Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tài liệu Nền kinh tế thương hiệu - Brand Economy ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.07 KB, 17 trang )

Nền kinh tế thương hiệu - Brand Economy
Kinh tế thương hiệu là một thực tế, đã hình thành trong những phân
khúc của hậu tư bản. Thương hiệu Apple đang nhanh chóng trở
thành một thế lực kinh tế mạnh mẽ nhất nước Mỹ, sánh ngang với
Exxon, Microsoft và Wal-mart.

Trong khi khái niệm kinh tế tri thức còn khá mơ hồ thì thương hiệu đã trở
thành một thế lực kinh tế mạnh mẽ. Thương hiệu - Brand (1) là khái niệm
mới của kinh tế học và marketing chứ không phải chỉ là khái niệm trade-
mark (nhãn hiệu hàng hoá). Về bản chất thì thương hiệu đã hình thành
bằng những dạng thức sơ khai song song với khái niệm sản phẩm hàng
hoá.

Tuy nhiên chỉ cho đến cuối thế kỷ 20 thì brand là chiến lược tạo sự thành
công vượt bậc và bền vững của các tập đoàn đa quốc gia và càng ngày
càng trở thành một thế lực kinh tế, hình thành một khái niệm mới cần phải
được công nhận rộng rãi (hoặc ngược lại cần được giữ như một bí quyết),
đó là nền kinh tế thương hiệu.
Simon Anholt đã chỉ ra số liệu thống kê từ Interbrand rằng chỉ riêng giá trị
100 thương hiệu dẫn đầu toàn cầu đã lên đến gần 1000tỷ USD, đồng thời
ước tính tổng giá trị thương hiệu hiện nay đã chiếm gần 1/3 giá trị của nền
kinh tế toàn cầu. Có thể khi nhìn vào những con số trên đây nhiều quý vị
sẽ ngạc nhiên, nhưng đó là sự thật.
Cho dù bản chất thương hiệu là tự nhiên, là sự tất yếu trong quá trình tiến
hoá của loài người (2). Nhưng các nước tư bản trong suốt thế kỷ 20 đã đi
tiên phong trong việc áp dụng thương hiệu ngay sau các quá trình hình
thành tư bản (Ford, P&G, Unilever, Coca-Cola và SONY).
Sự nhìn nhận và áp dụng thương hiệu ban đầu chỉ nhằm mục đích gia tăng
lợi nhuận, thậm chí cho đến bây giờ vẫn có khá đông và họ là những
người căm ghét Simon Anholt (3) vẫn chỉ sử dụng thương hiệu để tạo ra
lợi nhuận cục bộ càng nhiều càng tốt, nhưng một nửa thành phần tư bản


kia thì đang hướng đến những lợi ích kinh tế bền vững hơn, hay thậm chí
hướng đến những giá trị tất yếu, như chính bản chất của thương hiệu, đó
là tính nhân văn, sự an toàn cho con người, và hài hoà trong một thế giới
đa cực (trong đó có Heineken, HSBC, BP…).
Thương hiệu sống tốt nhất trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh
theo những khía cạnh tích cực và tinh thần tốt của toàn cầu hoá. Tuy nhiên
sự khắc nghiệt của cạnh tranh đó là những doanh nghiệp, cá nhân hay
quốc gia biết tận dụng vai trò và sức mạnh của thương hiệu thì sẽ vượt lên
trên và đứng vào hàng ngũ tạm gọi là văn minh.
Người Nhật đã nắm bắt thương hiệu chỉ trong 10 năm sau thế chiến thứ 2;
người Hàn Quốc nhanh chóng vận hành cả một chiến lược thương hiệu
tổng lực trong những thập niên gần đây; người Singapore thấy rõ sức
mạnh của thương hiệu và gần đây chuyển dịch nền kinh tế đột phá sang
các giá trị mềm; Người Việt Nam đã và đang nắm bắt bản chất và lợi thế
cạnh tranh từ thương hiệu đó là VERA, Trung Nguyên, Kymdan, Vinamilk,
Number 1… nhưng liệu chúng ta đã thực sự hiểu rõ về thương hiệu chưa?
Xin đơn cử một thực tế chương trình Vietnam Value loay hoay trong 5 năm
vẫn chưa có một chiến lược cơ bản; Tập đoàn Dầu khí mặc dù đã ban
hành
Quy chế Thương hiệu Tập đoàn như một bước tiên phong về quản trị
thương hiệu cũng như xác lập mô hình quản trị tập đoàn, nhưng vẫn chưa
giải quyết được chiến lược cơ cấu thương hiệu và nhìn nhận hết cả các
thực thể thương hiệu để từ đó mới có thể hoạch định chiến lược.
Nền kinh tế thương hiệu trước tiên có thể nhìn thấy một cách tương đối
trực quan nhất khi lượng giá tất cả các thương hiệu đang hiện hữu. Tuy
nhiên đó chỉ là phần khởi đầu của cả một chuỗi giá trị mới. Dưới góc độ
chuyên môn thương hiệu được xem là hình thành không phải từ khi có
trade-mark mặc dù trade-mark là điều bắt buộc xét trên thông lệ và các quy
ước quốc tế ngày nay, mà thương hiệu được xem là hình thành từ khi có
Equity (giá trị thương hiệu, giá trị bản sắc thương hiệu).

