Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tài liệu LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN PHÉP BIỆN CHỨNG pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.5 KB, 8 trang )

Tiểu luận: Quá trình phát triển của phép biện chứng trong lịch sử

LỜI NÓI ĐẦU
Biện chứng và siêu hình là 2 phương pháp tư duy trái ngược nhau trong triết học.
Phương pháp siêu hình là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái đứng im, không vận
động, tách rời cô lập và tách biệt nhau. Cách xem xét cho chúng ta thấy được sự tồn tại của
sự vật hiện tượng ở trạng thái đứng im tương đối, nhưng xét tuyệt đối hóa phương pháp này
sẽ dẫn đến sai lầm phủ nhận sự phát triển, không nhận thấy mối liên hệ giữa các sự vật hiện
tượng. Trong khi đó phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét những sự vật hiện
tượng và những phản ánh của chúng vào tư duy, chủ yếu là trong mối liên hệ qua lại của
chúng, trong sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”.
Trong lịch sử triết học có nhưng thời gian, tư duy siêu hình chiếm ưu thế so với tư
duy biện chứng. Nhưng xét trong toàn bộ lịch sử triết học, thì phép biện chứng luôn chiếm
một vị trí đặc biệt trong đời sống tinh thần xã hội. phép biện chứng là một khoa học triết
học, vì vậy nó cũng phát triển từ thấp tới cao là phép biện chứng duy vật Mác-xít của triết
học Mac-Lenin. Chủ nghĩa Mac-Lenin luôn đánh giá cao phép biện chứng, nhất là phép biện
chứng duy vật, coi đó là một công cụ tư duy sắc bén để đấu tranh với thuyết không thể biết,
tư duy siêu hình, củng cố niềm tin vào sức mạnh và khả năng của con người trong nhận thức
và cải tạo thế giới.
Việc nghiên cứu lịch sử phát triển của phép biện chứng sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn
bản chất của phép biện chứng và sự phát triển của tư duy biện chứng của nhân loại. Xuất
phát từ mục đích đó, chúng tôi chọn đề tài: Lịch sử phát triển của phép biện chứng trong triết
học” để làm đề tài nghiên cứu. Dưới sự hướng dẫn nhiệt tình của giáo viên triết học Trần
Thị Thùy Trang nhưng do kiến thức triết học còn hạn hẹp và chưa có kinh nghiệm áp dụng
vào thực tê. Do đó trong bài tiểu luận có những nội dung còn thiếu sót cần được bổ sung và
sửa đổi rất mong nhận được sự góp ý của cô giáo và các bạn để rút kinh nghiệm cho những
bài sau được tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
1
Tiểu luận: Quá trình phát triển của phép biện chứng trong lịch sử


LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN PHÉP BIỆN CHỨNG
Tư tưởng biện chứng đã hình thành ngay từ khi triết học ra đời. Trong quá trình phát
triển, pháp biện chứng có ba hình thức cơ bản là phép biện chứng chất phác, pháp biện
chứng duy tâm và phép biện chứng duy vật.
1. Phép biện chứng chất phác
Thời cổ đại, tư duy phát triển chưa cao, khoa học chưa phát triển, các nhà triết học chỉ
dựa trên những quan sát trực tiếp để khái quát nên bức tranh chung của thế giới. Hêralit từng
ó một câu nói: “con người không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông”.
Phép biện chứng được thể hiện rõ rệt trong “thuyết Âm_Dương”, “thuyết Ngũ Hành” của
triết học Trung Hoa cổ đại. Phép biện chứng phác chống lại những quan điểm tôn giáo, thiếu
sự chứng minhcủa khoa học, mang tính chất ngây thơ mộc mạc. Do đó dã bị siêu hình thay
thế vào cuối thế kỉ XV.
a. Thuyết ngũ hành
Nói đến Ngũ hành thì hầu như đa số đều biết ngay đến 5 loại đặc tính của vật liệu
nguyên thuỷ có sẵn trong thiên nhiên: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, và Thổ. Một vài học giả về sau
này dựa vào hiểu biết có sẵn từ Dịch, cho rằng Ngũ Hành trên không có nghĩa là 5 nguyên tố
thiên nhiên đã kể ra. Nhận định trên chỉ đúng có một phần, và có ý nghiã tương tự như Bát
Quái trong Dịch. (Nên nhớ là các vị về sau đã văn minh tiến bộ rất nhiều, đồng thời cũng bị
ảnh hưởng từ Dịch mà ra, nên không chắc là phản ảnh được ý định ban đầu của nhà thông
thái, trong việc nghiên cứu tìm ra thuyết Ngũ hành).
SINH: Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim.
KHẮC: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim.
Một luật phụ thuộc cũng quan trọng không kém, tuy không có tên gọi chính thức, nhưng
được hiểu ngầm và tuyệt đối tôn trọng là luật "Bảo tồn". Mỗi Hành A đều phải sinh ra một
Hành B, và đồng thời cũng được sinh ra bởi một hành C khác. Tương tự cho luật khắc, Hành
A trên phải khắc một Hành D, và "bị" khắc lại bởi một Hành E. Như vậy, bất cứ một Hành
nào trong Ngũ Hành đều có liên hệ chặt chẻ nhưng trói buộc với 4 Hành còn lại. Ðây chính
là lý do rõ rệt nhất để giải thích, tại sao người phát minh ra thuyết Ngũ hành đã phải dùng
2
Tiểu luận: Quá trình phát triển của phép biện chứng trong lịch sử


đến số "Hành" tối thiểu là 5. Các học giả từ xưa đã biết "Thổ khắc Thủy" là sai, nhưng
không thể nào sửa lại hay điều chỉnh được, vì giống như hình ảnh của thuyết con cờ
"Domino", nếu một cái ngã thì sẽ kéo theo toàn bộ, và kết quả là cả thuyết Ngũ hành sẽ
không còn có giá trị gì nữa! Riêng các học giả Tây phương khá nổi tiếng am hiểu về Dịch
như C. K. Jung, Blofeld (3), v.v, khi nghiên cứu về Dịch lý, cũng chỉ chú trọng đến
"BátQuái" và 64 quẻ Dịch, mà không muốn nhắc đến thuyết Ngũ hành, kể cả bàn về Tiên
Thiên và Hậu Thiên Bát Quái.
Cũng nhân đây xin đưa ra một chứng minh cụ thể sai lầm về lý luận trong Hậu Thiên
Bát Quái. Các nhà thông thái cho rằng sở dĩ Thiên và Trạch thuộc hành Kim ở hướngTây, vì
hướngTây (của Trung hoa ) có nhiều núi nên cho rất nhiều quặng mỏ kim loại; trong khi đó
ngược lại hướng Ðông là biển, nơi các con sông đều chảy về (Chúng Thuỷ Triều Ðông) làm
tốt cho cây cỏ thảo vật, nên thuộc hai quái Lôi và Phong hành Mộc. Giải thích trên nếu có
được là vì các nhà thông thái thời bấy giờ coi Trung hoa là Trung tâm điểm của trái đất.
Chúng ta có thể thấy ngay lập luận trên không hợp lý chút nào, vì nếu như sống ở những
vùng như California, thì núi lại nằm ở hướng Ðông và biển thì lại ở hướng Tây!
Thông thường trong đa số các bộ môn về khoa học, nếu muốn tìm hiểu cho rõ nguyên
nhân nào, và tại sao đưa đến sự sai lầm thực tế trong ứng dụng, thì không gì chắc chắn hơn
là trở lại nghiên cứu từ căn bản nguồn gốc của lý thuyết. Vì vậy, trước khi đi sâu thêm vào
chi tiết sai lầm đáng kể khác của thuyết Ngũ hành, tưởng cũng nên trở lại một chút với lý
thuyết căn bản về Dịch lý.
1. Phép biện chứng duy tâm khách quan
Phép biện chứng duy tâm xuất hiện trong triết học cổ điển Đức cuối thế kỉ XVIII, nửa
đầu thế kỉ XIX. Thời kì này, khoa học đã đạt được nhiều thành tựu ở nhiều lĩnh vực. Đó
cũng chính là cở sở để đi tới khái quát mới về nội dung phép biện chứng.
Đại diện tiêu biểu cho phép biện chứng duy tâm là Hêghen. Ông là người đầu tiên
xây dựng hoàn chỉnh phép biện chứng duy tâm. Tính chất duy tâm của Hêghen thể hiện ở
chỗ: “ý niệm tuyệt đối” là cái có trước, “ý niệm tuyệt đối” tha hóa thành thế giới tự nhiên và
xã hội, cuối cùng lại trở về với chính mình trong tinh thần tuyệt đối. Họ coi tinh thần là thứ
3

