Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Tài liệu Đừng lãng phí tài nguyên đất doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.65 KB, 8 trang )

Đừng lãng phí tài nguyên đất
Cuộc khủng hoảng lương thực trong năm 2008 cho
thấy, thế giới đang bước vào một chu kỳ phát triển
mới, trong đó nông nghiệp được chú trọng hơn sau
nhiều thế kỷ bị đứng sau sự ưu tiên cho phát triển
công nghiệp và dịch vụ.
Chúng ta đều biết rằng, trong lịch sử phát triển của
nhân loại, nông nghiệp là nền tảng của mọi xã hội loài
người, từ buổi bình minh của lịch sử cho đến thế kỷ
thứ XV, khi xuất hiện cuộc cách mạng công nghiệp
lần thứ nhất. Sau đó, công nghiệp trở thành xương
sống của các nền kinh tế trong giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa. Cùng với công nghiệp hóa, sự phát
triển mạnh mẽ của các đô thị và sự mở rộng giao lưu
quốc tế, các ngành dịch vụ cũng nhanh chóng nhận
được sự ưu ái trong công cuộc phát triển của các quốc
gia và ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong các nền
kinh tế.
Từ sự phát triển như vũ bão của công nghiệp, sự gia
tăng của dân số và việc nâng cao mức sống của người
dân các nước, các nguồn tài nguyên bị khai thác ở quy
mô vô cùng lớn, đưa đến một số không nhỏ các nguồn
tài nguyên bị cạn kiệt. Nguồn nước ngọt dùng cho đời
sống con người đang trở nên thiếu trầm trọng, Nguồn
nhiên liệu hóa thạch: than đá, dầu mỏ, khí đốt cũng
đang cạn kiệt buộc con người phải tìm đến các nguồn
năng lượng tái sinh. Nhiều khoáng sản phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa cũng đang bị khai thác đến
mức báo động.
Kể từ thời kỳ công nghiệp hóa lần thứ nhất đến nay,
nông nghiệp luôn bị xếp sau công nghiệp trong thứ tự


ưu tiên phát triển. Và đương nhiên quỹ đất của nông
nghiệp bị cắt ra dành cho phát triển công nghiệp, quá
trình đô thị hóa và cho cả những nhu cầu ngày càng
cao của con người: Đường giao thông, các siêu thị,
khu vui chơi giải trí, các sân golf, bãi đỗ xe…Diện
tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp đến mức
báo động. Thêm vào đó đầu tư cho nghiên cứu và
phát triển nông nghiệp ít sinh lời hơn cho công nghiệp
và dịch vụ, nên cũng ít được chú trọng. Do đó năng
suất trong sản xuất nông nghiệp chậm được cải thiện.
Trong khi đó dân số gia tăng nhanh làm cho nhu cầu
đối với các sản phẩm nông nghiệp gia tăng mạnh. Kết
quả là quan hệ cung cầu về các sản phẩm nông nghiệp
trở nên mất cân bằng và ngày càng nghiêm trọng.
Theo các báo cáo đưa ra tại các kỳ họp Quốc hội
trong năm 2008, mỗi năm cả nước mất đi 72.000 ha
đất nông nghiệp, phần lớn đều là các khu ruộng bờ
xôi, ruộng mật. Tuy Việt Nam là nước xuất khẩu gạo,
nhưng thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai,
dân số tiếp tục tăng nhanh, quá trình công nghiệp hóa
và đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ. Đủ thấy vấn đề an
ninh lương thực không chỉ là chuyện của “Tây” mà
cũng là chuyện của “Ta” rồi. Trên diễn đàn Quốc hội,
các đại biểu bức xúc chuyện ở những vùng đất nông
nghiệp thuần hóa hàng nghìn năm, nhưng thời gian
gần đây chuyển đổi mục đích sử dụng đất chưa đúng,
chưa mang lại hiệu quả kinh tế cao. Với tư cách một
nhà khoa học, đại biểu Quốc hội Nguyễn Lân Dũng
nói rằng, một khái niệm mà mọi người cần phải hiểu,
đó là có loại đất có cấu tượng. Đây là loại đất mà chất