Một sản phẩm có gắn mác (product + trade-mark) chưa chắc đã là một
thương hiệu. Trong rất nhiều bài tham luận (và bài giảng, giáo trình) tác giả
thường sử dụng công thức định nghĩa thương hiệu như sau:
Product + Trade-mark + Customers = Brand (Thương hiệu)
Vậy thì theo ngôn ngữ thông thường có thể nói rằng "đỉnh cao của sản
phẩm chính là thương hiệu" hoặc "thương hiệu là một sản phẩm đỉnh cao";
thương hiệu xác lập một dạng thức tiến hoá mới của loài người, nó thể
hiện cao nhất ý nghĩa không chỉ nói rằng con người là một động vật bậc
cao, mà là một động vật xã hội (social animal).
Xuất phát từ những cơ sở lý luận căn bản về bản chất của nhu cầu theo
thuyết của Abraham Maslow, được hoàn thiện bởi những mô hình
marketing rất hàm xúc như 4P (marketing mix), Phân khúc & Định vị, Vòng
đời Sản phẩm… cho đến những công cụ quản trị thương hiệu phần nhiều
vẫn mang tính bí quyết trong giới quản trị thương hiệu (brand manager)
như above-the-line & below-the-line (tiếp thị trên ngạch-dưới ngạch); mô
hình Kéo và Đẩy; PR; intdgrated marketing communication (truyền thông
tổng lực); lý tính & cảm tính… hàng loạt các công cụ quản trị và sáng tạo
thương hiệu như 360 Độ, Innovation Funnel, Brand Key, Brand Health
Monitoring (chuẩn đoán sức khoẻ thương hiệu) (4)… đã giúp thương hiệu
trở thành một ngành khoa học bậc cao với những phạm trù như Triết lý
Thương hiệu, Thương hiệu Quốc gia, Tiếp thị Xã hội… và ngành nghiên
cứu thương hiệu hoàn toàn không còn mang yếu tố cảm tính và dần dần
trở thành một ngành học mang nhiều yếu tố định lượng, ngay cả trong việc
xác lập và quản trị hình ảnh thương hiệu.
Sau khi đã xác lập giá trị (brand equity), một thương hiệu chính thức trở
thành một thế lực kinh tế. Đó có thể là James Bond, Heineken hay là Paris
Hilton. Khái niệm sản phẩm được đề cập sau đó vì Sản phẩm bây giờ chỉ
được xem là một phương tiện để thoả mãn nhu cầu (5).
Thế lực kinh tế này, thương hiệu, bắt đầu cho sự khởi động chuỗi giá trị
mới được hình thành và chỉ có thể được hình thành từ giá trị thương hiệu