Tiểu luận: Quá trình phát triển của phép biện chứng trong lịch sử

bắt đầu và cũng là thứ kết thúc. Phép biện chứng duy tâm vẫn còn thiếu tính triệt để và thiếu
khoa học.
Hêghen (1770 -1831) là nhà biện chứng lỗi lạc. Phép biện chứng của ông là một tiền
đề lý luận quan trọng của triết học Mácxit. Triết học của ông có ảnh hưởng rất mạnh đến tư
tưởng của nước Đức và cả Châu Âu đương thời, triết học của ông được gọi là "tinh thần
Phổ". Phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm tức là phép biện chứng về
sự vận động và phát triển của các khái niệm được ông đồng nhất với biện chứng sự vật. Ông
viết: "phép biện chứng nói chúng là nguyên tắc của mọi vận động, mọi sự sống và mọi hoạt
động trong phạm vi hiện thực. Cái biện chứng là linh hồn của mọi nhận thức khoa học chân
chính "(1). Luận điểm xuyên suốt trong hệ thống triết học của Hêghen là: "Tất cả cái
gì là hiện thực đều là hợp lý và tất cả những gì hợp lý đều là tồn tại"(2).
1. Phép biện chứng duy vật
Kế thừa một cách có chọn lọc những thành tựu mới nhất của khoa học và thực tiễn xã
hội. Vào giữa thế kỉ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng
và phép biện chứng duy vật, nhưng sau đó được Lênin phát triển vào đầu thế kỉ XX
Phép biện duy vật là sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện
chứng. Nó đã khắc phục những hạn chế của phép biện chứng chất phác và những thiếu sót
của phép biện chứng duy tâm.
Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cở sở những nguyên lí, phạm trù cơ bản, quy luật
phản ánh đúng đắn hiện thực. Ph.Ăngghen đã đúc kết: “phép biện chứng chẳng qua là chỉ là môn
khoa học về những qui luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài
người và của tư duy”.
(1) Triết học dành cho cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên nghành triết học, NXB
Chính trị quốc gia, 1997, tập 1, tr331.
(2) C.Mác -Ph.Ănghen, Tuyển tập, NXB Sự Thật, Hà nội, 1984, tr361
4
Tiểu luận: Quá trình phát triển của phép biện chứng trong lịch sử


