác phẩm “Vợ
nhặt” và “Chiếc thuyền ngồi xa”
1. Những nét chính về nhà văn Kim Lân và tác phẩm “Vợ
nhặt”
1.1. Tác giả
- Kim Lân: tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 01 tháng 08 năm 1920,
mất 20 tháng 07 năm 2007, quê ở Từ Sơn - Bắc Ninh
- Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ơng chỉ học hết tiểu học, rồi vừa làm thợ sơn
guốc, khắc tranh bình phong, vừa viết văn.
- Năm 1941, ông bắt đầu sự nghiệp sáng tác của mình với thể loại truyện ngắn và
một số tác phẩm của ông đã được đăng trên các báo như: Tiểu thuyết thứ bảy và
Trung Bắc chủ nhật.
- Năm 1944, Kim Lân tích cực tham gia vào các phong trào cách mạng và gia nhập
Hội văn hóa cứu quốc.
- Sau Cách Mạng tháng Tám, ông tiếp tục hoạt động văn nghệ, tham gia viết văn,
làm báo, diễn kịch, đóng phim nhằm phục vụ kháng chiến và cách mạng.
- Ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật nǎm 2001.
- Là nhà văn rất thành công về chủ đề nơng thơn với hình ảnh người nơng dân cực
kh‚, cam chịu cùng vẻ đẹp chân thực, bình dị trong cuộc sống “một lòng đi về với
đất,với người,với thuần hậu nguyên thuỷ của cuộc sống nông thôn”.
7
1.2. Tác phẩm “Vợ nhặt”
- Đây là truyện ngắn xuất sắc nhất trong sự nghiệp văn chương của Kim Lân
- Nhận định của nhà văn Kim Lân về tác phẩm của mình: “Khi viết về nạn đói
người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói
người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một
truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng
những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi
vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người.”
1.3. Hoàn cảnh sáng tác, xuất xứ
- Nguồn cảm hứng sáng tác của Kim Lân là nạn đói năm Ất Dậu năm 1945 với hai
triệu người chết đói. Điều kì lạ trong những năm đói, sự tối tăm ấy cận kề bên
miệng vực của cái chết thì những con người Việt Nam khơng nghĩ đến cái chết mà
ln hướng về sự sống, tình thương. Đó là khát vọng sống mạnh mƒ, là chất kỳ
diệu của con người Việt Nam khơi nguồn cảm hứng để Kim Lân sáng tác nên
truyện ngắn đặc sắc này
- In trong tập Con chó xấu xí (1962).
- Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết Xóm ngụ cư
- Được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo.
- Sau khi hịa bình lập lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết
truyện ngắn này
1.4. Nội dung chính tóm tắt
Tràng là chàng trai xấu xí sống với mẹ ở xóm ngụ cư. Giữa nạn đói khủng
khiếp, anh phải làm nghề kéo xe thóc thuê lên tỉnh để lấy tiền trang trải qua ngày.
Ở đây, qua vài câu nói bơng đùa và bốn bát bánh đúc, anh với cô thị đanh đá chỏng
lỏn đã trở thành vợ chồng với nhau mà không cưới hỏi hay u đương gì. Cơ thị
theo khơng anh về làm vợ, trên đường về khác với vẻ đanh đá thường thấy, khi bị
trêu, cô thị tỏ ra ngượng ngùng. Về đến nhà, cô khép nép khác thường. Khi bà cụ
Tứ - mẹ anh Tràng về đến nhà, bà vừa ngạc nhiên, sững sờ vì có người gọi mình là
8
mẹ; vừa đau buồn, tủi h‚, xót thương vì con mình lấy vợ đúng lúc khó khăn nhất
khơng biết có qua n‚i giai đoạn này không và người ta lấy con mình vì cái đói, cái
kh‚. Gạt đi những giọt nước mắt đau buồn, bà động viên các con yêu thương nhau
và lạc quan hơn trong cuộc sống. Cuộc sống từ khi có nàng dâu thay đ‚i hồn tồn,
sự bừa bộn của căn nhà được dọn dẹp sạch sƒ, ngăn nắp, tươm tất. Bữa ăn đầu tiên
khi về nhà chồng của cô thị chỉ vỏn vẹn là rau chuối và cám lợn, mọi người ăn
trong nghẹn ngào, khơng ai nói với ai câu nào. Cô thị kể những mẩu chuyện người
đi phá kho thóc Nhật cho anh Tràng và bà cụ Tứ, tưởng chừng chỉ là những câu
chuyện vô thưởng vơ phạt nhưng nó lại là chìa khóa, mở ra trong đầu anh Tràng lá
cờ của Đảng và một cuộc sống mới trong tương lai hứa hẹn sƒ tốt đẹp và no đủ hơn
hiện tại. Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân khơng chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm
của người nơng dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện
đưuọc bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ: ngay trên bờ vực của chết, họ
vẫn hướng về sự sống, khát khao t‚ ấm gia đình và thương yêu, đùm bọc lẫn nhau
2. Những nét chính về nhà văn Nguyễn Minh Châu và tác
phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”
2.1. Tác giả
- Nguyễn Minh Châu (1930-1989), quê ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.
- Ông là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại
- Phong cách của ông là phong cách tự sự - triết lí đậm nét, có lối văn giản dị mà
sâu sắc, thấm thía, nhiều dư vị, nhiều trải nghiêm,
Ž chiêm nghiê Žm.
- Ông “thuộc trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất”, là
người kế tục xuất sắc,là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau
này”.
- Nguyễn Minh Châu được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học năm
2000.
- Ơng quan niệm rằng “Nhà văn là người cố gắng đi tìm những hạt ngọt ẩn giấu
trong bề sâu tâm hồn của con người” vậy nên nhân vật trung tâm trong các sáng tác
của ông là những con người trong cuộc mưu sinh trong hành trình nhọc nhằn kiếm
tìm hạnh phúc và hồn thiện nhân cách.