(brand equity), mà theo đúc kết ban đầu từ những động thái kinh tế học
sau đây:
 Đầu tư bằng giá trị thương hiệu
 Cho thuê, nhượng quyền thương hiệu
 Thương hiệu mở rộng sản phẩm mới
 Thương hiệu con người
 Mở rộng thị trường hay chuỗi phân phối
 Sáng tạo những lợi ích và giá trị mới
 Chi phối những phân khúc kinh tế khác
 Kinh doanh bằng thương hiệu
Năm 2010 Budweiser đang làm gì?
Công việc sản xuất ra bia ngon chắc chắn là không có gì mới mẻ. Công
việc của Budweiser trong năm 2010 đó là chinh phục hàng tỷ khán giả
(khách hàng, hoặc những người thân của khách hàng, đại loại như thế)
thông qua World Cup Bóng Đá.
Xét về mặt kinh tế điều này có ý nghĩa gì?
Budweiser sẽ thu hút và gây cảm tình với hàng trăm triệu người mới, và
một phần nhất định (hàng chục triệu người) trong số đó sẽ uống thử một
chai Budweiser xem sao, thậm chí nếu có khuyến mãi vé đi Nam Phi thì số
lượng "bị lôi kéo" sẽ cao hơn. Đó chính là những động thái kinh tế được lý
giải chính xác nhất dưới giác độ Kinh tế Thương hiệu.
Riêng quồng máy kinh tế để vận hành chương trình tài trợ Budweiser -
World Cup sẽ có doanh số lên đến hàng trăm triệu USD và sẽ diễn ra tại
hàng trăm quốc gia trên thế giới có cả Việt Nam (do tập đoàn Gannon là
đại diện). Không những thế động thái cạnh tranh sẽ đối ứng bởi Heineken,
Carlsberg, Tiger, Tsingdao, Miller… với những đối sách có doanh số cũng
không dưới hàng trăm triệu USD trên toàn cầu nhằm mục đích thu hút
khách hàng về phiá mình không bị giành mất bởi Budweiser cho dù là chỉ
trong một tháng thôi.
Thương hiệu con người?

Paris Hilton hiện sở hữu tài sản trị giá hàng trăm triệu USD chủ yếu từ
chiến lược đánh bóng thương hiệu cá nhân của mình để khai thác gắn
nhãn qua nhượng quyền. Mặc dù tình huống thương hiệu này khá nhạy
cảm trong con mắt của những người đứng đắn, nhưng tình huống và cách
thức và Barak Obama xây dựng thành công hình ảnh cá nhân của mình và
biết sử dụng những kênh truyền thông mới và nhất là thông qua mạng xã
hội để tiếp cận với công chúng thì không thể không xét mằt một quan điểm
nghiêm túc và chuyên nghiệp hơn.
Đầu tư bằng giá trị thương hiệu?

Thực tế tại Việt Nam trong những năm trước đây khi định giá doanh nghiệp
và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã xảy ra một tình trạng thất thoát
tài sản do doanh nghiệp bị định giá thấp trước khi cổ phẩn hoá, mà phần
quan trọng bị bỏ qua đó chính là tài sản thương hiệu.
Việc đầu tư bằng tài sản thương hiệu do vậy cần được nghiên cứu nghiêm
túc hơn và đây cũng là mấu chốt để xác lập phân khúc kinh tế thương hiệu
dưới góc độ chuyên môn.
Trong việc hoạch định những chiến lược trung hạn và dài hạn, các nhà đầu
tư khôn ngoan đã lợi dụng tư thế "sở hữu thương hiệu" để vạch ra những
kịch bản mà phiá liên doanh Việt Nam (trong thập niên 90) đã không lường
trước, diễn biến thực tế là phiá nhà đầu tư nước ngoài thực thi kịch bản lỗ
liên tiếp thông qua việc nâng cao chi phí xây dựng thương hiệu cho chính
họ. Khi đó mục tiêu đầu tư thương hiệu đã được hoàn thành.
Những kinh nghiệm đó rất cần các doanh nghiệp và các nhà hoạch định
chính sách, kể cả các quý vị trong giới tài chính, nhận rõ và đánh giá đúng
vai trò của thương hiệu kể cả việc xem xét lại những phương pháp khi bỏ
qua những vai trò quan trọng của thương hiệu trong một liên doanh, hay
trong một chính sách quản lý tài chính có sự hiện hữu của một hình thức
giá trị thương hiệu.
I-Phone đã làm gì?

