Tải bản đầy đủ (.doc) (286 trang)

Tài liệu Giáo dục môi trường thông qua dạy học hoá học ở trường phổ thông docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 286 trang )

Mục lục
3
Chuyên đề 1
giáo dục môi trường thông qua
dạy học hoá học ở trường phổ thông
Mục tiêu
Kiến thức
- Nắm được những kiến thức cơ bản về cơ sở hóa học môi trường, ô nhiễm
môi trường.
- Biết được vai trò của môi trường đối với con người và tác động của con
người với môi trường (MT).
- Có những hiểu biết về luật pháp và các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước về bảo vệ môi trường.
- Biết khai thác các nội dung kiến thức hoá học có trong sách giáo khoa phổ
thông để giáo dục bảo vệ môi trường cho học sinh thông qua các hình thức dạy
học.
Kĩ năng
- Hình thành và phát triển những kĩ năng cơ bản về môi trường.
- Vận dụng thiết kế được các bài dạy khai thác được nội dung giáo dục môi
trường (GDMT) trong sách giáo khoa (SGK) phổ thông.
- Tổ chức dạy học và tổ chức các hoạt động ngoại khoá về giáo dục môi
trường cho học sinh.
Phương pháp giảng dạy
- Báo cáo viên chủ yếu hướng dẫn những nội dung cơ bản của chuyên đề và
hướng dẫn học viên tự đọc, tự nghiên cứu tài liệu.
- Học viên tự liên hệ thực tế, vận dụng và thiết kế được các bài soạn cụ thể về
dạy học hoá học có khai thác các nội dung về giáo dục môi trường và thiết kế
được các hoạt động ngoại khoá về giáo dục môi trường.
Chương 1
Sự phát triển, Vai trò, nhiệm vụ
và phương hướng giáo dục môi trường


4
ở nhà trường phổ thông
I. Môi trường và tầm quan trọng của môi trường
Môi trường theo nghĩa rộng là tập hợp các yếu tố tự nhiên, xã hội, nhân tạo có
quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau và qua đó ảnh hưởng đến cuộc sống, sự
tồn tại và phát triển của con người và giới tự nhiên.
Môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự phát triển bền vững của đất
nước. Trong quá trình phát triển, con người không chỉ khai thác thiên nhiên mà còn
phải giữ gìn và bảo vệ môi trường tự nhiên, tạo lập môi trường nhân tạo phù hợp
với nhu cầu của cuộc sống và các hoạt động sản xuất, dịch vụ. Xây dựng môi
trường xã hội với các mối quan hệ cộng đồng xã hội tốt đẹp, bảo đảm phát triển
bền vững và lợi ích lâu dài cho các thế hệ hôm nay và mai sau.
Môi trường có vai trò đặc biệt đối với sự sống và chất lượng cuộc sống của con
người. Con người cần có môi trường trong lành, tài nguyên thiên nhiên thích hợp
để sử dụng trong sinh hoạt và sản xuất, như: không khí trong lành để thở, nước
sạch để sinh hoạt hàng ngày…, cần có một môi trường văn hóa - xã hội lành mạnh,
văn minh để hình thành, phát triển nhân cách, nâng cao chất lượng cuộc sống cả về
vật chất và tinh thần.
II. Sự phát triển của giáo dục môi trường trên thế giới và ở nước ta
1. Sự phát triển của giáo dục môi trường trên thế giới
Môi trường là một vấn đề đã và đang thu hút sự quan tâm của toàn thế giới.
Trong mấy chục năm trở lại đây, sự phát triển kinh tế ồ ạt dưới tác động của cách
mạng khoa học kĩ thuật và sự gia tăng dân số quá nhanh đã làm cho môi trường bị
biến đổi chưa từng thấy. Nhiều nguồn tự nhiên bị vắt kiệt, nhiều hệ sinh thái bị tàn
phá mạnh, nhiều cân bằng trong tự nhiên bị rối loạn. Môi trường lâm vào khủng
hoảng với quy mô toàn cầu, trở thành nguy cơ thực sự đối với cuộc sống hiện đại
và sự tồn vong của xã hội trong tương lai.
Để bảo vệ cái nôi sinh thành của mình, con người phải thực hiện hàng loạt các
vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề GDMT. GDMT là một trong những biện pháp
có hiệu quả nhất, giúp cho con người có nhận thức đúng trong việc khai thác, sử

dụng và bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường.
Lần đầu tiên trong lịch sử, vào năm 1948 tại cuộc họp Liên hiệp quốc (LHQ)
về bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên ở Pari, thuật ngữ “giáo dục môi
5
trường” được sử dụng. Tiếp sau đó ngày 5 - 6 - 1972, tại Hội nghị Liên hợp quốc họp ở
Stockhom (Thụy Điển) đã nhất trí nhận định: việc bảo vệ thiên nhiên và môi trường
là hai nhiệm vụ hàng đầu của toàn nhân loại (cùng với nhiệm vụ bảo vệ hòa
bình, chống chiến tranh).
Cũng vì thế, ngày 5

tháng 6 hàng năm đã trở thành Ngày môi trường thế giới.
Hội nghị tuyên bố: GDMT là rất cần thiết để làm cơ sở cho nhận thức và hành
vi có trách nhiệm của cá nhân và tổ chức trong việc bảo vệ và cải thiện môi trường.
Điều 96 của Hội nghị yêu cầu sự phát triển của GDMT như một yếu tố quyết định
nhất để tấn công vào cuộc khủng hoảng môi trường trên toàn thế giới.
Sau hội nghị họp tại Stockhom, ở nhiều nước, GDMT đã được đưa vào các
trường học. Đến năm 1973, người ta thấy có khoảng 1000 chương trình được giảng
dạy trong 750 trường và viện thuộc 70 nước khác nhau. Tuy nhiên, mục đích, nội
dung của GDMT lúc đó chưa được xác định rõ ràng. Phải đợi đến các hội nghị
quốc tế sau, vấn đề này mới được giải quyết và hoàn thiện.
Tháng 10 năm 1975, tại Hội nghị Quốc tế về GDMT họp ở Bengrat (Nam Tư),
lần đầu tiên UNESCO (Tổ chức Văn hóa khoa học và Giáo dục của LHQ) đã khởi
thảo một chương trình GDMT quốc tế (IEEP).
Tiếp sau đó, nhiều hội thảo khu vực về GDMT được tổ chức. Hội thảo của khu
vực châu á - Thái Bình Dương được tổ chức vào tháng 10 năm 1976 tại Băng Cốc
(Thái Lan). Hội thảo đã đưa ra 15 kiến nghị thuộc bốn vấn đề: chương trình
GDMT, đào tạo bồi dưỡng giáo viên, GDMT phi chính quy và vấn đề soạn thảo
các tài liệu, xây dựng các phương tiện phục vụ GDMT.
Đầu tháng 8 năm 1987, UNESCO và UNED (Chương trình Môi trường LHQ)
lại phối hợp tổ chức Hội nghị Quốc tế về GDMT tại Matxcơva, có đại diện của 100