9
2.2. Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”
Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đòi đằng sau bức ảnh,
truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn
nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản
chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng
2.3. Hoàn cảnh sáng tác
Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” in đậm phong cách tự sự - triết lí của Nguyễn
Minh Châu, rất tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống từ góc độ thế sự của nhà văn
ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Truyện ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần
đ‚i mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn
khoăn. Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn
lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987).
2.4. Nội dung chính tóm tắt
Để có thể xuất bản được một bộ lịch về thuyền và biển, nhận lời của trưởng
phòng, nghệ sĩ Phùng đi tới một vùng biển đã từng là chiến trường cũ của anh thời
chống Mĩ. Sau mấy bu‚i sáng phục kích, anh đã chụp được một cảnh “đắt” trời cho
– cảnh chiếc thuyền ngoài xa trong làn sương sớm, đẹp như một bức tranh mực
tàu. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã ngạc nhiên đến sững sờ khi chứng kiến
từ chính chiếc thuyền đó cảnh người chồng vũ phu đang đánh đập vợ mình một
cách dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày
sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này anh đã ra tay can thiệp. Theo lời mời
của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng) người đàn bà hàng chài đã
đến toà án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và anh,
nhất quyết không bỏ người chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình
và đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời khỏi vùng biển với khá nhiều
bức ảnh, Phùng đã có một tấm được chọn vào bộ lịch tĩnh vật hoàn toàn” về thuyền
và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, Phùng đều thấy hiện lên
cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn bao giờ anh cũng thấy
hình ảnh người đàn bà nghèo kh‚, lam lũ bước ra từ tấm ảnh.
10
CHƯƠNG II: Vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật “thị”
trong tác phẩm “Vợ nhặt” và nhân vật người đàn bà
hàng chài trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”
1. Vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật “thị” trong tác phẩm
“Vợ nhặt”
1.1. Phía sau tình cảnh đói khổ cùng cực là lịng ham sống mãnh liệt.
Đi suốt chiều dài của tác phẩm người vợ nhặt đúng là “người phụ nữ nghèo,
cùng đường và liều lĩnh”. Chính cái đói đã dồn đẩy cơ thành một người khơng có
miếng ăn, khơng có nhà cửa, không nơi nương tựa. Thị phải chấp nhận sống trong
cảnh vất vưởng, tạm bợ ở đầu đường xó chợ. Dưới ngòi bút của Kim Lân, người
vợ nhặt là người phụ nữ không tên không tu‚i, không quê hương, không quá khứ.
Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ khơng thể đặt cho thị một cái tên
mà bởi vì thị là cánh bèo n‚i trơi trong nạn đói, là người đàn bà vơ danh. Thị bị
cơn bão nạn đói th‚i cho phiêu dạt đến miền đất này, cuộc sống lê la tháng ngày
không biết đến ngày mai.
Nguyễn Minh Châu gọi người phụ nữ trong tác phẩm của mình bằng cái tên của
công việc bà phải làm lụng, phải mưu sinh để thể hiện sự xót xa, đau đớn khi
chứng kiến cảnh sống bám biển vô định của phận người phụ nữ yếu đuối, nhẫn
nhịn và giàu đức hi sinh cho gia đình, đó cũng là thân phận chung của biết bao
nhiêu người phụ nữ trong thời bu‚i đời sống kinh tế cịn chật vật, khó khăn. Từ
đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”,
“nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Nhưng nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn
tượng sâu sắc. Trong tác phẩm, cái đói đã in hình rõ rệt lên thân thể của cô. Thị
xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn, nếu như khơng muốn nói là xấu. Chân dung
của thị được gợi tả với “những nét khơng dễ nhìn”. Đó là người phụ nữ gầy vêu
vao, “áo quần tả tơi như t‚ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” n‚i bật với “hai con
mắt trũng hốy”. Có thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại
càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa. Cái đói khơng chỉ tàn hại dung nhan của thị
mà cịn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng
11
lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện.
Và vì vậy nên thị đã quyết định theo Tràng về - người đàn ông lạ mặt vừa quen khi
chỉ qua bốn bát bánh đúc với mấy câu bông đùa. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà
xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trị gì”. Thị đã đặt
sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách. Đó phải chăng là cái cùng
đường của thị? Nỗi thống kh‚ khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng
của người con gái. Khi anh cu Tràng đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khn đồ
lên xe rồi ta cùng về” thì người đàn bà kia lại im lặng sau câu đùa của Tràng. Nói
đúng hơn là thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Cái giá của người
phụ nữ ít nhất cũng là “Ba trăm một mụ đàn bà/ Mua về mà trải chiếu hoa cho
ngồi”. Ở đây, thị đã “đại hạ giá” xuống còn bốn bát bánh đúc, hai hào dầu, một
thúng con… Thị nào có biết Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? quê quán, gốc tích ra
sao? Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng.
Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn? Có thể sƒ trách thị là người dễ dãi
nhưng thật sự cũng khó để thị tìm được một con đường nào khác cho mình
Phía sau tình cảnh trơi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lịng ham
sống mãnh liệt. Chấp nhận theo không người đàn ông nghèo kh‚ lại là dân ngụ cư
như Tràng không chỉ là một quyết định nhằm chạy trốn cái đói mà cịn thể hiện
mong muốn của Thị muốn tìm được một điểm tựa trong cuộc sống để bấu víu, dựa
dẫm chứ khơng phải là loại đàn bà con gái lẳng lơ. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Ít
nhất, thị đã làm một điều đáng được thơng cảm, đó là khơng bng xi trước
hồn cảnh khốn cùng. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự
sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình.
Niềm lạc quan u sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim
Lân: " Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ
nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh
khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái
chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
1.2. Phía sau vẻ nhếch nhác, khổ sở là sự hiểu chuyện, giữ ý tứ.
Trong lần gặp Tràng, cái đói dường như đã bóp méo nhân cách của thị, để thị
hiện diện trước Tràng trong hình dạng một người có phần nhếch nhác và trơ trƒn.
