Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Đề bài: Triết lí sống nhàn trong bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.89 KB, 5 trang )

Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

NHÀN
-Nguyễn Bỉnh KhiêmĐề bài: Triết lí sống nhàn trong bài thơ "Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm
I. MỞ BÀI
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) sống gần trọn một thế kỉ đầy biến động của
chế độ phong kiến Việt Nam: Lê – Mạt xưng hùng, Trịnh – Nguyễn phân tranh.
Trong những chấn động làm rạn nứt những quan hệ nền tảng của chế độ phong kiến,
ông vừa vạch trần những thế lực đen tối làm đảo lộn cuộc sống nhân dân, vừa bảo vệ
trung thành cho những giá trị đạo lí tốt đẹp qua những bài thơ giàu chất triết lí về
nhân tình thế thái, bằng thái độ thâm trầm của bậc đại nho. Nhàn là bài thơ Nôm nổi
tiếng của nhà thơ nêu lên quan niệm sống của một bậc ẩn sĩ thanh cao, vượt ra cái
tầm thường xấu xa của cuộc sống bon chen vì danh lợi.
II. THÂN BÀI
1. Triết lí sống Nhàn
Nhàn trước hết có thể hiểu là nhàn rỗi, nhàn việc, nhàn tâm. Nhàn đã trở thành
một quan niệm, một triết lý sống ở thời phong kiến. Các nhà nho xưa đã sống theo
quan niệm xuất xử của nho học, họ học hành để đỗ đạt. Thời hưng trị thì họ ra cứu
nước giúp đời, cịn khi thời thế loạn lạc, gặp chúa tối vua mê thì họ rút lui về ở ẩn bên
núi bên sông để giữ mình trong sạch. Có thể hiểu triết lý sống nhàn là lối sống hòa
hợp với tự nhiên, giữ được cốt cách thanh cao, vượt được trên danh lợi. Trong thời
phong kiến có nhiều nhà nho khi khơng gặp thời đã lui về ở ẩn để sống nhàn như
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến... Triết lí sống nhàn được thể
hiện rõ trong bài thơ "Nhàn" của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
2. Hai câu đề: Nhàn là sống với những gì mình mong muốn:
“Một mai , một cuốc , một cần câu,”
Điệp số từ “một” kết hợp với việc liệt kê các danh từ “mai”, “cuốc” , “cần câu”
đã khắc họa những vật dụng vốn quen thuộc của công việc ruộng đồng làm nổi bật
không gian êm ả, yên tĩnh của làng quê. Nào mai, nào cuốc những thứ ấy đều là công


việc mệt nhọc của nhà nông. Cái công việc mà làm quần quật cả ngày bán mặt cho
đất bán lưng cho trời, một nắng hai sương. Ấy thế mà ở đây tác giả lại nói đó là việc
nhàn, tại sao vậy? Có thể nói so với Nguyễn Bỉnh Khiêm thì đó là một công việc tuy
mệt mỏi chân tay nhưng lại khơng mệt trí óc hay tâm hồn. Nhà thơ được thong dong
nơi ruộng vườn như một lão nông vui thú điền viên. Cuộc sống lao động vất vả, nhọc
nhằn, gắn liền với đất bùn hôi tanh nhưng không thể làm mất đi cái đẹp trong sáng,
cao khiết trong tâm tưởng:
“Cao khiết thùy vi thiên hạ sĩ ?
An nhàn ngã thị địa trung tiên!”
( trích Ngụ hứng - Nguyễn Bỉnh Khiêm)
1


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Từ nền tảng của cuộc sống lao động , từ vẻ đẹp trong sáng luôn tỏa rạng trong
tâm hồn bậc thi nhân, vượt lên trên nỗi cực nhọc thưởng tình của nghề nơng, Nguyễn
Bỉnh Khiêm đã có những vần thơ thật đẹp, mang đậm hơi thở của cuộc sống thôn
quê. Quả thật: Cuộc sống là cánh đồng màu mỡ để cho thơ bén rễ sinh sôi (
Puskin)
“ Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
Hai chữ "Thơ thẩn" thể hiện một cách tài tình phong cách ung dung và tâm
trạng thảnh thơi của con người tự cho mình là đã xa lánh cõi trần tục đầy tham, sân,
si; trong lịng khơng cịn vướng bận những âm mưu, toan tính bon chen. Niềm vui
như hiện lên trong từng bước đi thong thả, nhàn nhã. Niềm vui chi phối cả âm điệu
bài thơ, cứ nhẹ nhàng, lâng lâng, thanh thản một cách lạ kì. Cụm từ "dầu ai vui thú
nào" cịn nói lên lập trường kiên định của nhà thơ trước lối sống đã lựa chọn. Chữ
"ai" vốn là một đại từ phiếm chỉ, được tác giả sử dụng trong câu thơ này với một