nước và nhiều tổ chức quốc tế tham dự về chương trình hành động GDMT cho thập
kỷ 90. Hội nghị quyết định đặt tên cho thập kỷ 90 là Thập kỷ toàn thế giới cho
GDMT.
Với tinh thần trên, tháng 10 năm 1990 tại Pari UNESCO và UNED tổ chức mở
hội nghị quốc tế với sự tham gia của nhiều tổ chức quốc tế thuộc LHQ. Hội nghị
nhằm mục đích trao đổi về sự tăng cường trách nhiệm của từng tổ chức trong lĩnh
vực GDMT. Tại hội nghị, một lần nữa lại nhấn mạnh nhiệm vụ GDMT cho tất cả
mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ và tầm quan trọng của việc bồi dưỡng kiến thức về
môi trường cho giáo viên các cấp.
Hội nghị thượng đỉnh (UNCED) diễn ra năm 1992 tại Rio de Janero trong hai
6
ngày có 120 vị đứng đầu nhà nước, chính phủ, cùng các đoàn đại biểu của hơn 170
nước tham dự. Song song với hội nghị còn có diễn đàn toàn cầu lôi cuốn đại diện
của hàng trăm nhóm có quan tâm đặc biệt, các tổ chức phi chính phủ vào các kì
diễn thuyết, trình bày, thảo luận và hội thảo trên một phạm vi rộng các đề tài về
vấn đề môi trường.
2. Tình hình giáo dục môi trường ở Việt Nam
ở Việt Nam, từ năm 1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào Tết
trồng cây để giữ gìn và làm đẹp môi trường sống. Cho đến nay phong trào này vẫn
được duy trì và phát triển mạnh mẽ.
Năm 1991, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có chương trình trồng cây phát triển
giáo dục - đào tạo và bảo vệ môi trường (1991-1995).
Trong Kế hoạch hành động quốc gia về môi trường và phát triển bền vững của
Việt Nam giai đoạn 1996 - 2000, GDMT được ghi nhận như một bộ phận cấu
thành.
Từ năm 1995, Dự án Giáo dục Môi trường trong nhà trường phổ thông Việt
Nam (VIE 95/041) của Bộ Giáo dục và Đào tạo do UNDP tài trợ đã nhằm vào các
mục tiêu cơ bản:
- Hỗ trợ xây dựng một bản chính sách và chiến lược thực hiện quốc gia về
GDMT tại Việt Nam.

- Tăng cường năng lực của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc truyền đạt
những nội dung và phương pháp GDMT vào các chương trình đào tạo giáo viên.
- Xây dựng các hoạt động GDMT cụ thể để thực hiện ở cấp Tiểu học và Trung
học.
Các mục tiêu trên được thực hiện ở mức chi tiết và cụ thể hơn trong thực tiễn
thông qua dự án VIE98/018.
Đặc biệt gần đây nhất, tháng 8 - 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định
số 153/2004/ QĐ-TTg về việc ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền
vững ở Việt Nam gồm năm phần:
Phần 1: Phát triển bền vững - Con đường tất yếu của Việt Nam.
Phần 2: Những lĩnh vực kinh tế cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững.
Phần 3: Những lĩnh vực xã hội cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững.
Phần 4: Những lĩnh vực sử dụng tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và
kiểm soát ô nhiễm cần ưu tiên nhằm phát triển bền vững.
7
Phần 5: Tổ chức thực hiện phát triển bền vững.
ở các trường Đại học, GDMT đã được coi như một nội dung quan trọng trong
các giáo trình Con người và môi trường; Dân số, tài nguyên, môi trường. ở các
khoa: Sinh học, Địa lí, Hóa học của các trường ĐHSP (Hà Nội, Huế, TPHCM…) đã
có các môn học về môi trường.
III. Vai trò, nhiệm vụ và phương pháp giáo dục môi trường ở trường Phổ
Thông Việt Nam
1. Vai trò và vị trí của nhà trường phổ thông trong công tác giáo dục và
bảo vệ môi trường
Với mạng lưới phân bố rộng khắp đến từng thôn, ấp ở mọi miền đất nước, nhà
trường phổ thông từ bậc Tiểu học đến Trung học có vai trò đặc biệt quan trọng
trong công tác giáo dục môi trường và bảo vệ môi trường.
Nhà trường phổ thông có chức năng cơ bản là hình thành và phát triển toàn
diện nhân cách của học sinh, có nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức công tác giảng dạy,
học tập và các hoạt động giáo dục khác trong và ngoài nhà trường theo mục tiêu,

chương trình giáo dục của từng bậc học, cấp học. Nội dung giáo dục môi trường là
một bộ phận cấu thành nội dung, chương trình giáo dục ở các cấp, bậc học phổ
thông từ Tiểu học đến Trung học. Giáo dục môi trường nhằm trang bị cho học sinh
những tri thức cơ bản về môi trường, góp phần xây dựng môi trường sống trong
sạch, lành mạnh trong phạm vi cả nước cũng như ở từng cộng đồng địa phương.
Công tác giáo dục nói chung và giáo dục môi trường trong trường phổ thông nói
riêng không chỉ có tác động trước mắt đến thế hệ hôm nay, các cộng đồng hôm nay
mà còn tác động lâu dài đến nhiều thế hệ mai sau và toàn xã hội Việt Nam.
Việc GDMT có thể thông qua nhiều hình thức khác nhau: giáo dục thông qua
các phương tiện truyền thông đại chúng (phát thanh, truyền hình, báo chí, sách
khoa học, sách phổ biến khoa học, phim ảnh…) qua hoạt động của các tổ chức
quần chúng (như Hội bảo vệ môi trường, Hội môi trường và sinh thái…) và qua
giảng dạy ở các trường phổ thông. Trong các hình thức giáo dục môi trường nói
trên thì GDMT ở trường phổ thông chiếm vị trí đặc biệt, bởi nhà trường phổ thông
là nơi đào tạo thế hệ trẻ, những người chủ tương lai của đất nước thực hiện việc sử
dụng các nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường. GDMT cho thế hệ trẻ là việc làm
có tác dụng rộng lớn nhất, sâu sắc và lâu bền nhất.
2. Nhiệm vụ và phương hướng giáo dục môi trường ở trường phổ thông
8
GDMT là một quá trình nâng cao nhận thức, phương pháp kĩ năng, tình cảm và
đạo đức cho học sinh về vấn đề môi trường, do đó nó có nhiệm vụ:
- Làm cho học sinh hiểu biết về thiên nhiên, môi trường nói chung và thiên
nhiên, môi trường Việt Nam nói riêng. Học sinh nhận thức rõ mối quan hệ khăng
khít và sự tác động tương hỗ giữa sinh vật với các yếu tố của môi trường, tầm quan
trọng của môi trường đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
- Trên cơ sở các hiểu biết đó giáo dục cho học sinh ý thức quan tâm thường
xuyên đến môi trường, dần dần hình thành lòng yêu thích, tôn trọng thiên nhiên,
muốn được bảo vệ môi trường sống, các phong cảnh đẹp, các di tích văn hóa lịch
sử của đất nước, và cuối cùng, làm cho việc bảo vệ môi trường trở thành phong
cách, nếp sống của họ.