Đói quá, khi được mời ăn, thị đã bỏ qua cả lễ nghi, không hề e dè mà “hai con mắt
trũng hốy của thị tức thì sáng lên” và “ngồi sà xuống, ăn thật”, cũng chẳng thèm
mời chào ai. Sau đó, “thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện
12
trị gì”, đã thế “ăn xong thị cầm dọc đơi đũa quệt ngang miệng, thở: Hà, ngon!”.
Cách ăn uống của cơ khơng có vẻ gì là của một người phụ nữ nhu mì, tế nhị. Sự ý
tứ cần có của một người phụ nữ đã được thay thế bằng hình ảnh suồng sã, sống
sượng. Thế nhưng, khi liều lĩnh nhắm mắt đưa chân theo Tràng về làm vợ, trông thị
ra dáng một cô dâu biết để ý trước sau, biết giữ gìn ý tứ. Thị nghĩ đến và chuẩn bị
cho ngày vu quy của mình một cái thúng con để đựng vài thứ lặt vặt cho mình.
Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đ‚i rõ nét. Nếu như anh cu
Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại
cảm thấy xấu h‚. Thị bƒn lƒn “cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách
tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt” và cũng biết “ngượng nghịu”,
rồi “chân nọ bước díu cả vào chân kia” khi cảm thấy ánh mắt của mọi người xung
quanh đ‚ dồn về phía mình, trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bơng đùa,
chọc ghẹo của người dân ngụ cư. Đó phải chăng là vẻ đẹp của cô dâu về nhà
chồng, là tính nết cũng hình
Ấy là lúc thị về đến nhà Tràng, bước vào gian nhà ọp ẹp của anh, trong thị đã có
sự lo lắng cho quãng thời gian sắp tới. Khi nhìn thấy “ngơi nhà vắng teo đứng rúm
ró trên mảnh vườn mọc l‚n nh‚n những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”.
Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái
phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách. Trong tiếng thở dài đó vừa có
sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị
về gia cảnh nhà chồng đó phải chăng là thị đã ý thức được phận trách của mình đối
với việc cùng người chồng của mình chung tay gây dựng gia đình. Vào trong nhà,
thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“Ngồi mớm” – thế ngồi bấp bênh,
không ‚n định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ
(chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong
quan hệ với mẹ chồng. Trước bà cụ Tứ, thị cũng rụt rè “đứng nguyên chỗ cũ, khƒ
nhúc nhích”, lúc Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “cúi mặt xuống, tay vân vê
tà áo đã rách bợt” dù đã mở lời gọi bà là “u”. Khi chập chững bước vào cuộc sống
của gia đình Tràng, lời thoại của nhân vật thị dường như ít đi, người đàn bà ấy
khơng cịn vồn vã, hồn nhiên như lần xuất hiện bên cửa nhà kho và đối đáp nhanh
nhảu với Tràng. Thị biết quan sát hơn, biết để ý mọi người xung quanh và biết lo
nghĩ cho những tháng ngày sắp tới. Với những biểu hiện đó, có lƒ cơ đã khiến
người đọc cũng có những sự thay đ‚i cái nhìn về mình: Thị nhếch nhác đấy, kh‚ sở
đấy nhưng vẫn là người ý tứ và hiểu chuyện.
Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao. Hay chính Kim Lân đã th‚i vào tâm
hồn thị niềm lạc quan ấy để thị vững lòng cho một cuộc sống ngày mai. Quả thật là
thị khơng tìm thấy ở Tràng một chút gì gọi là nương tựa về vật chất nhưng Tràng
13
chính là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất cho thị vào lúc này. Cuộc sống này xét
về tình nghĩa như thế cũng đáng để sống lắm chứ.
1.3. Phía sau sự chao chát, chỏng lỏn là người phụ nữ đúng mực.
Cảm nhận về vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt, ta thấy với những chi tiết mà
tác giả khắc họa về thị trong bu‚i sáng sau hôm về ra mắt, Kim Lân đã làm n‚i bật
ở thị vẻ đẹp của một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực đằng sau vẻ chao chát,
chỏng lỏn trước đây. Cô đã trở thành một người phụ nữ hoàn toàn khác khi trở
thành người vợ, người con dâu của gia đình.
Sáng hơm sau, thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Đến
đây, người đọc dễ nhận thấy: bao nhiêu vẻ “chỏng lỏn”, “sưng sỉa” của thị trước
kia không cịn nữa. Thay vào đó, chúng ta đã được cảm nhận vẻ đẹp rất nữ tính của
thị. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đủ đầy sự thay đ‚i tuyệt vời ấy “Tràng nom thị
hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực khơng cịn vẻ gì
chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu văn này đã ghi
lại cảm xúc chân thật của Tràng trước sự đ‚i thay tích cực của vợ. Cịn trong bữa
cơm ngày đói, dù cơ được ăn cháo cám, dù “hai con mắt thị tối lại” nhưng vẫn bình
thản rồi “điềm nhiên và vào miệng”. Phải chăng tình u đích thực với sức nhiệm
màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị? Hình ảnh thị dậy sớm, quét dọn nhà cửa,
nấu bữa sáng cho gia đình cùng với mẹ chồng và lúc nào cũng nói cười vui vẻ làm
cho gian nhà có sự thay đ‚i mới mẻ. Cảnh tượng đơn giản bình thường ấy đã khiến
ngơi nhà trở thành một mái ấm thật sự với cả ba con người. Từ một người bạo dạn,
suồng sã, Thị trở nên hiền dịu và nhẫn nhục. Trong bữa cơm đầu đón nàng dâu, dù
bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại
phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lịng. Thị đã làm cho khơng khí gia
đình ấm cúng, thân thương hơn bao giờ hết. Thị sẵn sàng ăn bát cháo khốn mà bà
cụ Tứ đưa cho.