Xin thưa rằng quý vị hẳn đã biết đột phá công nghệ thân thiện của giao
diện I-phone vì điều đó ai cũng biết. Nhưng những ý tưởng mới trong việc
lôi kéo và thu hút khách hàng trung thành thông qua những chính sách hợp
đồng thuê bao dài hạn (cái này T-mobile cũng làm rất tốt) mới là chiêu thức
marketing thuần tuý.
Sự sáng tạo trong chiến lược marketing và chiêu thức lôi cuốn khách hàng
trung thành (loyalty - phép đo mức trung thành) vốn không có gì mới đối
với giới quản trị thương hiệu đã được hai thương hiệu Mỹ là I-Phone và
Blackberry áp dụng thành công trước tiên tại Bắc Mỹ nay đã được áp dụng
tại Việt Nam. Và ngay cả Nokia hay Samsung cũng phải ngỡ ngàng vì lâu
nay chỉ biết bán máy đi động. Về mặt chiến lược cái này được chúng tôi
gọi là mô hình P3&P4 tức xây dựng thương hiệu phải gắn liền với chiến
lược phân phối.
Thương hiệu mở rộng Sản phẩm mới?
Las Vegas đi lên từ một hoang mạc! điều này ai cũng biết, cái mà chúng tôi
muốn phân tích ở đây là sau khi đã xác lập thương hiệu Las Vegas với sản
phẩm lõi là casino với những thương hiệu truyền thống như Monte Carlo,
Luxor, thì những năm gần đây bắt đầu sự mở rộng sản phẩm, hình thành
cơ cấu hiện nay đó là sự cân bằng giữa các ngành công nghiệp truyền
thống là casino và hotel, với sự xuất hiện một tỷ phần ngày càng cao sản
phẩm giải trí và hội chợ triển lãm và MICE.
Các thương hiệu truyền thống như MGM, Universal trong ngành điện ảnh
bây giờ đã mở rộng thương hiệu sang giải trí và khách sạn.
Virgin với uy tín của hãng hàng không Virgin Atlantic và cá nhân ngài
Richard Branson đã đột phá trong lĩnh vực du lịch vũ trụ với phân nhánh
thương hiệu Virgin Galatic. Điều này cũng rất dễ hiểu đối với cơ cấu chiến
lược mở rộng thương hiệu của Apple - máy tính sang I-pod, I-phone và I-
pad; không những thế chuỗi cửa hàng phân phối I-studio (one stop Apple
store) cũng là một chiến lược P3&P4 khôn ngoan.
Kinh doanh bằng thương hiệu là gì?