- Trang bị cho học sinh một số phương pháp và kĩ năng bảo vệ môi trường để
học sinh có thể thực hành các nhiệm vụ bảo vệ môi trường ở địa phương.
III. Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và ngành giáo dục - đào
tạo về bảo vệ môi trường và giáo dục môi trường
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII của Đảng (1996) về định hướng
chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo nước ta trong thời kì công nghiệp hóa, hiện
đại hóa một lần nữa khẳng định giáo dục là quốc sách hàng đầu và nhấn mạnh đến
yêu cầu phát triển giáo dục đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, nguồn nhân
lực hiện nay và tương lai của đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Đưa nội dung giáo dục môi trường và bảo vệ môi trường vào nhà trường là thể
hiện cụ thể yêu cầu gắn phát triển giáo dục và đào tạo với yêu cầu phát triển kinh tế
- xã hội nước ta trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Chỉ thị 36-CT/TW ngày 25/06/1998 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về
tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước đã nhấn mạnh giải pháp Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, xây dựng
thói quen, nếp sống và các phong trào quần chúng bảo vệ môi trường. Đây là một
trong những giải pháp cơ bản để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước ta
trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 27-12-1993 đã thể chế hóa một bước các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo vệ môi trường và giáo dục, đào tạo về
bảo vệ môi trường. Điều 4 của Luật Bảo vệ môi trường quy định: “Nhà nước có
9
trách nhiệm tổ chức thực hiện việc giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học và công
nghệ, phổ biến kiến thức và luật pháp về bảo vệ môi trường”. Luật Bảo vệ môi
trường là cơ sở và hành lang pháp lí quan trọng để tổ chức triển khai các hoạt động
giáo dục và đào tạo về môi trường trong hệ thống giáo dục quốc dân nói chung và
trong các trường phổ thông nói riêng. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số
1363/QĐ-TTg ngày 17-10-2001 về việc phê duyệt đề án Đưa các nội dung bảo vệ
môi trường về hệ thống giáo dục quốc dân đã xác định rõ các mục tiêu, nội dung,

phương thức giáo dục đào tạo và bảo vệ môi trường, trong đó:
- Đối với giáo dục Tiểu học: trang bị những kiến thức cơ bản, phù hợp với độ
tuổi và tâm sinh lí của học sinh về các yếu tố môi trường, vai trò của môi trường
đối với con người và tác động của con người đối với môi trường. Giáo dục cho học
sinh ý thức bảo vệ môi trường; phát triển kĩ năng bảo vệ và gìn giữ môi trường.
- Đối với giáo dục Trung học cơ sở và Trung học phổ thông: trang bị những
kiến thức về sinh thái học, mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên. Trang bị và
phát triển kĩ năng bảo vệ và gìn giữ môi trường, biết ứng xử tích cực với môi
trường sống xung quanh.
- Việc giáo dục bảo vệ môi trường chủ yếu thực hiện theo phương thức khai
thác triệt để tri thức về môi trường hiện có ở các môn học trong nhà trường. Nội
dung giáo dục bảo vệ môi trường còn được thực hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường cho toàn cộng
đồng.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra Quyết định số 3288/QĐ-BGD&ĐT- KHCN
ngày 2-10-1998 phê duyệt và ban hành các văn bản về chính sách và chiến lược
giáo dục môi trường trong nhà trường phổ thông Việt Nam cũng như một số văn
bản hướng dẫn kèm theo. Các văn bản này bước đầu đã tạo cơ sở pháp lí quan
trọng cho việc tổ chức, triển khai các hoạt động giáo dục môi trường ở các trường
phổ thông và trường sư phạm trong hệ thống giáo dục quốc dân thời gian vừa qua.
Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu tăng cường công tác giáo dục môi trường ở nhà
trường phổ thông giai đoạn mới (2001-2010), các văn bản trên cần được bổ sung
hoàn thiện cho phù hợp với tình hình hiện nay.
10
11
Chương 2
Những kiến thức cơ sở
về môi trường và hoá học môi trường
I. Những kiến thức cơ sở về môi trường
1. Môi trường tài nguyên và hệ sinh thái

1.1. Khái niệm về môi trường và hoá học môi trường
a. Khái niệm về môi trường
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo có quan hệ
mật thiết với nhau, bao quanh con người và thiên nhiên (Điều 1, Luật Bảo vệ môi
trường, Việt Nam, 1993).
Theo UNESCO (1981) thì môi trường của con người bao gồm toàn bộ hệ
thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình (tập quán,
niềm tin ), trong đó con người sống và lao động, họ khai thác các tài nguyên thiên
nhiên và nhân tạo nhằm thoả mãn nhu cầu cho cuộc sống sinh hoạt của mình. Nhìn
chung môi trường sống của con người là tất cả các nhân tố môi trường tự nhiên và
môi trường xã hội:
- Môi trường tự nhiên: là các nhân tố thiên nhiên như vật lí, hoá học, sinh học;
nó tồn tại và vận động theo quy luật của tự nhiên, nhưng cũng ít nhiều chịu sự tác
động của con người như: năng lượng mặt trời, đại dương, sông núi, không khí,
động vật, thực vật
Môi trường tự nhiên cung cấp cho con người nguồn tài nguyên thiên nhiên
như: không khí, đất, nước và các khoáng sản để con người sinh tồn và phát triển.
- Môi trường xã hội: là các mối quan hệ giữa con người với con người. Đó là
các luật lệ, các phong tục tập quán Môi trường xã hội định hướng hoạt động của
con người theo những khuôn khổ nhất định đảm bảo cho cuộc sống sinh tồn và
ngày một văn minh.
Ngoài ra, cần phải phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo: bao gồm tất cả
các nhân tố do con người tạo nên hoặc cải biến nó như: các phương tiện, công cụ,
máy móc, thiết bị, nhà ở, công viên nhằm phục vụ cho nhu cầu cuộc sống và
trong lao động sản xuất của mình.
12
b. Thành phần môi trường
Thành phần môi trường của Trái Đất: bao gồm thạch quyển, thuỷ quyển, khí
quyển, sinh quyển.
* Thạch quyển

Thạch quyển là lớp vỏ cứng ngoài của Trái Đất, có cấu tạo hình thái rất phức
tạp, có thành phần không đồng nhất, có bề dày thay đổi theo những vị trí địa lí khác
nhau từ 0km đến 100km.
Các nguyên tố hoá học trong đất tồn tại dưới dạng tổ hợp phức tạp của các chất
khoáng, chất hữu cơ, không khí và nước. Hàm lượng các nguyên tố hoá học của đất
không cố định, biến đổi phụ thuộc vào quá trình hình thành đất.
* Thuỷ quyển
Thuỷ quyển (nước) là yếu tố chủ yếu của hệ sinh thái, là nhu cầu cơ bản của
mọi sự sống trên trái đất và cần thiết cho các hoạt động kinh tế, xã hội của loài
người. Thuỷ quyển bao gồm tất cả các dạng nguồn nước có trên Trái Đất như: đại
dương, biển, hồ, sông, suối, các nguồn chứa băng đá ở hai cực Trái Đất và các
nguồn nước ngầm. Khối lượng thuỷ quyển ước tính vào khoảng 1,38.10
21
kg (tương
đương 0,03% tổng khối lượng Trái Đất).
* Khí quyển
Khí quyển là lớp khí bao quanh bề mặt Trái Đất, có khối lượng 5,2.10
18
kg, nhỏ
hơn 0,0001% trọng lượng Trái Đất. Khí quyển là một hỗn hợp các khí: nitơ
(78,09%), ôxy (khoảng 20,94%), cacbondioxit (khoảng 0,03%), hơi nước (khoảng
0,1-5%) và nhiều khí khác
Khí quyển có tác dụng duy trì và bảo vệ sự sống trên Trái Đất, ngăn chặn các
tia tử ngoại gần đi vào Trái Đất.
Khí quyển có vai trò quan trọng trong việc giữ cân bằng nhiệt lượng của Trái
Đất thông qua quá trình hấp thụ tia tử ngoại từ Mặt Trời chiếu xuống và tia nhiệt từ
mặt đất phản xạ lên.
Khí quyển là nguồn cung cấp O
2
và CO