Có lƒ, đó là cách mà người vợ nhặt thể hiện sự trân trọng của mình đối với tình
thương của Tràng và bà cụ Tứ. Khơng chỉ vậy, thị cịn cho thấy khả năng chấp
nhận và đồng hành cùng với gia đình mới của mình trong những tháng ngày khó
khăn. Với gia đình nhỏ của mình, thị đã có ý thức xây dựng để nó trở nên tốt đẹp
hơn, gắn bó hơn và có một tương lai tươi tắn hơn. Thị chính là ngọn gió mát lành
th‚i vào cuộc sống của gia đình Tràng, th‚i vào cả tâm hồn người đàn ơng phu xe
cục mịch, th‚i cả vào khuôn mặt “bủng beo u ám” của bà cụ Tứ để hôm nay trông
bà “rạng rỡ hẳn lên”. Thị đã đem sinh khí, thơng tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ
14
con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: "Trên mạn Thái
Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta cịn phá cả
kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Sự hiểu biết này của thị như đã
giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sƒ lựa chọn. Qua đó, ta cảm
thấy nhân vật vợ Tràng, "nàng dâu mới" cũng là “người truyền tin cách mạng”.
Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt, ta cũng thấy ở thời điểm trở
thành thành viên của gia đình Tràng, nhà văn đã trả lại tất cả những gì đẹp nhất cho
nhân vật. Khi đã có một gia đình, từ một người liều lĩnh, chanh chua, sắc nhọn,
người vợ nhặt ấy đã trở thành một người phụ nữ đúng mực với thiên chức vốn có.
2. Vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người đàn bà hàng chài
trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”
2.1. Người đàn bà v\ danh đ]i diện cho những người phụ nữ vùng
biển khi chiến tranh m_i đi qua.
Trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 đa phần có sự xuất hiện
các nhân vật nữ trong hồn cảnh khó khăn, vất vả làm n‚i bật lên tính cách cần cù
lam lũ, chịu thương chịu khó của họ, có thể kể đến mụ Huệ trong “phiên chợ giát”
là một “bà ké miền rừng” với sự gắn bó sâu nặng với cơng việc, với gia đình hay
như trong chợ tết hình ảnh của những người đàn bà khốn khó cũng được tác giả đặt
trong một khơng gian với những sự nhếch nhác, bẩn thỉu. Đặc biệt trong tác phẩm
chiếc thuyền ngoài xa tác giả đã dựng lên một bức tranh hết sức sinh động từ chiếc
thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ ấy bước ra một người đàn bà xấu xí mệt mỏi và
cam chịu, nhẫn nhục với những nét tinh tế nhà văn đã phác họa lên một hình ảnh
đầy sức gợi: người đàn bà trạc 40 mang một thân hình quen thuộc của những người
đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch, mụ mặt rỗ khuôn mặt
mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới tái ngắt dường như đang buồn ngủ. Đây
là một người phụ nữ mang ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên
đầy nhọc nhằn, kh‚ sở và đầy thương cảm, người đàn bà ấy tiếp tục ám ảnh người
đọc bằng chi tiết “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nữa thân dưới ướt sũng” đã phần
nào gợi lên sự chua xót khốn cùng của một thân phận con người. Có thể thấy rằng
giữa cảnh biển mênh mông lại suất hiện một con người khiến người khác phải trằn
trọc suy nghĩ như thế. Người đàn bà ấy còn đầy vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi bị
người chồng hành hạ. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nỗi ám
15
ảnh cho đến khi gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai ốn
cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con của mình. Cuộc đời chị đầy đau
thương và nước mắt nhưng trong chị vẫn toát lên vẻ đẹp đầy trân quý đại diện cho
những người phụ nữ vùng biển sau chiến tranh nói riêng và người phụ nữ Việt
Nam nói chung.
2.2. Người đàn bà hàng chài có một cuộc đời đay đau khổ.
Vẻ lam lũ, cơ cực của người phụ nữ này toát lên ngay từ dáng vẻ bên ngồi. Có
thể thấy đây là một sự thay đ‚i trong cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Minh
Châu trước những năm 1975 trong truyện ngắn “Mảnh trăng cuối rừng” tác giả đã
miêu tả nhân vật trung tâm là Nguyệt có một vẻ đẹp giản dị mát mẻ như sương núi
mặc chiếc áo xanh chít hồng vừa khít. Mái tóc dày tết thành hai dải đơi gót chân
hồng hồng, khn mặt lộng lẫy đầy ánh trăng tức là Nguyễn Minh Châu đã không
cách khắc họa nhân vật bằng cảm ứng trữ tình lãng mạn cịn sau năm 1975 nhân
vật của ông đã trở lại với tất cả những gì thơ ráp, dung dị, đời thường.
Người đàn bà trạc 40 tu‚i cao lớn với những đường nét thô kệch “mụ rỗ mặt,
khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang
buồn ngủ. Tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng.
Cuộc đời vật chất thiếu thốn đó thể hiện qua việc cả gia đình trên dưới 10 đứa
con trên chúc nhau trong một cái thuyền chật chội, có thời điểm biển động suốt cả
tháng cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối.
Theo người đàn bà chồng chị vì kh‚ quá mà trở nên vũ phu, đánh đập vợ con.
Chính vì kh‚ cho nên niềm vui lớn nhất của người phụ nữ này thật tội nghiệp: “vui
nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tơi nó được ăn no.”
Chị bị hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần, chị thường xuyên bị chồng đánh đập
tàn bạo: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, chiếc thắt lưng trong tay
lão chồng vũ phu quật tới tấp vào lưng của người đàn bà. Nhưng nỗi đau lớn nhất
của chị là nỗi đau tinh thần, chị bị chồng nguyền rủa, đánh đập, hành hạ ngay trước
mặt những đứa con và chứng kiến các con mình bị t‚n thương từ hành vi của người
bố gây ra. Khi thằng Phác xông ra để bảo vệ mẹ và bị bố giáng cho hai cái tát
người đàn bà lúc này mới cảm thấy đau đớn và vô cùng xấu h‚, nhục nhã chị mếu
máo gọi con rồi ơm chầm lấy nó nhưng sự im lặng của thằng bé như một viên đạn
xuyên qua tim của người đàn bà.