NỘI DUNG CHÍNH CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
Theo C.Mác: Biện chứng khách quan là cái có trước, còn biện chứng chủ quan (tư
duy biện chứng) là cái có sau và là phản ánh của biện chứng khách quan, đây là sự khác
nhau giữa phép biện chứng duy vật của ông với phép biện chứng duy tâm của Hêghen.
C.Mác cho rằng ông chỉ làm cái công việc là đặt phép biện chứng duy tâm của Hêghen
"đứng trên hai chân của mình" tức là đứng trên nền tảng duy vật. Theo Lênin thì phép biện
chứng là "học thuyết về sự phát triển đầy đủ, sâu sắc và toàn diện nhất, học thuyết về tính
tương đối của sự vật".
Ba mối liên hệ chủ yếu trong phép biện chứng duy vật là: 1. Mối liên hệ cùng tồn tại
và phát triển; 2. Mối liên hệ thâm nhập lẫn nhau tuy có sự khác nhau nhưng vẫn có sự giống
nhau; 3. Mối liên hệ về sự chuyển hoá vận động và phát triển. Các mối liên hệ được khái
quát thành các cặp phạm trù như( phần tử - hệ thống, nguyên nhân - kết quả, lượng - chất)
và các quy luật (quy luật lượng - chất, quy luật đấu tranh và thống nhất của các mặt đối lập,
quy luật phủ định của phủ định).
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Mác đã công khai tính giai cấp của để bảo vệ lợi
ích của giai cấp công nhân và toàn thể nhân dân lao động. Trong khi đó các nền triết học
trước Mác che dấu lợi ích của nó, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, của một nhóm người
thiểu số trong xã hội. Triết học C.Mác là một hệ thống sáng tạo, là một hệ thống mở, không
ngừng được bổ sung, được làm phong phú thêm bởi chính thực tiễn và phát triển. Cùng với
chính sự phát triển thực tiễn, học thuyết của C.Mác là kim chỉ nam cho hành động.
Những nội dung chính của phép biện chứng được C.Mác và Ph.Ănghen luận chứng
trong tác phẩm: "Biện chứng của tự nhiên" (1873 - 1883), "Chống Đuy -rinh" (1876 -1878),
"Lút-vich Phoiơ Bắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức" và một số tác phẩm do
V.I.Lênin viết như: "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán" (1908 -1909),
"Bút ký triết học".
5
Tiểu luận: Quá trình phát triển của phép biện chứng trong lịch sử

Tóm lại, phép biện chứng duy vật Mác - xít là kết quả của sự chín mùi về mặt lịch sử của
nhận thức khoa học và của thực tiễn xã hội. Sự ra đời của nó đáp ứng nhu cầu về mặt lý luận của

giai cấp công nhân. Giai đoạn mới trong sự phát triển của phép biện chứng gắn với tên tuổi của
V.I.Lênin đã vận dụng thành công phép biện chứng Mác-xít trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
tháng Mười Nga năm 1917. Sự phát triển của V.I.Lênin về phép biện chứng duy vật thể hiện trong
lý luận cách mạng xã hội chủ nghĩa như là một công cụ sắc bén để cải tạo thế giới một cách cách
mạng nhất.
6
Tiểu luận: Quá trình phát triển của phép biện chứng trong lịch sử

KẾT LUẬN
Ở phép biện chứng chất phác thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng
trong lịch sử triết học. Vì thế nó còn ngây thơ, đơn giản, mang tính trực quan, cảm tính chỉ
khái quát bức tranh chung của thế giới. Nó chỉ giúp con người hiểu: Mọi vật có khi tồn tại có
khi không tồn tai, hoặc mọi vật đang trong vận động hay có khi mọi vật ngừng thay đổi.
Nhưng đến nửa cuối thế kỉ XV, khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển mạnh, đòi hỏi các nhà
triết học phải đi sâu vào phân tích, nghiên cứu các yếu tố của tự nhiên. Và khi khoa học tự
nhiên phát triển thì phương pháp tư duy siêu hình không còn phù hợp mà phải chuyển sang
một hình thức tư duy mới cao hơn đó là tư duy biện chứng. Tóm lại, Phép biện chứng duy
vật thời cổ đại là bàn đạp để các nhà triết học hoàn thiện được phép biện chứng duy vật.
Mang lại cho con người những khái niệm, quan niệm về tự nhiên một cách rõ ràng. Cụ thể,
giúp con người hiểu thêm về thế giới tự nhiên của mình đang sống và biết cách hoàn thiện
mình thay đổi mình cho phù hợp với môi trường tự nhiên.
Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức do Can-tơ khởi đầu và Hêghen là người hoàn
thiện, ở đây các nhà triết học đã trình bày được những tư tưởng cở bản nhất của phép biện
chứng duy tâm một cách có hệ thống và lôgic. Được Hêgen xây dựng trên nhứng phạm trù,
những quy luật chung, có lôgic chặt chẽ của ý thức và tinh thần. Và tính duy tâm trong triết
học của Hêgen thể hiện ở chỗ ông đã xem Biện chứng là quá trình phát triển khởi đầu của “ý
niệm tuyệt đối” tức là điểm khởi đầu của sự tồn tại. Trong triết học của Hêghen cũng mắc
phải một số hạn chế vì ở phép biện chứng của ông đã bị lộn ngược đầu xuống đất, chỉ cần
dựng nó lại thì sẽ hình thành một phép biện chứng hoàn thiện hơn. Ở giai đoạn này Hêghen
chưa hoàn thiện được phép biện chứng duy tâm nhưng nó giúp người ta hiểu được những sự