2
cần thiết cho sự sống trên Trái Đất,
cung cấp nitơ cho quá trình cố định đạm ở thực vật hay sản xuất phân đạm, hoá
chất cho ngành công, nông nghiệp. Khí quyển còn tham gia vào quá trình tuần hoàn
nước.
Có rất nhiều nguồn gây ô nhiễm không khí như: núi lửa, cháy rừng, sấm chớp,
quá trình phân huỷ các xác chết động thực vật, khí thải các khu công nghiệp
13
* Sinh quyển
Sinh quyển là toàn bộ các dạng vật sống tồn tại ở bên trong, bên trên và phía
trên Trái Đất, trong đó có các cơ thể sống và các hệ sinh thái hoạt động. Đây là một
hệ thống động và rất phức tạp. Nơi sinh sống của sinh vật trong sinh quyển gồm
môi trường cạn (địa quyển), môi trường không khí hoặc môi trường thuỷ quyển.
Đại bộ phận các sinh vật không sinh sống ở những địa hình quá cao, càng lên cao
số loài càng giảm, ở độ cao 1km có rất ít các loài sinh vật, ở độ cao 10 - 15km chỉ
quan sát được một số loài vi khuẩn, bào tử nấm, nói chung sinh vật không thể phân
bố vượt ra khỏi tầng ozon. Khác với khí quyển, địa quyển và thuỷ quyển, sinh
quyển không có giới hạn rõ rệt vì nó nằm trong cả ba thành phần của môi trường kể
trên và không hoàn toàn liên tục, vì sự sống chỉ tồn tại và phát triển trong những
điều kiện nhất định.
1.2. Tài nguyên thiên thiên
a. Khái niệm
Tài nguyên thiên nhiên là nguồn của cải vật chất nguyên khai được hình thành
và tồn tại trong tự nhiên mà con người có thể sử dụng để đáp ứng các nhu cầu trong
cuộc sống.
b. Con người với tài nguyên và môi trường
Con người khai thác tài nguyên với mục đích để sản xuất hàng hoá phục vụ
nhu cầu của cuộc sống. Dân số ngày một tăng và chất lượng cuộc sống con người
luôn cải thiện, cho nên các công cụ và phương thức sản xuất luôn được cải tiến để
khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên được nhiều hơn. Vì thế dẫn đến

suy thoái môi trường ngày một gia tăng.
Như vậy, trong quá trình tiến hoá, con người là trung tâm mối quan hệ của tài
nguyên, môi trường và phát triển. Giáo dục nhận thức về tài nguyên thiên nhiên
cho cộng đồng và tạo kĩ năng khai thác, sử dụng tài nguyên cho con người; giữ vai
trò quyết định trong phát triển bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.



14
Nhu cầu tiêu dùng
và phát triển
Tài nguyên
thiên nhiên
Con
người
Công cụ và phương
thức sản xuất
Sinh thái
và môi trường
Hình 1: Mối quan hệ giữa con người, môi trường
và tài nguyên thiên nhiên
c. Phân loại tài nguyên thiên nhiên
Thường người ta kể đến một số tài nguyên thiên nhiên sau: tài nguyên đất, tài
nguyên rừng, tài nguyên biển, tài nguyên khoáng sản, tài nguyên sinh học, tài
nguyên cảnh quan
Ngày nay có nhiều phương pháp phân loại tài nguyên thiên nhiên khác nhau.
Sự phân loại chỉ có tính chất tương đối, do tài nguyên, thiên nhiên có tính đa dạng
được sử dụng với những mục đích khác nhau.
Trong khoa học môi trường, tài nguyên thường được phân thành hai loại: tài
nguyên tái tạo được và tài nguyên không tái tạo được.

* Tài nguyên không tái tạo được
Tài nguyên không tái tạo được là tài nguyên tồn tại một cách hữu hạn, sẽ bị
mất đi hoặc bị biến đổi không còn giữ lại tính chất ban đầu sau quá trình sử dụng.
Đó là các loại khoáng sản, nhiên liệu khoáng, các thông tin di truyền trong sinh vật
quý hiếm.
* Tài nguyên tái tạo được
Tài nguyên tái tạo được là tài nguyên được cung cấp hầu như liên tục và vô tận
của tự nhiên như năng lượng mặt trời, gió, nước và sinh khối.
1.3. Khái niệm về hệ sinh thái
Hệ sinh thái là đồng tổ hợp một quần xã sinh vật với môi trường vật lí xung
quanh nơi quần xã đó tồn tại, trong đó các sinh vật, môi trường tương tác với nhau
để tạo thành chu trình vật chất và sự chuyển hoá của năng lượng. Nói cách khác, hệ
sinh thái bao gồm các loài sinh vật sống ở một vùng địa lí tác động qua lại với nhau
và với môi trường xung quanh, tạo nên các chuỗi, lưới thức ăn và các chu trình sinh
địa hoá.
15
Quần xã
sinh vật
Môi trường xung
quanh
Năng lượng
mặt trời
Hệ
sinh thái
+
+
=

1.4. Môi trường và phát triển, phát triển bền vững
a. Môi trường và phát triển

Phát triển là xu hướng tất yếu khách quan của mỗi cá nhân và toàn xã hội,
nhằm không ngừng cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho con người. Kế hoạch công tác môi trường là một nội dung quan trọng của công
tác kế hoạch hoá sự phát triển kinh tế đất nước nhằm cải thiện chất lượng sống của
con người. Mục đích của sự phát triển là đáp ứng các nhu cầu trong cuộc sống con
người. Phát triển là xu thế tất yếu của mọi xã hội, là quy luật của tiến hoá thiên
nhiên, vì vậy chúng ta không thể kìm hãm sự phát triển của xã hội loài người mà
phải tìm con đường phát triển thích hợp để giải quyết các mâu thuẫn giữa môi
trường và phát triển. Môi trường là tổng hợp các điều kiện sống của con người, còn
phát triển là quá trình sử dụng và cải thiện các điều kiện đó. Môi trường là địa bàn,
là đối tượng của phát triển. Phát triển là nguyên nhân của mọi biến đổi đối với môi
trường. Giữa môi trường và phát triển có mối quan hệ hữu cơ với nhau.
b. Phát triển bền vững
Mọi sinh vật tồn tại trên Trái Đất bị chi phối bởi bốn kiểu môi trường: môi
trường địa quyển, môi trường thuỷ quyển, môi trường khí quyển và môi trường các
sinh vật khác. Những năm gần đây, nhiệm vụ bảo vệ môi trường được nhiều quốc
gia trên thế giới quan tâm trong xu thế tiến tới quá trình phát triển bền vững.
Vấn đề môi trường không chỉ bó hẹp trong mỗi quốc gia riêng lẻ mà nó trở
thành vấn đề toàn cầu, đặc biệt là từ Hội nghị của Liên hợp quốc về con người, môi
trường ở Stockholm năm 1972 và tổ chức Môi trường quốc tế đã công bố chiến
lược bảo vệ toàn cầu năm 1980. Chiến lược này đã nhấn mạnh: bảo vệ không đối
lập với phát triển, bảo vệ bao gồm bảo tồn và sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên
nhằm mục đích tạo cho con người có cuộc sống hạnh phúc không chỉ cho thế hệ
hôm nay mà cho cả thế hệ mai sau. Chiến lược bảo vệ toàn cầu khẳng định: loài
người tồn tại như bộ một phận của thiên nhiên, loài người sẽ không tồn tại hay sẽ
không có tương lai nếu thiên nhiên không được bảo vệ, mặt khác thiên nhiên sẽ
không được bảo vệ nếu không được phát triển để giảm bớt nghèo nàn và bất hạnh
16
của bao người nghèo đói trên Trái Đất. Muốn phát triển thì phải bảo vệ và bảo vệ
để phát triển, đó là đặc tính phụ thuộc lẫn nhau giữa và phát triển bảo vệ và được