nghĩa rất rộng, càng suy ngẫm càng thấy thú vị. Nhưng cơ đọng lại trong từng câu
chữ chính là cách sống lạc quan, tự tại, vui với cuộc sống thuần hậu, gần gũi.
3. Hai câu thực: Nhàn là chối bỏ lối sống xa hoa, đua tranh nơi kinh đô, sống
cuộc sống tự tại nơi vườn ruộng
“ Ta dại ,ta tìm về nơi vắng vẻ,
Người khơn , người đến chốn lao xao.”
Nghệ thuật đối lập thể hiện qua các từ “ta”-“người”; “dại”-“khôn” ; “nơi vắng
vẻ”-“chốn lao xao” đã cho ta thấy rõ quan niệm sống của nhà thơ. Hai từ láy “vắng
vẻ” và “lao xao” để miêu tả hai chốn ở khác nhau. Vắng vẻ từ láy tạo nên đậm nét
sức bình dị, n bình của thơn q. Cịn từ láy lao xao nó như có cả tiếng reo vui,
tiếng náo nhiệt và tấp nập của chốn đô thành. Sự đối lập, tương phản nhấn mạnh sự
trái ngược hoàn toàn tới xung khắc của hai nơi sống, hai quan điểm sống và hai sự
lựa chọn. Và từ đây ta có thể hiểu nơi vắng vẻ là thôn quê, yên lành, cịn chốn lao xao
là vùng kinh đơ đầy náo nhiệt. Nhân vật trữ tình đã chủ động tìm về nơi vắng vẻ đến
với chốn thôn quê, sống cuộc sống thanh nhàn mặc cho bao người tìm chốn “phồn
hoa đơ hội”. Đằng sau những đối cực ấy là những ngụ ý tạo thành phản đề, khẳng
định cho thái độ sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bản thân nhà thơ nhiều lần đã định
nghĩa dại – khơn bằng cách nói ngược này. Dại và khôn bấy giờ được đánh giá dựa
trên cuộc sống vật chất, danh lợi. Người đời thường lấy lẽ dại – khơn để tính tốn,
tranh giành thiệt hơn, cho nên thực chất dại – khơn là thói thực dụng ích kỷ, tầm
thường của con người, cuốn con người vào dục vọng thấp hèn. Nhưng với Nguyễn
Bỉnh Khiêm thì:
“Khơn mà hiểm độc là khôn dại
Dại mà hiền lành là dại khôn”
Khôn sống ở nơi vinh hoa, phú quý để rồi phải suy tính, mưu mơ, khơng được
là chính mình liệu có đáng? Dại về với thiên nhiên thôn quê để sống thanh đạm, êm
đềm, sống bằng cả lịng mình, theo ý mình phải chăng là hồ đồ? Trong cái dại lại có
2



Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

cái khơn, câu thơ với giọng điệu hóm hỉnh, mỉa mai đã cất lên triết lí sống của bậc trí
giả: Tìm đến thiên nhiên, tránh xa rối ren, thị phi nơi triều chính để giữ sự thanh cao,
trong sạch. Qua đây, ta nhận ra rằng thơ không chỉ làm ta say mà còn thức tỉnh trong
lòng người những điều triết lí sâu xa. "Thơ là cây đàn mn điệu" của tâm hồn, của
nhịp đập con tim. Xưa nay thơ vẫn là cuộc đời, là lương tri, là tiếng gọi con người
hãy quay về bản chất thực của mình để vươn lên cái chân, thiện, mỹ, tới tầm cao của
khát vọng sống, tới tầm cao của giá trị sống. Bài thơ "Nhàn" cho thấy Nguyễn Bỉnh
Khiêm đã thực sự tìm ra lối sống tốt nhất cho ông trong xã hội đương thời.
4. Hai câu luận: Nhàn là sống thuận theo tự nhiên
“ Thu ăn măng trúc ,đông ăn giá ,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao .”
Hai câu thơ tả cảnh sinh hoạt giản dị mà không kém phần thú vị nơi thôn dã
với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Sống ở nơi thơn q cịn nhiều khó khăn vất vả,
nhưng ở đó lại có các thú vui riêng và được thưởng thức những món ăn tưởng rất
bình thường nhưng lại ngon vơ cùng. Chỉ có măng trúc và giá thơi, mà nào thức nấy,
những thứ ấy dù rất bình thường vì lúc nào cũng có sẵn trong nhà. Ngon mà thanh
sạch biết bao, bởi vì đã khơng ít lần Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rằng:
Câu thanh nhàn đọc qua ngày tháng.
Hay:
Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách
Nói về chuyện sinh hoạt hằng ngày, nhà thơ khơng chỉ nói chuyện ái ăn cái
uống mà cịn nói chuyện tắm và là tắm ở hồ sen, ở ao: “Xuân tắm hồ sen, hạ tắm
ao”. Chỉ có vùng nơng thơn người ta nói có thể được vùng vẫy, thoải mãi thả hồn
mình vào trong thiên nhiên hồ mình với thiên nhiên để cảm hết niềm hạnh phúc,
thú vui lạc quan ở đời. Nếu mới đọc qua chúng ta chỉ thấy đó là hai câu thơ tả cuộc
sống nơi thôn quê của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhưng chiều sâu trong đó lý tưởng sống

cùa ơng, là khát vọng được sống hoà hợp với thiên nhiên. Được ăn những món ăn
mà chỉ do thiên nhiên hồ quyện với thiên nhiên mới khiến ta mở rộng lịng mình,
vùng vẫy ơm thiên nhiên vào lịng và cũng chính thiên nhiên ôm ta vào lòng nâng
dậy sức sống và khơi mát tâm hồn. Chỉ có thiên nhiên tươi đẹp mới làm cho tâm hồn
ta thanh thản, ấm áp mà thôi. Và nếu cần đánh đổi thì Nguyễn Bỉnh Khiêm sẽ sẵn
sàng đánh đối phú quí để được tận hưởng cuộc sống này:
Để rẻ công danh muốn được nhàn.
Ta cũng bắt gặp cách sống vừa giản dị nhưng cũng thật thi vị ấy trong những
vần thơ của Hồ Chí Minh :
“Sáng ra bờ suối ,tối vào hang
Cháo bẹ , rau măng vẫn sẵn sàng”
Đều miêu tả cảnh sống và sinh hoạt gắn liền với không gian , thời gian đều đặn
như một quy luật: “Thu..đông..xuân..hạ” – “ Sáng..tối”; “hồ...ao”-“suối...hang”, thơ
Nguyễn Bỉnh Khiêm và Hồ Chí Minh cùng tốt lên vẻ đẹp trong sáng của những tâm
3


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, coi thường vật chất bên ngồi. Ta đọc ở đây một
nụ cười kín đáo hồn nhiên rất giản dị, chân thành, khiến người đọc có cảm giác như
các thi nhân đang bằng lịng, thích thú và vui sướng với cuộc sống như vậy.
4. Hai câu kết: Nhàn là coi thường danh lợi
“ Rượu đến cội cây , ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao .”
Đây là hai câu thơ có lấy điển tích Thuần Vu Phần uống rượu say và nằm dưới
gốc cây h ngủ. Ơng ta mơ thấy mình ở nước H An được cơng danh phú q, vinh
huấn. Nhưng khi tỉnh dậy thì đó chỉ là giấc mộng, thấy cành h phía nam chỉ có một