Có không ít phương thức kinh doanh bằng thương hiệu, nhưng có một
điều mang tính đạo đức cần được nhìn nhận rằng muốn kinh doanh bằng
thương hiệu thì chủ thể kinh doanh phải sở hữu một thương hiệu đích
thực. Đồng thời cần thấy rằng hình thức sở hữu thương hiệu cũng rất đa
dạng bao gồm cả tình huống bản thân chủ thể cũng là một thương hiệu. Và
rằng không phải tất cả thương hiệu được hình thành đều thông qua việc
xác lập trade-mark.
Những hình thức kinh doanh thương hiệu thuần túy đó là: (a) thương hiệu
chứng nhận; (b) thương hiệu tập thể và (c) thương hiệu cá nhân.
Trong trường hợp thương hiệu chứng nhận, chủ thể xác lập một hệ thống
tiêu chí, quy chuẩn và quy trình chứng nhận đạt chất lượng hợp lý, công
tâm và minh bạch đồng thời mang tính hợp pháp (và không phi đạo đức)
rồi từ đó kinh doanh thương hiệu đó thông qua hoạt động chứng nhận,
điển hình lâu nhất trong mô hình này có thể chính là thương hiệu Kỷ lục
Guinness do thương hiệu Bia Guinness sáng lập.
Trường hợp là thương hiệu tập thể (cũng mang yếu tố chứng nhận) chúng
ta có thể đơn cử nhãn hiệu Bordeaux trong ngành rượu vang tại Pháp.
Mặc dù là thương hiệu tập thể hay chỉ đẫn địa lý (tuỳ theo góc độ tiếp cận
vấn đề) Bordeaux chỉ chứng nhận cho những thành viên trong địa phận địa
danh Bordeaux nhưng phải đạt và tuân thủ những tiêu chí chất lượng trong
việc sản xuất rượu vang do hội đồng địa phương (hay hiệp hội) quy định.
Trong tình huống này tác giả thường hay so sánh với tình huống thương
hiệu Nước Mắm Phú Quốc của Việt Nam ta.
Thương hiệu cá nhân, xin đơn cử Carlos Santana (nhạc sĩ lừng danh dòng
Latino Rock người Mỹ gốc Mexico), giá trị thương hiệu Carlos Santana
hiện đã được khai thác không chỉ từng sản phẩm gốc (âm nhạc) mà được
bán dưới nhiều dạng thức khác nhau như: quà lưu niệm, những bộ trống
và nhạc cụ gõ, đàn guitar, thời trang…tất cả đều mang nhãn hiệu Carlos
Santana.
Thương hiệu chi phối những phân khúc kinh tế khác?

Động thái này rất dễ nhận biết mặc dù nhiều người đang giải thích bằng
những nguyên do khác nhau. Trước tiên Thương hiệu luôn là nấc cuối
cùng trong chuỗi giá trị. Nhưng vì sao nó lại chi phối? Bởi rằng khi đứng ở
vị trí sau cùng, thương hiệu tiếp cận trực tiếp với Khách hàng hay Con
người.
Mà vì một điều đơn giản (nhưng không dể hiểu) rằng "tất cả các sản phẩm
trên thế giới này, cuối cùng đều phục vụ cho Con người", vì vậy Thương
hiệu là khái niệm sâu sắc nhất, có thể thoả mãn nhu cầu Con người một
cách triệt để nhất. Không những thế ngày nay các quốc gia trên toàn thế
giới thống nhất với sau thông qua những công ước về sở hữu trí tuệ và
nhãn hiệu hàng hoá, chính yếu tố này tạo ra những hàng lang pháp lý
vững chắc nhất để bảo vệ thương hiệu.
Thực ra thì những yếu tố kinh tế khác cũng rất quan trọng, đó là tài
nguyên, con người, tiền vốn, và bí quyết công nghệ. Nhưng tại làm sao mà
Thương hiệu càng ngày càng chiếm vai trò quan trọng một cách gia tăng?
Đó cũng là vì một lý do như đã nêu, Thương hiệu chinh phục con người,
Nó sử dụng Sản phẩm và những thứ khác để thoả mãn nhu cầu của con
người, sâu hơn thế Nó để lại một Tình cảm sâu sắc cho từng con người
mà Nó đã chinh phục, đối với điều này sản phẩm, công nghệ, hay tài
nguyên không thể làm được.
Hãy nhìn vào Nike, thương hiệu này chinh phục hàng tỷ khách hàng, chấp
nhận một cách tự nguyện hay vô thức mua những đôi giày với giá trên
100USD cho dù sản phẩm (xét theo góc độ kinh tế học kinh điển) được
sản xuất ra với giá xuất xưởng (ex-work) hoặc giá FOB không quá 10USD.
Nói một cách vắn tắt phần giá trị được cộng thêm (added value) về
nguyên tắc là do hai yếu tố của kinh tế thương hiệu đó là P3&P4 tức Phân
phối và Thương hiệu bao gồm cả R&D.
Cũng vì thế mà Tập đoàn Nike ngày nay không còn trưc tiếp đầu tư sản
xuất ra sản phẩm giày Nike và từ đó đã hình thành sự chuyển dịch sản
xuất sang các nước thế giới thứ ba (theo cách gọi của Tư bản) và thương