gọi bằng thuật ngữ sự phát triển bền vững.
Vậy khái niệm phát triển bền vững là gì?
Năm 1987, trong báo cáo Tương lai chung của chúng ta của Hội đồng Thế giới
về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc, “phát triển bền vững” được định
nghĩa “là sự phát triển đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại, nhưng không gây
trở ngại cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau”.
Hội nghị thượng đỉnh Trái Đất về Môi trường tổ chức ở Rio (1992) đã xác
định: “Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lí và
hài hoà giữa ba mặt của sự phát triển gồm: kinh tế, xã hội, tài nguyên thiên nhiên
và môi trường.
2. Ô nhiễm môi trường - suy thoái môi trường
Ô nhiễm môi trường là hiện tượng làm thay đổi trực tiếp hoặc gián tiếp các
thành phần và đặc tính vật lí, hoá học, sinh thái học của bất kì thành phần nào của
môi trường hay toàn bộ môi trường vượt quá mức cho phép đã được xác định. Sự
gia tăng các chất lạ vào môi trường làm thay đổi các yếu tố môi trường sẽ gây tổn
hại hoặc có tiềm năng gây tổn hại đến sức khoẻ, sự an toàn hay sự phát triển của
người và sinh vật trong môi trường đó.
Tác nhân gây ô nhiễm là những chất, những hỗn hợp chất hoặc những nguyên
tố hoá học đã tác dụng vào môi trường, làm cho môi trường từ trong sạch trở nên
độc hại. Những tác nhân này thường được gọi khái quát là “chất ô nhiễm”. Chất ô
nhiễm có thể là chất rắn (rác, phế thải rắn ), chất lỏng (các dung dịch hoá chất,
chất thải của dệt nhuộm, chế biến thực phẩm ), chất khí (SO
2
từ núi lửa, CO
2
, NO
2
trong khói xe hơi, CO trong khói bếp, lò gạch ), các kim loại nặng như: chì, đồng,
thuỷ ngân (Pb, Cu, Hg ). Có thể, có lúc, có nơi có ít chất ô nhiễm, nhưng có lúc,
có nơi nhiều chất ô nhiễm. Ví dụ, môi trường đất phèn có thể do các cation Al

3+
,
Fe
2+
và cả anion SO
4
2-
, Cl
-
cùng với các chất khí H
2
S. Các chất này đồng thời tác
động vào cây trồng, cá, tôm làm cho chúng chết. Không khí đô thị thường vừa bị
bụi đất, bụi xi măng, khí SO
2
, NO
2
trong khói xe, mùi hôi thối cống rãnh bốc lên,
cộng với tiếng ồn, từ trường quá mức cho phép đã gây tổn hại sức khoẻ con người,
thậm chí gây chết người.
Suy thoái môi trường là một quá trình suy giảm mà kết quả của nó đã làm thay
17
đổi về chất lượng và số lượng thành phần môi trường vật lí (như suy thoái đất,
nước, không khí, biển, hồ ) và làm suy giảm sự đa dạng sinh học. Quá trình đó
gây hại cho đời sống sinh vật, con người và thiên nhiên.
3. Công nghệ môi trường - kinh tế môi trường
3.1. Công nghệ môi trường
Công nghệ môi trường bao gồm ba lĩnh vực chủ yếu: công nghệ bảo tồn tài
nguyên, công nghệ kiểm soát ô nhiễm môi trường và công nghệ ít hoặc không có
chất thải.

Biện pháp chống ô nhiễm môi trường:
- Tìm các biện pháp để giảm tới mức thấp nhất sự gây ô nhiễm môi
trường.
- Xử lí môi trường đã bị ô nhiễm.
Như vậy, thực chất vấn đề chống ô nhiễm môi trường là làm sao để con người
có không khí trong lành để thở, có nước sạch để uống và sử dụng trong các mục
đích sinh hoạt, có đủ lương thực và thực phẩm hợp vệ sinh cho cuộc sống hàng
ngày.
a. Các biện pháp phòng ngừa
Cách tốt nhất để giữ cho môi trường trong sạch là phòng ngừa. Trong sinh hoạt
hàng ngày cũng như trong quá trình sản xuất, từ lao động thủ công đơn giản đến sử
dụng công nghệ hiện đại, nếu mỗi thành viên của xã hội luôn luôn có ý thức giữ
cho môi trường trong sạch thì sẽ tránh được nhiều rủi ro và làm cho chất lượng môi
trường sống của con người không bị suy giảm. Việc phòng ngừa sự cố gây ô nhiễm
môi trường bao gồm các biện pháp trong nhiều lĩnh vực, từ đề xuất các văn bản
pháp luật trong phạm vi quốc gia cũng như quốc tế, tuyên truyền giáo dục, nâng
cao hiểu biết của các thành viên trong cộng đồng, từ đó tìm kiếm các giải pháp kĩ
thuật và công nghệ mới hoàn chỉnh hơn. Dưới đây là một số biện pháp thuộc lĩnh
vực kĩ thuật và công nghệ.
* Quản lí chất thải
Quản lí chất thải là làm sao để các chất thải có thể gây ô nhiễm môi trường
không lan truyền ra môi trường: khí quyển, thuỷ quyển và địa quyển. Việc quản lí
chất thải phụ thuộc vào bản chất của quá trình sản xuất, đặc trưng của chất thải,
tính chất của các chất ô nhiễm nằm trong chất thải. Quản lí chất thải có vai trò quan
18
trọng và cấp thiết, nhất là đối với hai ngành: công nghiệp hoá chất và xử lí nhiên
liệu hạt nhân.
Đối với ngành công nghiệp hoá chất, các chất thải rắn có chứa các yếu tố độc
hại thường được lưu giữ trong các bãi chứa đặc biệt, nền xi măng có xử lí bằng vật
liệu chống thấm, xung quanh có tường bao bọc, có mái che để chống mưa, gió, làm

cho các chất ô nhiễm không thể xâm nhập vào lớp nước ngầm. Trong trường hợp
cho phép người ta có thể đổ các chất này vào các hầm lò bỏ trống và các khu mỏ
khai thác ngầm trong lòng đất, ở độ sâu lớn và cách xa nguồn nước.
Đối với các chất thải ở dạng lỏng hay khí, chẳng hạn như các dung dịch chứa
các ion kim loại nặng, dung dịch axit, kiềm, khí thải chứa HX (X là halogen), Cl
2
,
H
2
S, SO
2
, NO
x
người ta sẽ loại chúng bằng cách kết tủa, trung hoà hay hấp thụ
bằng các tác nhân thích hợp rồi cất giữ các bã rắn thu được bằng cách tương tự như
các chất thải rắn.
Đối với một số chất thải đặc biệt, có tính độc cao như các hợp chất chứa Hg,
As, người ta còn dùng phương pháp trộn các chất thải rắn hay cặn khô với các chất
kết dính như xi măng, vôi, bitum, parafin, polime hữu cơ để tạo thành các khối rắn
rồi cất giữ trong kho riêng hoặc đem chôn.
Việc quản lí các chất thải cũng chỉ có thể thực hiện trong một số trường hợp
nhất định và ngay trong các trường hợp đó cũng không giải quyết được hoàn toàn
vấn đề bảo vệ môi trường xung quanh, vì rất khó lường trước tất cả các hậu quả có
thể xảy ra. Mặt khác, có một số quá trình sinh ra lượng chất thải rất lớn, có thể đến
hàng triệu tấn/năm. Do đó, việc xây dựng bãi chứa đòi hỏi một diện tích mặt bằng
lớn và chi phí cao, đôi khi làm cho quá trình sản xuất không còn hiệu quả nữa.
Xử lí các chất thải phóng xạ từ trước đến nay người ta thường chôn chúng
trong các hố khoan sâu trong lòng đất ở các nơi hoang vắng, cách xa khu dân cư.
Với các chất thải phóng xạ có cường độ thấp người ta thường pha loãng rồi đổ ra
biển hay đại dương. Trong một số trường hợp đặc biệt nguy hiểm người ta trộn bã