tổ kiến mà thơi. Điển tích này để chỉ phú quí chỉ là giấc chiêm bao. Đối với một con
người tài hoa, có trí tuệ lớn như Nguyễn Bỉnh Khiêm thì thực sự phú q khơng phải
là những gì q viển vơng, xa vời, khó lịng đạt được. Ơng từng đỗ Trạng ngun,
từng làm quan to trong triều nên uy quyền, tiền bạc, của cải đối với ơng đều ở trong
tầm tay. Nhưng đó lại không phải là điều ông nghĩ đến và tham vọng. Với ông phú
quý chỉ "tựa chiêm bao", như một giấc mơ, khi tỉnh dậy thì sẽ tan, sẽ hết mà thôi. Bởi
xét đến cùng, giữa một xã hội đâu đâu cũng là hư danh, phú quý phù du, mấy ai được
như Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Trãi để nhìn thấy lẽ đời, sự đời, để gìn giữ khí
tiết thanh tao “tìm về nơi vắng vẻ - dầu ai vui thú nào”. Nhân vật trữ tình đã tìm đến
cái say để tỉnh, dùng mộng để nói thực và thốt lên những chiêm nghiệm sâu sắc.
Cuộc sống của những kẻ chạy theo công danh phú quý vốn dĩ ông căm ghét và lên án
trong rất nhiều bài thơ về nhân tình thế thái của mình:
“Ở thế mới hay người bạc ác
Giàu thì tìm đến, khó thì lui”
(Thói đời)
Phú q gắn với chức quyền đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ là cuộc sống của
bọn người bạc ác thủ đoạn, giẫm đạp lên nhau mà sống. Bọn chúng là bầy chuột lớn
gây hại nhân dân mà ông vô cùng căm ghét và lên án trong bài thơ Tăng thử (Ghét
chuột). Bởi thế, có thể hiểu thái độ nhìn xem phú quý tựa chiêm bao cũng là cách nhà
thơ chọn lựa con đường sống gần gũi, chia sẻ với nhân dân.
III. KẾT LUẬN
Xuân Diệu từng khẳng định "Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác" nghĩa là thơ phải
đạt đến độ lí tưởng cả về nội dung, nghệ thuật. Và ngòi bút của Nguyễn Bỉnh Khiêm
qua "Nhàn" đã làm được điều đó.
1. Nghệ thuật:
Bài thơ sử dụng thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật với việc phát huy cao độ
các phép đối tạo nên sự đăng đối, cân xứng cho từng câu, từng cặp câu. Ngôn ngữ
tiếng Việt mộc mạc, giản dị nhưng rất giàu sức gợi. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa
chất trữ tình và triết lí sâu xa đã tạo nên sự thâm trầm, sâu lắng cho bài thơ, dù giọng
điệu có vẻ tếu táo, vui đùa, tự nhận mình là "ta dại" cịn "người khơn"

2. Nội dung:
4


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

"Nhàn" là bức chân dung Nguyễn Bỉnh Khiêm được chụp từ nhiều góc độ
khác nhau: cuộc sống, tâm hồn và trí tuệ. Mai Quốc Liên từng khẳng định: “Nguyễn
Bỉnh Khiêm được coi như Giang, Hán trong các sông, như ánh mặt trời thu, cây đại
thụ của đạo đức, văn chương thế kỉ XVII”. Nhàn là một chủ đề rất phổ biến trong thơ
ca trung đại, là một nét tư tưởng văn hóa rất sâu sắc của người xưa, đặc biệt là tầng
lớp trí thức. Sống nhàn dật với tự nhiên để tu dưỡng nhân cách, đem lại thú vui tao
nhã cho con người. Biết sống sống nhàn, biết tìm thú nhàn là cả một học thuyết triết
học lớn. Bài thơ “Nhàn” của Nguyễn Bỉnh Khiêm in đậm dấu ấn tinh thần con người
cá nhân trước một thời đại mất phương hướng, chao đảo, loạn lạc, nhiều đổi thay.
3. Liên hệ, mở rộng
Tuy nhiên khi tiếp cận tác phẩm , độc giả cũng dễ bị hiểu lầm rằng quan niệm
sống nhàn chính là nhàn việc, biếng lười. Và câu nói của Nguyễn Quân khi bàn về
tập "Bạch Vân quốc ngữ thi" đã lên tiếng về điều đó: “Lại nữa, cụ có chủ trương là
chủ trương vô sự, nghĩa là không để có sự rắc rối, chớ đâu phải là chủ trương vơ vi
nghĩa là khơng làm gì hết, cứ việc phó mặc cho con tạo xoay vần … Có thể nói là sự
lánh đời nhưng còn khuyên đời, còn mong ước đời vẫn khơng qn ơn vua chúa ,
khơng phụ tình nước non”
Mỗi thời, quan niệm sống nhàn lại có những ý nghĩa rất riêng. Đặt trong xã hội
hiện nay, nhàn khơng có nghĩa là sự phó mặc, thờ ơ với cuộc sống mà tích cực hơn
chính là cốt cách ngay thẳng, trong sạch. Đừng vì danh lợi và những thứ xa hoa phù
phiếm mà đánh mất đi nhân cách của mình. Chúng ta hãy cống hiến hết mình cho
dân, cho nước mà khơng chút vụ lợi vì bản thân.


5



×