hiệu Nike chi phối đến phần hết (90%) tổng giá trị của chuỗi kinh tế.
Thay lời kết
Chúng tôi thật sự cảm thấy rất phấn khởi khi được biết chính phủ đã có
những giải pháp mang tính chiến lược thông qua Quyết định 1715 (10-
2009) trong đó có nêu (mục 15) “Đổi mới phương thức sử dụng các quỹ
xúc tiến thương mại, chuyển hướng sang các hoạt động hỗ trợ xây dựng
thương hiệu, xúc tiến thương mại và các hình thức trợ cấp không bị cấm
áp dụng theo quy định của WTO)”.
Hy vọng rằng nhận thức về thương hiệu trong cộng đồng Việt Nam, các
nhà doanh nghiệp, giới trí thức và các vị lãnh đạo càng ngày càng sâu sắc
ở cấp độ cao nhất không thua kém bất kỳ quốc gia nào (đuổi kịp về nhận
thức tư duy thương hiệu của Bắc Mỹ và Châu Âu) để có thể ứng dụng
thương hiệu như một công cụ sắc bén, một đòn bẩy kinh tế hiệu quả và lâu
bền không chỉ đối với doanh nghiệp mọi thành phần mà còn đối với các
nhà lãnh đạo, các nhà tư tưởng trong việc hoạch định tầm nhìn và chính
sách và đối với từng người dân bình thường trong nhận thức giá trị cá
nhân.
Chú thích:
1. Brand, có quá nhiều định nghĩa và rất khác nhau về Brand -Thương
hiệu. Tác giả xin lưu ý quý vị tham khảo định nghĩa thương hiệu của
Simon Anholt . Một học giả rất có tâm huyết với chúng ta những quốc
gia bị coi là "thế giới thứ ba" trong con mắt của giới tư bản.
2. Sự so sánh Thương hiệu với Quá trình Tiến hoá là xác thực vì trước
đây chúng ta nghiên cứu sự tiến hoá của loài người thông qua Sản
phẩm, một phạm trù ngày càng hạn hẹp dưới giác độ của Thương
hiệu. Những lý luận đầy tính thuyết phục được trình bày bởi Al Ries
(cha đẻ của thuyết định vị thương hiệu) và nhất là thông qua tác
phẩm Origin of Brands phỏng theo tư duy Nguồn gốc Các loài của
Darwin.
3. Simon Anholt (UK) khi công bố quyển sách Brand New Justice (công

lý mới của thương hiệu) đã chỉ rõ bí quyết làm giàu từ thương hiệu
và chính điều này làm cho một số nhà tư bản tham lam cảm thấy bực
tức. Diễn biến này cũng giống như phong trào Fair Trade (cũng xuất
phát từ nước Anh) và phản ứng ban đầu của Nestle về "những điều
nhức nhối trong một tách cà phê" khi phân tích sự "phân chia" lợi
nhuận giữa những người nông dân trồng cà phê ở các nước "thế giới
thứ ba" và chủ tư bản sở hữu thương hiệu.
4. Xin mời quý vị xem giải thích các thuật ngữ này trong từ điển
marketing & thương hiệu của chính tác giả, lưu giữ tại
www.vovanquang.com.
5. Sản phẩm là một tập hợp các lợi ích, bao gồm 2 nhóm lợi ích lý tính
và cảm tính - định nghĩa của tác giả
6. Có một số từ tác giả để nguyên văn không dịch là vì bản thân nó
mang yếu tố thương hiệu như là một slogan hay tên các thương hiệu
nhánh (sub-brand). Cần lưu ý rằng thương hiệu chỉ được phiên âm
chứ không dịch tiếng vì bản thân thương hiệu là một dạng ngôn ngữ
không lệ thuộc, vd: Apple là Apple chứ không phải là Quả Táo,
Kodak là Kodak chứ không thể là bất cứ điều gì khác vì rất nhiều tên
thương hiệu không nhất thiết phải có nghĩa cụ thể.

×