thải khô với một số phụ gia rồi nấu chảy thành thuỷ tinh, sau đó cất giữ các khối
thuỷ tinh rắn này trong các hầm chứa đặc biệt. Hiện nay người ta cho rằng đây là
phương pháp bảo quản chất thải phóng xạ đảm bảo nhất và an toàn nhất.
* Thay thế các chất ô nhiễm bằng các chất không hoặc ít gây ô nhiễm
Một ví dụ khác về sự thay thế chất gây ô nhiễm, đó là các thuốc trừ sâu, trừ cỏ.
Từ trước đến nay các thuốc bảo vệ thực vật được dùng phổ biến là thuốc cơ clo, cơ
19
photpho và ở quy mô hạn chế hơn là các chất của thuỷ ngân, asen Tuy nhiên các
nhà khoa học đã tìm ra các biện pháp phòng ngừa để bảo đảm an toàn cho người,
cây trồng và động vật. Nhưng sự ô nhiễm các chất này đã đến quy mô trầm trọng:
hầu hết các sông, ngòi, hồ đã bị ô nhiễm, thậm chí những hàm lượng đáng kể của
những chất này đã được tìm thấy ở giữa Đại Tây Dương, ở cực Bắc, cực Nam của
Trái Đất. Vì vậy một số nước đã cấm sử dụng một số thuốc trừ sâu như: D.D.T;
6,6,6; 2,4,5-T và xu hướng ngày nay là thay thế các chất độc hoá học này bằng
các chế phẩm sinh học để bảo vệ thực vật.
* Tìm kiếm công nghệ không có chất thải
Biện pháp lí tưởng nhất trong việc chống ô nhiễm môi trường là thay thế các
công nghệ hiện hành bằng các công nghệ mới không sản sinh ra chất thải.
b. Xử lí các chất ô nhiễm
Trong thực tế hiện nay, khái niệm “xử lí các chất ô nhiễm” chỉ áp dụng cho các
đối tượng phổ biến nhất và các chất ô nhiễm nguy hiểm nhất ảnh hưởng trực tiếp
đến sức khoẻ và đời sống con người, đe doạ và làm nảy sinh những thảm họa môi
trường và sinh thái. Do vậy, việc xử lí các chất ô nhiễm hiện nay tập trung theo các
hướng công nghệ sau:
- Chống ô nhiễm không khí bởi bụi, các khí thải và động cơ đốt trong, các chất
CFC, các oxit của nitơ, các khí cacbonoxit, khí của lưu huỳnh
- Chống ô nhiễm nguồn nước bởi các chất thải sinh hoạt, công nghiệp, kim loại
nặng, photphat, nitrat, xianua, các chất tẩy rửa, thuốc bảo vệ thực vật
Bản chất của việc xử lí chống ô nhiễm môi trường là xử lí các chất gây ô
nhiễm ngay từ nguồn phát sinh trước khi đưa chúng vào môi trường, bằng cách

đó duy trì nồng độ của các chất ô nhiễm ở mức cho phép.
Các biện pháp xử lí các chất ô nhiễm môi trường bao gồm: công nghệ xử lí khí
thải, xử lí nước bị ô nhiễm, xử lí chất thải rắn (xem Cơ sở hoá học môi trường -
Phạm Văn Thưởng, Đặng Đình Bạch, NXB Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội, 1999).
3.2. Kinh tế môi trường
Kinh tế môi trường được xem như là một phụ ngành nằm giữa kinh tế học và
khoa học môi trường. Nghĩa là, trong kinh tế môi trường, các nguyên lí, công cụ
kinh tế được sử dụng trong nghiên cứu các vấn đề môi trường và ngược lại, trong
nghiên cứu, tính toán kinh tế phải kể đến sự hiện diện của các vấn đề môi trường.
Điều đó dẫn đến các vấn đề đặt ra trong kinh tế môi trường nằm giữa kinh tế và các
20
hệ tự nhiên nên chúng rất phức tạp và do đó cũng có thể coi kinh tế môi trường như
là một phụ ngành trung gian giữa ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Do vậy, mặc dù môn kinh tế môi trường ra đời chưa lâu nhưng nó đã phôi thai
và được phát triển trong quá trình của kinh tế học.
II. Những kiến thức cơ sở về hoá học môi trường và sự ô nhiễm môi trường
1. Khái niệm Hoá học môi trường
Hoá học môi trường là một ngành khoa học của khoa học môi trường. Hoá học
môi trường nghiên cứu các hiện tượng hoá học xảy ra trong môi trường. Nói một
cách cụ thể, hoá học môi trường nghiên cứu các nguồn, các phản ứng, các hiệu ứng
và sự tồn tại các chất hoá học trong đất, nước, không khí và ảnh hưởng về những
tác động của con người đến các quá trình này. Do vậy, hoá học môi trường là một
khoa học đa ngành và có liên hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khoa học khác như: Hoá
địa, Hoá sinh, Hoá phân tích, Hoá hữu cơ, Hoá vô cơ… và với các ngành khoa học
khác như Sinh học, Khoa học nông nghiệp, Địa chất học… Việc nắm vững những
khái niệm cơ bản về hoá học môi trường là rất cần thiết đối với các nhà Hóa học và
cho những ai nghiên cứu về môi trường.
2. Các dạng ô nhiễm môi trường
2.1. Ô nhiễm không khí
Ô nhiễm không khí là sự có mặt của một số chất lạ hay mọi sự biến đổi quan

trọng thành phần không khí, làm cho không khí không sạch như: có mùi khó chịu,
giảm tầm nhìn xa (do bụi).
a. Các nguồn gây ô nhiễm không khí
Có rất nhiều nguồn gây ô nhiễm không khí. Có thể chia thành các nguồn cơ
bản sau: nguồn ô nhiễm thiên nhiên, nguồn ô nhiễm nhân tạo.
* Nguồn ô nhiễm thiên nhiên
Nguồn ô nhiễm thiên nhiên là nguồn do các hiện tượng thiên nhiên gây ra như
đất sa mạc, đất trồng bị mưa gió bào mòn và gió thổi thành bụi. Các núi lửa phun ra
bụi nham thạch cùng với nhiều hơi khí từ lòng đất thoát ra là nguồn ô nhiễm không
khí đáng kể. Cháy rừng cũng gây ra những đám khói lớn và bụi rộng. Nước biển
bốc hơi cùng với sóng biển tung bọt mang theo bụi muối biển lan truyền vào không
khí. Các quá trình thối rữa của xác động vật ở tự nhiên cũng đưa vào không khí các
21
chất khí ô nhiễm.
* Nguồn ô nhiễm nhân tạo
Nguồn ô nhiễm nhân tạo rất đa dạng và phong phú. ô nhiễm không khí do các
hoạt động, giao thông vận tải, đun nấu của nhân dân, ô nhiễm do bụi, ô nhiễm tiếng
ồn. Các hoá chất gây ra những chất gây nguy hiểm đối với con người và khí quyển là
khí CO
2
, SO
2
, CO, N
2
O, CFC…
b. Các tác nhân gây ô nhiễm không khí
- Các loại oxit như NO
x
, CO, CO
2