16
2.3. Người đàn bà cam chbu nhcn nhục.
Khi người đàn bà bị chồng đánh đập thì đã khơng hề kêu có một tiếng, khơng
chống trả, cũng khơng tìm cách chạy trốn chị chấp nhận đòn roi như một phần
trong cuộc đời của mình giống như việc người đi biển phải đương đầu với gió to
sóng lớn.
Chị chia sẻ cùng chồng gánh nặng mưu sinh bằng cách chia tấm lưng ra chịu
những trận đòn hiểu rằng ấy là một cách giải tỏa những ấm ức cuộc sống chị chắt
chiu cho mình và con những khoảnh khắc hạnh phúc hiếm hoi quý giá. Chị biết giữ
gìn cho con tâm hồn hướng thiện bằng cách xin chồng đưa mình lên bờ đến quãng
vắng mà đánh. Chị giữ lại cho con một gia đình trọn vẹn, một người cha gánh vác
bằng lời cầu xin thống thiết “đừng bắt con bỏ nó”. Rõ ràng đằng sau cái vẻ xù xì,
thơ mộc ấy là những vẻ đẹp bất ngờ của con người, như một niềm tin Nguyễn
Minh Châu vào con người và cuộc đời, chính đức tính thuỷ chung ấy là bến đỗ
bình n cho biết bao gia đình tạo nên một nét đặc trưng của cuộc sống và tâm hồn
người Việt.
Nhưng sự nhẫn nhục của người đàn bà vừa có nét đáng trách bởi nhẫn nhục
triền miên tới phi lí với những trận địn " ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận
nặng", bất kể lúc nào "thấy kh‚ quá là lão xách tôi ra đánh.... lão đánh tôi như đàn
ông thuyền khác say rượu". Chị hiểu nỗi kh‚ sở của chồng nhưng coi việc đánh vợ
như một nỗi giái tỏa đau kh‚, bức bối bế tắc, khơng ân hận thì lại là điều không
chấp nhận được, sự nhẫn nhục của chị đã nuôi dưỡng thói vũ phu độc ác của
chồng, tiếp tay cho ông chồng đầu độc cuộc sống gia đình, cướp đi niềm tin hạnh
phúc của những đứa con. Không những thế mà nó làm cuộc sống của chị, của con
thêm đau kh‚, làm tha hóa con người: chồng đánh vợ triền miên, con thì địi giết
bố để giải thốt cho mẹ...Có thể thấy được rằng người đàn bà ấy thật mạnh mƒ
nhưng chấp nhận số phận, bị lệ thuộc, chấp nhận cuộc đời bị hành hạ, sắc sảo, hiểu
đời nhưng chưa thật sự có ý thức về giá trị sống, quyền sống, hiểu rõ bi kịch gia
đình nhưng cam chịu và không phản ứng.
Người đàn bà hàng chài mang những nét phẩm chất đáng quý nhưng trong sự
chịu đựng nhẫn nhục lại vừa mang nét thương cảm nhưng cũng có những điều
đáng trách cho người đọc. Nhưng cái trách ấy vì thương mà ra, trách mà thấy xót
xa, thương cảm cho cuộc sống và thân phận người đàn bà hơn, chị đáng ra phải
được sống một cuộc đời hạnh phúc, đủ đầy.
17
2.4. Người đàn bà sâu sắc thấu hiểu ld đời.
Người đàn bà đã xuất hiện ở tòa án huyện theo lời mời của chánh án Đẩu, anh
đã khuyên thậm chí đề nghị chị ta bỏ người chồng vũ phu “cả nước khơng có một
người chồng nào như hắn chị khơng sống n‚i với cái cái lão đàn ông vũ phu ấy
đâu.”
Nhưng thật bất ngờ người đàn bà chấp tay vái lia lịa một mực van xin được tiếp
tục sống với kẻ thường xun hành hạ mình:
-Con lạy q tịa…
- Sao, sao?
- Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…
Người đàn bà đã kể lại câu chuyện cuộc đời mình trong đó chị đưa ra những lý
do để giải thích vì sao chị nhất quyết không bỏ chồng, những người đàn bà ở
thuyền cần có một người đàn ơng để chèo chống khi phong ba, chị cần chồng để
cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa và chị
nghĩ vẫn có thể hàn gắn được gia đình này là vì ở trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ
chồng con cái chúng tơi sống hịa thuận, vui vẻ. Vẻ bề ngoài khúm núm, sợ sệt,
điệu bộ khác, ngôn ngữ khác đã làm cho cả Đẩu và Phùng hết sức ngạc nhiên.
Người đàn bà hàng chài kia khơng hề giản đơn như Đẩu và Phùng nghĩ. Thì ra, cái
nghề chài lưới trên một chiếc thuyền vó bè lênh đênhh không thể thiếu bàn tay và
sức lực của người đàn ơng. Để duy trì sự tồn tại cho cả gia đình thì họ phải hợp sức
lại mà làm quần quật để nuôi một đàn con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Tình
cảnh của người đàn bà hàng chài kia cũng như của bao gia đình hàng chài khác, trừ
phi chị nói “giá tơi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”.