mùn do vi sinh vật tạo ra đã liên kết đất lại thành các
viên có kích thước vừa phải, không nhỏ như đất sét,
không lớn như cát, nhờ đó mang lại độ phì nhiêu.
Muốn đất có cấu tượng phải qua hàng trăm năm, hàng
nghìn năm. "Việc bê tông hóa hoặc lấy cát lấp lên
hoặc lấy cỏ trồng lên là một hành động thiếu trách
nhiệm đối với muôn đời con cháu!”.
Đương nhiên đất nước phát triển thì chuyển mục đích
sử dụng đất là nhu cầu rất lớn. Nhưng sự chuyển đổi
ấy lâu nay ở đâu đó vẫn chưa đúng, chưa mang lại
hiệu quả. Vẫn còn nhiều nơi thu hồi xong bỏ hoang 5
- 7 năm chưa khai thác, chưa sử dụng để đất bỏ
hoang. Tình trạng này xảy ra ở cả đồng bằng sông
Hồng và đồng bằng sông Cửu Long là những vựa lúa
của cả nước. Ở đồng bằng sông Cửu Long, số diện
tích đất cho thuê tại các khu công nghiệp mới chỉ đạt
810 ha, tỷ lệ lấp đầy 33,51%, thậm chí có khu công
nghiệp chỉ mới sử dụng 5% diện tích đất. Ngoài các
khu công nghiệp do Trung ương quy hoạch, tại 13
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long còn có 177 cụm, điểm
công nghiệp do ủy ban nhân dân các tỉnh quyết định
đầu tư xây dựng với tổng diện tích 15.457 ha. Trong
đó mới có 47 cụm điểm công nghiệp được triển khai
xây dựng với diện tích 8.291 ha, 15 cụm công nghiệp
với diện tích 702 ha đang hoạt động. Toàn vùng kinh
tế trọng điểm Bắc Bộ có 27 khu công nghiệp đã có
quyết định thành lập của Thủ tướng Chính phủ (16
KCN đang hoạt động và 11 khu công nghiệp đang
trong thời gian xây dựng cơ bản) với diện tích 5391
ha, tỷ lệ lấp đầy mới đạt 33%.

Trong lúc người nông dân không có đất sản xuất, đời
sống gặp khó khăn, thì đây là sự lãng phí lớn, không
kém gì việc tham nhũng. Có đại biểu Quốc hội yêu
cầu cần dừng ngay việc lấy đất ruộng lúa để làm khu
công nghiệp, khu chế xuất, làm sân golf, làm khu du
lịch.
Năm 2000, diện tích đất nông nghiệp Việt Nam vào
khoảng 4,47 triệu ha, đến năm 2006 giảm xuống còn
4,13 triệu ha. Trong khi đó, dân số Việt Nam năm
2007 lên tới khoảng 85 triệu người và dự kiến sẽ đạt
khoảng 100 triệu người vào năm 2020. Nếu tính ở
mức trung bình của thế giới là 500 kg lương
thực/người/năm (cho cả nhu cầu về lương thực và
phát triển chăn nuôi, có nước đạt 1tấn/người/năm) thì
khi đó cần ít nhất 50 triệu tấn lương thực/năm. Liệu
với trên dưới 4 triệu ha dành cho nông nghiệp đã đảm
bảo an ninh lương thực chưa. Do đó, đòi hỏi phải có
chính sách hữu hiệu nhằm bảo đảm phát triển hài hòa
với an ninh lương thực.
Đến bao giờ chúng ta mới chấm dứt được việc để các
nhà đầu tư, tự đi tìm địa điểm và chiếm dần hết các
loại đất "nhất đẳng điền" ven các quốc lộ, tỉnh lộ ở hai
châu thổ sông Hồng và sông Cửu Long? Việc này dẫn
đến bần cùng hóa một số lớn nông dân mặt đất mà
không có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp.
Có một thực tế là một ha đất nông nghiệp thì chỉ cần
khoảng 3-5 lao động, nhưng mà 1 ha đất sử dụng cho
mục đích công nghiệp thì có thể huy động được tới
hàng trăm lao động. Đây là một lý do để các địa
phương muốn chuyển đất nông nghiệp thành đất công

nghiệp để “lo” công ăn việc làm cho người lao động
địa phương. Vấn đề là cần phải giải quyết mâu thuẫn
trên như thế nào?
Việc giải quyết vấn đề này cần và chỉ có ở tầm vĩ mô.
Chỉ ở cấp trung ương mới giải quyết được, bằng việc
định ra các chính sách hỗ trợ cho các địa phương
thuần nông để giữ đất trồng cây lương thực và tạo
việc làm cho người lao động. Quỹ hỗ trợ nông nghiệp,
tạm gọi như thế, được đóng góp (bắt buộc) từ các địa
phương được ưu tiên phát triển công nghiệp và dịch
vụ (do đất cho năng suất nông nghiệp thấp). Từ nay,
nên xem xét lại việc hưởng lợi từ sự nghiệp công
nghiệp hóa ở các địa phương, thậm chí Chính phủ
phải có một nghị quyết về quản lý sử dụng đất nông
nghiệp, về quy hoạch đất nông nghiệp. Kiên quyết
không chuyển sử dụng đất nông nghiệp những vùng
đất thuần hóa, trừ khi những vùng đất này không cho
hiệu quả cao trong phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp
thì mới chuyển đổi mục đích. Phải kiên quyết giữ cho
được đất trồng lúa chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu
Long, đồng bằng Bắc Bộ, duyên hải miền Trung để
đảm bảo an ninh lương thực. Đây là vùng đất bất khả
xâm phạm, không chuyển sang đất phi nông nghiệp.
Đối với miền núi, khuyến khích chuyển đất nông
nghiệp sang sản xuất công nghiệp, dịch vụ, nơi mà
điều kiện sản xuất nông nghiệp bấp bênh, gắn với việc
đầu tư hạ tầng cho vùng này, đào tạo nguồn nhân lực,
bố trí lại dân cư để đẩy nhanh xóa đói giảm nghèo và
phát triển kinh tế của vùng đặc biệt khó khăn và vùng
miền núi. Mặt khác, Chính phủ cần đầu tư nghiên