, SO
2
, H
2
S, các khí halogen gồm flo, clo,
brôm, iôt
- Các phần tử lơ lửng như hạt bụi rắn, bụi lỏng, bụi vi sinh vật, nitrat, sunphat,
phân tử cacbon, muội than, khói, sương mù
- Các loại hạt bụi nặng như bụi đất đá, bụi kim loại
- Các khí quang hoá như ôzon, FAN, FB
2
N, NO
x
, aldehyt, etylen
- Các khí thải có tính phóng xạ.
- Nhiệt.
- Tiếng ồn.
Các tác nhân ô nhiễm không khí chủ yếu phát sinh trong quá trình đốt nhiên
liệu và công nghệ sản xuất. Chúng có thể ở dạng hơi (khí) hoặc các dạng phân tử
nhỏ (hạt). Phần lớn các tác nhân ô nhiễm đều có hại đối với sức khoẻ con người.
Những chất ô nhiễm gây nguy hiểm đối với con người và khí quyển là CO
2
,
SO
2
, CO, N
2
O, CFC.
* Cacbon đixoit (CO
2

)
Với hàm lượng 0,034% trong khí quyển là nguyên liệu cho quá trình quang
hợp của cây xanh. Thông thường, lượng CO
2
sản sinh một cách tự nhiên cân bằng
với lượng CO
2
sử dụng cho quang hợp. Những hoạt động của con người gồm đốt
nhiên liệu hoá thạch và đốt rừng đã dẫn đến sự mất cân bằng nói trên, gây ảnh
hưởng tới khí hậu toàn cầu. Khí CO
2
cùng với hơi nước và các khí 3 nguyên tử
khác trong khí quyển tạo nên hiệu ứng nhà kính làm bề mặt Trái Đất nóng lên.
Hoffman và Wells (1987), khi đề cập đến các khí nhà kính đã nhấn mạnh, kể từ khi
bắt đầu cuộc cách mạng công nghiệp đến nay, lượng CO
2
trong khí quyển tăng lên
25% và sẽ tăng hai lần vào giữa thế kỷ XXI. Khi đó nhiệt độ trung bình của bề mặt
Trái Đất sẽ tăng lên khoảng 3
o
C, băng ở hai cực sẽ tan ra và sẽ nhấn chìm nhiều
thành phố, làng mạc ở các vùng ven biển.
22
* Sunfua đioxit SO
2
Là chất ô nhiễm có nồng độ thấp trong khí quyển, tập trung chủ yếu ở tầng đối
lưu. Sunfua đioxit tự nhiên có nguồn gốc từ hoạt động núi lửa và nhân tạo do đốt
nhiên liệu than, dầu mỏ, khí đốt, sinh khối thực vật, quặng sunfua Khí SO
2
rất

độc hại với sức khoẻ con người và sinh vật, gây ra các bệnh phổi và hô hấp, khi
gặp hơi nước và mưa thì tạo thành mưa axit. ở nồng độ thấp SO
2
gây sưng niêm
mạc, khi hàm lượng cao (lớn hơn 0,5 mg/m
3
không khí) sẽ gây khó thở, ho, viêm
loét đường hô hấp. Khi có mặt đồng thời khí SO
2
và khí SO
3
thì tác hại còn gây ra
mạnh hơn, gây co thắt phế quản và ở nồng độ cao có thể dẫn đến tử vong. SO
2
cũng
gây độc hại cho thực vật, gây bệnh vàng lá, ăn mòn kim loại, làm giảm độ bền của
vật liệu vô cơ và hữu cơ… Không khí bị ô nhiễm bởi SO
2
có thể gây hiện tượng
mù, làm giảm tầm nhìn, gây nguy hiểm cho các phương tiện giao thông.
* Cacbon monooxit (CO)
Được hình thành từ quá trình đốt nhiên liệu hoá thạch thiếu oxi. Khí thải chứa
nhiều CO thường là khói xe máy. Theo Smith (1984) hàng năm trên toàn cầu sản
sinh khoảng 600 triệu tấn CO, riêng Mỹ là 65 triệu tấn. Khí CO không độc đối với
cây xanh nhưng thường độc hại đối với người và động vật, ở nồng độ 250ppm có
thể gây tử vong cho người. Tác hại của khí CO đối với con người và động vật là do
hemoglobin (Hb) trong máu có ái lực mạnh đối với CO hơn là đối với O
2
nên xảy ra phản
ứng:

HbO
2
+ CO
ƒ
HbCO + O
2
* Các khí NO
x

Thường gặp là các khí N
2
O, NO, NO
2
, được sản sinh từ quá trình đốt nhiên liệu
hoá thạch ở nhiệt độ cao, quá trình oxi hoá nitơ trong khí quyển do hoạt động của
núi lửa, các hiện tượng sấm sét, các quá trình sản xuất các hợp chất chứa nitơ…
- Khí NO gây nguy hiểm vì nó tác dụng với hồng cầu trong máu, làm giảm khả
năng vận chuyển O
2
của máu (giống như khí CO).
- Khí NO
2
rất dễ hấp thụ bức xạ tử ngoại, dễ hoà tan vào nước và dễ tham gia
phản ứng quang hoá. NO
2
có tính kích thích niêm mạc, tạo thành axit qua đường hô
hấp, hòa tan vào nước bọt rồi vào đường tiêu hoá sau đó vào máu.
* Clorofluorocacbon (CFC)
Là những hoá chất do con người tổng hợp để sử dụng trong nhiều ngành công
nghiệp và thiết bị làm lạnh. CFCl hoặc CFCl

3
hoặc CFCl
2
hoặc CF
2
Cl
2
với tên gọi
thông dụng là freon 12 (hay F12) là những chất lạnh thông dụng của tủ lạnh gia
23
đình. Trong khí quyển, các CFC thường ở dạng khí, chúng có tính ổn định cao,
chậm phân huỷ. Phát tán lên tầng cao khí quyển, khi nhận bức xạ cực tím thì các
CFC giải phóng ra các nguyên tử clo tự do hoạt động và chính các nguyên tử clo đó
đã tác dụng với oxi của ozon làm lớp ozon của Trái Đất bị mỏng dần. Lượng CFC
tích tụ trong khí quyển rất lớn, cho nên mặc dù hiện nay đã có những quy định về
hạn chế sử dụng CFC nhưng cũng còn rất lâu mới loại trừ hết được ảnh hưởng của
chúng.
* Khí hiđro sunfua (H
2
S)
Xuất hiện trong quá trình sử dụng các nhiên liệu hữu cơ có chứa lưu huỳnh,
quá trình tinh chế dầu mỏ, ở các khu vực chế biến thực phẩm, rác thải đô thị, các
chất hữu cơ bị thối giữa dưới tác dụng của vi khuẩn. Khí H
2
S còn được sinh ra từ
các vết nứt của núi lửa, hầm lò khai thác than…
ở nồng độ thấp (khoảng 5ppm), H
2
S gây nhức đầu, khó chịu. ở nồng độ cao
(lớn hơn 150ppm), khí này gây tổn thương màng nhầy của cơ quan hô hấp. ở nồng độ