Trước khi nghe câu chuyện của người đàn bà đầu cương quyết khun chị ta ly
hơn để khỏi bị ngược đãi, có lƒ anh tin rằng giải pháp của mình là đúng đắn nhưng
sau khi nghe câu chuyện mọi lí lƒ của anh đều bị người đàn bà lam lũ bác bỏ, chị
đã khiến một cái gì vừa mới vỡ ra trong đầu bị bao công của cái phố huyện vùng
biển lúc này trong đầu rất nghiêm nghị và đầy suy nghĩ. Cịn Phùng lúc đầu cũng
khơng thể nào hiểu n‚i thái độ của người đàn bà khi bị chồng đánh và khi kiên
quyết không bỏ chồng, nghe chị ta van xin Phùng cảm thấy căn phịng lộng lộng
lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết khơng khí trở nên ngột ngạt xong cũng
như Đẩu nghe người đàn bà kể chuyện Phùng đã dành thấu hiểu và cảm thông cho
một kiếp người, một số phận đầy bi ai “Cả đời chị có một lúc nào thật vui khơng?”
người đàn bà nhìn bề ngồi có vẻ ngờ nghệch nhu nhược là thế nhưng qua câu
18
chuyện của chị ta mới hiểu đằng sau vẻ ngoài đó là sự sâu sắc thấu hiểu lƒ đời chị
đã khiến cho Đẩu và Phùng ngộ ra những điều mà trước đây họ cịn chưa hiểu hết
đó là trong cuộc sống nhiều khi phải chấp nhận những nghịch lý rằng muốn con
người thoát khỏi cảnh tăm tối, đau kh‚ cần có những giải pháp thiết thực chứ
khơng phải chỉ bằng thiện chí hay bằng những lý thuyết đẹp đƒ nhưng xa vời với
thực tiễn từ đây tác giả chuyển đi thơng điệp cuộc sống chính là mảnh đất màu mỡ
mà con người cần phải khai phá những người dân lao động nghèo kh‚ là đối tượng
trung tâm cần phải quan tâm bảo vệ pháp luật cũng như nghệ thuật phải gắn với
đời sống thực tế của con người.
Trong khi đường lối của Đảng trước và sau cách mạng luôn hướng tới bảo vệ
nhân quyền cho mọi người, giúp cho nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh
phúc. Thế nhưng, tại nơi đây những con người lênh đênh trên bốn bể là nước, họ
vẫn chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh,
thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho một người
phụ nữ.
2.5. Bao dung độ lượng v_i chgng.
Mặc dù chịu nhiều đau kh‚ đau, bất hạnh nhưng ở người phụ nữ này ln tốt
lên vẻ đẹp của lòng vị tha giàu đức hy sinh chị cũng hiểu và thơng cảm cho chồng
của mình, chị khơng hề ốn trách mà ngược lại chị rất thơng cảm và vị tha chị hiểu
nỗi khốn kh‚, bế tắc của chồng chỉ vì cuộc sống cơ cực nên chồng chị mới sinh ra
thói vũ phu. Như vậy có thể nói chị là một người phụ nữ từng trải và hiểu biết lƒ
đời “ông trời sinh ra đàn bà là để đẻ con và nuôi con khôn lớn”, chị hiểu cuộc sống
trên thuyền cần phải có một người đàn ơng mạnh mƒ và biết nghề, cần có một chỗ
dựa vững chắc trong cuộc sống mưu sinh vất vả vì vậy chị ln sẵn sàng hy sinh
bản thân mình vì chồng con. Chị đã cảm ơn Phùng và chánh án Đẩu về lời khun
của hai người nhưng chị đã nói lịng các chú tốt nhưng các chú đâu phải là người
làm ăn cho nên các chú đâu có thể hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó
nhọc. Có thể thấy thấp thống trong bóng dáng người đàn bà ấy là bóng dáng của
người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.
Trong mắt mọi người chồng chị là một kẻ vũ phu, ích kỉ, tàn nhẫn và đáng lên
án nhưng trong mắt người đàn bà chồng chị chỉ là một nạn nhân của hồn cảnh bởi
trước đây chồng chị cục tính nhưng hiền lành lắm, chỉ vì nghèo kh‚, túng quẫn quá
mà trở nên độc ác, “cái lỗi chính là đám đàn bà trên thuyền đẻ nhiều quá mà
thuyền lại chật.”
19
Qua hình ảnh người đàn bà trong truyện chúng ta thấy người phụ nữ Việt Nam
vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Á Đông. Dù vẻ ngồi
khơng đẹp nhưng bên trong ln có những phẩm chất cao q. Ln nghĩ tới gia
đình, hạnh phúc nhỏ của mình, sẵn sàng hi sinh mọi thứ để giữ gìn, chăm sóc gia
đình, hạnh phúc đó chính là con cái của mẹ. Người phụ nữ mang một lòng vị tha
cao cả, những khác biệt của người phụ nữ làng chài, phụ nữ ngày nay đã dần trở
nên năng động, làm chủ cuộc sống, làm chủ được kinh tế hơn.
2.6. Tình yiu thương con v\ bờ bến.
Nhìn bề ngồi người đàn bà quá nhẫn nhục, cam chịu nhưng qua những lời dãi
bày thật tình của chị ta mới hiểu nguồn gốc của mọi sự chịu đựng hy sinh ấy là vì
tình thương vơ bờ bến đối với những đứa con “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống
cho con chứ khơng thể sống cho mình” chị xin chồng đưa mình lên bờ để đánh vì
khơng muốn các con bị t‚n thương chị cảm thấy đau đớn khi thấy con vì bênh vực
mẹ mà đánh lại cha. Trong đau kh‚ triền miên người đàn bà ấy vẫn chắt chiu
những nguồn cảm xúc nhỏ nhoi “vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tơi chúng nó
được ăn no” chị hiển nhiên hiểu “thiên chức của người phụ nữ ông trời sinh ra
người đàn bà là để đẻ con rồi nuôi con đến lúc khôn lớn.
Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thốt, người đàn bà
đau kh‚ ấy vẫn lặng lƒ và cam tâm chịu đựng đau kh‚? Là vì điều gì? Chẳng phải
vì đức hy sinh của người mẹ đó sao lời tâm tình của người đàn bà với cuộc sống
với người chồng và những đứa con khiến cho người khác vừa thương xót, vừa
khâm phục một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược
đãi, người đàn bà vẫn yêu con thương con vơ điều kiện khơng địi hỏi bất cứ điều
gì. Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là được ngồi nhìn đàn con tơi chúng nó được
ăn no” thì chắc hẳn người đọc khơng cầm được nước mắt. Những đứa con là sức
mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người
mẹ lặng lƒ hy sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục
tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con, một người mẹ nghèo cố chấp nhưng yêu
thương con vô bờ bến. Cuộc đời của chị nhiều đau thương và nước mắt nhưng lại
có biết bao nhiêu phẩm chất cao đẹp đáng trân trọng. Ở đây nhà văn đã nhận ra
một điều rất sâu sắc trong tình thương vơ tận và đầy hy sinh, người phụ nữ đối với
con người hình như bao giờ cũng chứa đựng cả tình mẫu tử thiêng liêng.
20
Làm sao có thể thấy chị hiểu và thương chồng, một người phụ nữ có tấm lịng
vị tha, rộng lượng như vậy nếu không chứng kiến, nghe những lời kể từ tận đáy
lịng của chị. Vì cuộc đời các con của mình, một người mẹ giàu lịng u thương,
một người vợ thủy chung, son sắc, nhân hậu chấp nhận chịu đựng cuộc sống khơng
hạnh phúc, chịu địn roi từ người chồng và hơn thế nữa. Chị chấp nhận mình kh‚
cực nhưng khơng để các con mình phải thiếu cha, thiếu ăn.
Từ thân phận người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu muốn gợi ra cho
người đọc những suy nghĩ âu lo: cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo tăm tối và bạo
lực còn gian nan lâu dài hơn cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Và chừng nào cịn
chưa thốt khỏi cuộc sống đói nghèo chừng đó con người vẫn phải chung sống với
cái xấu, cái ác. Chúng ta đã đ‚ xương máu trong bao năm qua để giành được độc
lập tự do trong cuộc chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc.
Nhưng chúng ta sƒ còn phải tiếp tục làm gì đây trong cuộc chiến đấu giành
quyền sống của từng con người, làm gì để đem lại cơm ăn áo mặc và ánh sáng văn
hóa cho biết bao con người đang đắm chìm trong kiếp sống đói nghèo u tối.
Người đàn bà ấy đã để lại một ấn tượng sâu sắc để nhiều năm sau tồn tại, khi
nhìn lại bức ảnh “Chiếc thuyền ngoài xa" bây giờ nghệ sĩ Phùng cũng thấy người
đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh… hịa lẫn với đám đơng. Đó là hình ảnh của những
con người vô danh khốn kh‚ trong cuộc sống lầm lũi đời thường. Họ đã kiên
cường vượt lên tất cả, khơng phải vì mình mà là vì những người thân yêu. Qua
những nét khắc họa ấn tượng từ ngoại hình dáng vẻ đến cử chỉ, lời nói, hành
động… nhân vật người đàn bà hàng chài đã trở thành một biểu tượng đầy ám ảnh
giúp Nguyễn Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc cho truyện ngắn. Đó
là niềm cảm thương và nỗi lo âu cho số phận con người bất hạnh bị cầm tù trong
đói nghèo, khốn kh‚, bạo lực. Đồng thời thể hiện niềm tin yêu trân trọng những
phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn, tính cách những con người ln sống cuộc sống
lịng người nhân hậu, vị tha.
21
3. Đặc sắc nghệ thuật trong hình tượng các nhân vật
3.1. Nhân vật “thb” trong “Vợ nhặt”
Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không tập
trung miêu tả tâm lý nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của thị, một
người vợ nhặt (khác với nhân vật Tràng được miêu tả tâm lý hết sức tỉ mỉ).
Tác giả lại chú trọng khắc hoạ hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người
đọc tự hiểu tâm trạng của người phụ nữ. Chẳng hạn, chi tiết thị lấy nón che mặt
diễn tả tâm trạng xấu h‚ vì biết mình là người phụ nữ theo không về nhà chồng;
hoặc thị nén một tiếng thở dài khi đảo mắt nhìn chung quanh căn nhà của Tràng;
hay chi tiết thị đón lấy bát cháo cám, đưa mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại rồi điềm
nhiên và vào miệng là thái độ chấp nhận số phận khi đến bước đường cùng…
Nhiều chi tiết nho nhỏ, vụn vặt như thế nhưng đã nói được khá rõ về tâm tư, tình
cảm của một con người.
Cái độc đáo hấp dẫn của tình huống mà Kim Lân tạo cho Vợ nhặt là một anh
dân nghèo xấu xí ế vợ lại "nhặt" được vợ một cách dễ dàng ngay giữa năm đói
khủng khiếp nhất chỉ bằng mấy bát bánh đúc riêu cua, một vài câu đùa ỡm ờ mà có
vợ theo về. Một tình huống như vậy vừa rất éo le, vừa lạ, vừa khó tin, nhưng lại rất
thật và gợi lên nhiều ý nghĩa sâu xa về con người và số phận con người.
Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn đã gián tiếp tố cáo một xã hội đã đẩy con
người đến sự rẻ rúng, tha hố về nhân phẩm chẳng qua vì sự đói khát. Thế nhưng,
trong cảnh ngộ của mình bi đát, con người vẫn luôn vươn tới sự sống, hướng tới
tương lai và ở một hoàn cảnh nhân đạo hơn, phẩm giá con người đã sống dậy.
Nhân vật vợ nhặt nắm giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm n‚i bật chủ đề tư
tưởng của tác phẩm đồng thời có vai trị quyết định trong việc hình thành nên tình
huống truyện. Trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp
vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.