vật hiện tượng dang hiện hữu trong thế giới tự nhiên đều tồn tại trong tinh thần tư tưởng của
con người. Tuy còn thiếu tính triệt để và cách mạng khoa học, cũng bắt đầu từ “ý niệm” và
kết thúc bằng “ý niệm”. Nhưng nó phần nào đánh dấu sự phát triển của các nhà triết học,
giúp cong người hiểu được thể giới mình dang tồn tại tuy chưa hoàn chỉnh và mang tính chủ
quan hơn khách quan.
7
Tiểu luận: Quá trình phát triển của phép biện chứng trong lịch sử

Để khắc phục những hạn chế của Hêghen thì C.Mác và PH Ăngghen đã sáng tạo nên
phép biện chứng duy vật. Đó là giai đoạn phát triển cao nhất cuả phép biện chứng trong lịch
sử triết hoc. Nhờ sự kế thừa có chọn lọc mà Mác – Ăngghen đã phát huy triết học của
Hêghen lên một tầm cao với sự phát triển của nhận thức. Nên Lênin đã khẳng định: “ Trong
số những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng tức là học thuyết về tính
tương đối của nhận thức, của con người. Nhận thức này phản ánh vật chất luôn phát triển
không ngừng.” Nhờ học thuyết này mà con người hiểu được vạn vật xung quanh kể cả vật
chất cũng tồn tại song song và phát triển không ngừng. Bên cạnh đó, con người ngày càng
tiến bộ và cánh mạng khoa học cũng không ngừng phát triển nhằm đáp ứng những nhu cầu
vật chất lẫn tinh thần của con người. Học thuyết này mang tính khách quan, giúp con người
tự phát huy nhận thức, cảm nhận được sự vận dộng và phát triển của thế giới, giúp mở mang
con người không bó chặt, giúp họ hiểu sâu hiểu rộng và hiểu đúng bản chất của sự tồn tại và
phát triển trong thế giời tự nhiên là tuân theo những quy luật tất yếu. Nhằm giúp các nhà
triết học hoàn chỉnh được phép biện chứng duy vật.
Trong “tư bản” Mác áp dụng Lôgic biện chứng và lý luận nhận thức của chủ nghĩa
duy vật vào một vài khoa học duy nhất: “ mà chủ nghĩa duy vật thì đã lấy ở Hêghen tất cả
cái gì có giá trị và phát triển thêm lên ” Nhờ trí tuệ uyên bác của Mác mà phép biện chứng
duy vật đã được tạo ra với tất cả sự đối lập với phương pháp Hêghen nó vẫn thừa nhận và
nhấn mạnh sự giống nhau của mình với phương pháp đó. Như trên đã nói cho đến nay sự
quan tâm đối với di sản triết học của Hêghen vẫn không ngừng tăng lên. Chúng ta phải coi
đây là hiện tượng tích cực vì về thực chất sự quan tâm ngày một tăng lên này là sự quan tâm
không những đối vời triết học đã tổng kết về mặt lí luận lịch sử biện chứng đã có từ trước đó

mà còn là sự quan tâm đối với toàn bộ lịch sử nhận thức nói chung. Là những người ủng hộ
sự phát triển sáng tạo phép biện chứng chúng ta đánh giá cao công lao vĩ đại của Hêghen
cho phép biện chứng và coi việc tiếp tục tổng kết khái quát những thành tựu mới nhất của
khoa học và của thực tiễn hiện đại để làm giàu thêm phép biện chứng duy vật của C.Mác là
nhiệm vụ quan trọng và không bao giờ kết thúc.
8

×