cứu, phát triển đường sá, điện, cơ sở hạ tầng tại những
khu vực đất cằn, đồi núi, hiện ở chưa có đường giao
thông, để kéo các nhà đầu tư đến, tránh việc để các
nhà đầu tư chỉ chọn những nơi ven quốc lộ, thuận tiện
cho giao thông.
Trước mắt, cần một quy hoạch rất cụ thể trên phạm vi
cả nước là vùng nào phải để lại để trồng lúa, trồng cây
lương thực và vùng nào chúng ta có thể phát triển
công nghiệp dịch vụ. Không phải không có lý do mà
bên Trung Quốc người ta quy định muốn chuyển đổi
mục đích sử dụng của 5 mẫu Trung Quốc, tương
đương với 1/3 ha, bắt buộc phải được sự chấp thuận
của chính phủ trung ương.
Bên cạnh việc phát triển công nghiệp quá trình đô thị
hóa cũng làm mất rất nhiều đất nông nghiệp. Mỗi năm
hàng chục nghìn ha đất nông nghiệp được chuyển
sang phát triển đô thị. Đây là một nhu cầu tự nhiên
của quá trình phát triển. Nhưng nếu có tầm nhìn xa
trông rộng thì có thể vẫn giữ được đất nông nghiệp
mà không ảnh hưởng đến việc phát triển đô thị. Đó là
việc đưa các đô thị lên các vùng đồi gò và phát triển
đô thị theo chiều cao chứ không theo chiều rộng.
Chẳng hạn như Thủ đô Hà Nội, với 6 triệu dân và
trong tương lai vài ba chục năm nữa là 10 triệu dân,
nếu phát triển theo chiều cao, chỉ cần trên dưới 1.000
ha. Đã có kinh nghiệm của Hồng Kông, New York,
Tokyo, Thượng Hải…Đảo Hồng Kông chỉ có diện
tích hơn 700 ha nhưng có đến hơn 3 triệu người sinh
sống, làm việc. Đảo Manhattan của New York cũng
vậy - hơn 2 triệu người trên diện tích khoảng 500 ha.

Kinh nghiệm của những nơi này là xây dựng các tòa
nhà lớn và cao – trên dưới 30 tầng, không cho phép
xây nhà dưới 20 tầng. Hà Nội hiện vẫn lãng phí tài
nguyên đất khi chỉ xây nhà quá thấp. Tại sao việc mở
các khu đô thị mới lại chỉ xây trên dưới 20 tầng và lại
dành một phần cho việc xây dựng các cái gọi là "biệt
thự” thấp tầng. Tại sao việc cải tạo các khu tập thể cũ
thành các khu đô thị mới cũng không vượt quá 20
tầng? Một bài tính rất đơn giản là trước đây các căn
hộ ở khu tập thể Kim Liên thường là chỉ 30 - 40 m2
cho một gia đình 4 người. Nay nhu cầu của một gia
tính như thế tối thiểu phải là 100 m2. Vậy việc nâng
chiều cao từ nhà lắp ghép 5 tầng lên 11 tầng hay cho
dù là 21 tầng thì liệu cả khu tập thể rộng hàng chục ha
này có thêm bao nhiêu người từ nơi khác đến. Con số
là không nhiều. Vây tại sao ta không nâng thêm chiều
cao của các ngôi nhà lên từ 30 đến 40 tầng để có thêm
chỗ cho hàng nghìn người khác, mà không phải lập
ruộng để xây nhà.
Nên nhớ rằng, nước ta đất chật - người đông, cần phải
biết sử dụng tiết kiệm tài nguyên đất. Nếu tính trung
bình thì mật độ trung bình của thế giới là dưới 100
người/ 1 km2. Ngay Trung Quốc, nước đông dân nhất
thế giới, thì mật độ cũng chỉ là 140 người/1 km2 (l,3
tỷ dân trên hơn 9 triệu km2). Còn Việt Nam ta, hiện
nay là 87 triệu dân, tương lai là hơn 100 triệu trên
diện tích 330.000 km2, nghĩa là hơn 3000 người/1
km2
Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh sau 50 năm
nữa sẽ có không dưới 10 triệu dân. Vậy phát triển đô

thị phải theo chiều cao. Và việc hạn chế chiều cao
hôm nay cũng đồng nghĩa với việc Hà Nội, thành phố
Hồ Chí Minh và các đô thị khác sẽ phải mở rộng thêm
nữa. Vậy ngay từ bây giờ, các cấp có thẩm quyền cần
phải có quyết định sáng suốt hơn nữa, vì 50 năm, 100
năm sau.
Nguồn: Nguyễn Chiến
Kinh tế & đô thị

×