22
3.2. Nhân vật “người đàn bà” trong “Chiếc thuyền ngoài xa”
Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo: Tác giả đã dựng nên tình
huống nghịch lí giữa hình ảnh của con thuyền khi ở ngoài xa với con thuyền lúc
đến gần để tạo ra tình huống nhận thức cho nhân vật của mình, cũng là cho người
đọc. Cách khắc họa nhân vật, cốt truyện hấp dẫn kết hợp với ngơn ngữ sử dụng rất
linh hoạt, sáng tạo góp phần làm n‚i bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm Giọng điệu:
chiêm nghiệm, suy tư, trăn trở phù hợp với tình huống nhận thức. Đồng thời cũng
làm nên nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người đàn bà”, có lƒ khơng
phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta cịn bắt gặp rất nhiều
người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển xinh đẹp nào. Nguyễn Minh
Châu đã vƒ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn
trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh mà
nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là
triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Tấm lưng bạc
phếch, ướt sũng của người đàn bà này có lƒ cịn ám ảnh rất nhiều người nữa. Người
đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng
cái tâm để vƒ lên hình ảnh đó.
23
CHƯƠNG III: So sánh sự giống và khác nhau giữa
nhân vật “thị” và người đàn bà hàng chài
1. Điểm tương đồng
Cả hai nhân vật đều là những thân phận bé nhỏ, nạn nhân của hoàn cảnh.
Những vẻ đẹp đáng trân trọng của họ đều bị đời sống cơ cực lam lũ làm khuất lấp.
Viết về hai người đàn bà trong hai bối cảnh khác nhau nhưng các nhà văn đều
dồn tâm sức khai phá vẻ đẹp tiềm ẩn, khó thấy, khuất lấp của người phụ nữ bên
cạnh số phận đau kh‚, cảnh sống khốn cùng. Người vợ nhặt hay người đàn bà hàng
chài đều là những nhân vật không tên tu‚i, xuất hiện với vẻ ngồi xấu xí, rách rưới,
thơ kệch nhưng lại trở thành những khái quát nghệ thuật đặc sắc. Họ đều là những
người phụ nữ giàu tình yêu thương, giàu ơn nghĩa, biết ơn những người đã cưu
mang cuộc đời của mình. Hai người phụ nữ đều rất coi trọng t‚ ấm của mình, cố
gắng vun vén cho hạnh phúc gia đình mình, họ mang những vẻ đẹp truyền thống
của người phụ nữ Việt Nam. Khám phá vẻ đẹp của người phụ nữ, cả hai nhà văn
đều thể hiện niềm tin vào phẩm chất của con người dù trong hoàn cảnh khốn cùng
nhất.
2. Sự khác biệt
Đặt nhân vật trong bối cảnh nạn đói nên tâm điểm nghệ thuật của Kim Lân là
khát vọng sống mãnh liệt, là những căn tích tốt đẹp bây lâu bị cái đói làm cho chìm
khuất. Nguyễn Minh Châu lại xây dựng hình tượng người đàn bà trong bối cảnh xã
hội sau năm 1975, khi chiến tranh đã đi qua nhưng cái nghèo, cái lạc hậu vẫn chưa
hết, vì vậy nhân vật của ông được khám phá ở vẻ đẹp của nhận thức của sự thấu
trải lƒ đời, tình người.
Ở người vợ nhặt, ta thấy được khát vọng mái ấm mãnh liệt, muốn tìm một điểm
tựa tình yêu thương để vượt qua nạn đói khủng khiếp. Người vợ nhặt có sự thay
đ‚i rõ rệt sau khi trở thành vợ Tràng, đó là từ một người chao chác, chỏng lỏn cô
đã trở nên hiền hậu dúng mực. Từ đó, tác giả khẳng định mái ấm gia đình đã trả lại
24
người phụ nữ về với vẻ đẹp nữ tính vốn có,mang vẻ đẹp nhân cách của người phụ
nữ trong gia đình
Cịn ở người đàn bà hàng chài, chị hướng đến mái ấm gia đình, muốn duy trì
một gia đình trọn vẹn vì con vì cái. Người đàn bà hàng chài chủ yếu được nhấn
mạnh qua tình cảm yêu thương giữa chồng và con, con là lƒ sống cao nhất của
người mẹ. Tác giả nhấn mạnh sự hi sinh, vị tha của người mẹ nghèo kh‚, bất hạnh,
sẵn sàng nhận về mình mọi thiệt thịi vì con
3. Lí giải sự khác biệt giữa người vợ nhặt và người đàn bà
làng chài.
Sự khác biệt ở hai nhân vật này có thể là do hoàn cảnh ra đời của hai tác phẩm
quá cách xa nhau, trong khi tác phẩm “Vợ nhặt” được viết từ năm 1954, in trong
tập truyện “Con chó xấu xí” (1962), lấy bối cảnh hiện thực là nạn đói khủng khiếp
mùa xuân năm Ất Dậu 1945 làm n‚i bật chủ đề khát khao sống mãnh liệt, khát
khao hạnh phúc đời thường thì tác phẩm “Chiếc thuyển ngồi xa” vào năm 1983 –
thập kỉ 80 của thế kỉ 20 khi đất nước đang diễn ra công cuộc đ‚i mới với chủ đề về
nghệ thuật, nghệ thuật chân chính phải ln ln gắn với cuộc đời và và cuộc đời
người nghệ sĩ khơng thể nhìn đời một cách đơn giản, cần phải nhìn nhận cuộc sống
và con người một cách đa diện, nhiều chiều.Một bên ra đời trong ngày đói cịn một
bên ra đời trong ngày sống, hai hoàn cảnh sáng tác của hai tác phẩm đối lập hoàn
toàn. Hai nhà văn hai tác phẩm với hai tư tưởng, chủ đề, khuynh hướng sáng tác
riêng, phù hợp với xu hướng của thời đại bởi “nhà văn là nhà thư kí trung thành
của thời đại”. Văn học là địa hạt của sự sáng tạo, nhà văn không muốn lặp lại ý
tưởng của người khác mà muốn ghi lại dấu ấn riêng của bản thân trong lòng người
đọc
25