cao hơn (khoảng 500ppm) sẽ dẫn đến tử vong.
Đối với thực vật, H
2
S làm tổn thương lá cây, làm rụng lá và giảm sinh trưởng.
c. ảnh hưởng của ô nhiễm không khí tới sức khoẻ con người
Phần lớn các chất ô nhiễm đều gây tác hại đối với sức khoẻ con người, ảnh
hưởng cấp tính gây ra tử vong. Ví dụ, như vụ ngộ độc khói sương ở Luân Đôn năm
1952 gây tử vong 5000 người, ảnh hưởng mãn tính, để lại tác hại lâu dài như các
bệnh viêm phế quản mãn tính, bệnh ung thư phổi. Những nơi tập trung giao thông
cao thì hàm lượng CO trong không khí tăng lên để lại nhiều bệnh nhân thần kinh.
Bảng 1: Tác động của một số tác nhân chính gây ô nhiễm không khí
Tác nhân ô
nhiễm
Nguồn Tác động
Chất
dạng hạt
Công nghiệp,
giao thông
Gia tăng bệnh hô hấp, tiếp xúc lâu có thể
mắc bệnh kinh niên như viêm phổi mãn
tính
Sunfua oxit Nhà máy nhiệt
điện
và một số ngành
công nghiệp khác
Kích thích đường hô hấp, các tác động
như chất dạng hạt
24
Nitơ oxit Giao thông, c
ông nghiệp

Kích thích hô hấp, làm trầm trọng các
điều kiện hô hấp như bệnh hen và viêm
phổi mãn tính
Cacbon
monooxit
Giao thông,
công nghiệp
Làm giảm khả năng vận chuyển O
2
của
máu, đau đầu và mỏi mệt nếu ở mức độ
thấp, còn ở mức độ cao có thể mắc bệnh
tâm thần hoặc chết.
d. Tác hại của ô nhiễm không khí lên thực bì, hệ sinh thái và các công trình
xây dựng
- Một số chất chứa trong không khí bị ô nhiễm có thể là nguyên nhân gây ra sự
ngộ độc cấp tính hay mãn tính của thực bì. Khí SO
2
và Cl
2
là các chất gây ô nhiễm
đầu tiên trong số các chất gây ô nhiễm có hại đã biết. Khí SO
2
đặc biệt có hại đối
với lúa mạch và cây bông. Nhiều loại hoa và cây ăn quả kể cả cam, quýt rất mẫn
cảm với Cl
2
, trong nhiều trường hợp thậm chí ở nồng độ tương đối thấp. Các cây
thuộc họ thông cũng rất mẫn cảm với khí SO
2

.
- Mưa axit là hệ quả của sự hoà tan khí SO
2
vào nước mưa, khi rơi xuống ao,
hồ, sông ngòi gây tác hại đến sinh vật trong nước.
- Các công trình xây dựng, các tượng đá, các di tích lịch sử và văn hoá, các vật
liệu xây dựng đều bị huỷ hoại bởi môi trường không khí đã ô nhiễm: ăn mòn, nứt
nẻ, mất màu, bong sơn
- Môi trường không khí bị ô nhiễm dẫn đến gia tăng khả năng hấp thụ bức xạ
môi trường của khí quyển và hiệu ứng nhà kính do lượng khí thải CO
2
xảy ra ngày
càng nhiều mà hậu quả chung là nhiệt độ trung bình của Trái Đất tăng lên. Đó là
vấn đề “ấm lên toàn cầu” được các nhà môi trường học đề cập nhiều trong thời gian
gần đây.
- Một vấn đề khác của ô nhiễm khí quyển là sự “mỏng đi của tầng ozon”. Việc
sử dụng nhiều các chất CFC trong những năm gần đây đã để lại sự tích luỹ chúng
trong tầng bình lưu khí quyển. Các chất CFC làm huỷ hoại tầng ozon (O
3
) là tấm lá
chắn tia cực tím cho Trái Đất, đem lại nhiều tác hại xấu cho sinh vật và con người.
e. Ô nhiễm không khí ở nước ta
Mặc dù đô thị hoá, công nghiệp hoá và giao thông vận tải của nước ta chưa
25
phát triển nhưng ô nhiễm không khí đã xảy ra. ở Hà Nội, tại Khu vực Nhà máy Dệt
8 - 3, Nhà máy Cơ khí Mai Động, khu công nghiệp Thượng Đình, khu công nghiệp
Văn Điển, nhà máy rượu không khí đều đã bị ô nhiễm nặng. ở Hải Phòng, ô
nhiễm nặng ở khu nhà máy xi măng, nhà máy thuỷ tinh và sắt tráng men ở Việt
Trì, ô nhiễm nặng ở xung quanh nhà máy supephôtphat Lâm Thao, nhà máy giấy,
nhà máy dệt. ở Ninh Bình và Phả Lại ô nhiễm nặng do nhà máy nhiệt điện, các nhà

máy vật liệu xây dựng, lò vôi. ở thành phố Hồ Chí Minh, cụm công nghiệp Biên
Hoà không khí cũng bị ô nhiễm bởi nhiều nhà máy. Hầu như tất cả các nhà máy
hoá chất đều gây ô nhiễm không khí. Không khí tại các đầu mối giao thông chính
của các thành phố lớn đều bị ô nhiễm. Dân cư sống ở các vùng nói trên thường mắc
các bệnh về đường hô hấp, bệnh da, mắt.
f. Các biện pháp phòng ngừa ô nhiễm không khí
Các biện pháp phòng ngừa ô nhiễm không khí bao gồm:
- Quản lí và kiểm soát chất lượng môi trường không khí bằng các luật lệ, chỉ
thị, tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí.
- Quy hoạch xây dựng đô thị và khu công nghiệp trên quan điểm hạn chế sự ô
nhiễm không khí khu dân cư.
- Xây dựng công viên, hàng rào cây xanh, trồng cây hai bên đường để hạn chế
bụi, tiếng ồn, cải thiện chất lượng không khí, thông qua hấp thụ CO
2
trong quang
hợp.
- áp dụng các biện pháp công nghệ, lắp đặt các thiết bị thu lọc bụi và xử lí khí
độc hại trước khi thải ra không khí. Phát triển các công nghệ “không khói”.
2.2. Ô nhiễm môi trường nước
Sự ô nhiễm môi trường nước là sự thay đổi thành phần và tính chất của nước,
gây ảnh hưởng đến hoạt động sống bình thường của con người và sinh vật. Khi sự
thay đổi thành phần và tính chất của nước vượt quá một ngưỡng cho phép thì sự ô
nhiễm nước đã ở mức nguy hiểm và gây ra một số bệnh ở người.
Bảng 2: Một số bệnh ở người do nước bị ô nhiễm gây nên
Bệnh Tác nhân truyền Loại sinh Triệu chứng
26
bệnh vật
Bệnh
dịch tả
Vibrio cholerae Vi khuẩn

ỉa chảy nặng, nôn mửa, cơ thể
mất nhiều nước, bị chuột rút và
suy sụp cơ thể
Kiết lị Shigella dysenteriae Vi khuẩn
Lây nhiễm ruột gây bệnh ỉa
chảy với nước nhầy
Viêm ruột
Clostridium
perfringers
và các vi khuẩn khác
Vi khuẩn
Làm cháy ruột non, gây khó
chịu, ăn không ngon hay bị
chuột rút và ỉa chảy
Thương hàn
Thương
hàn
Salmonella typhi Vi khuẩn Đau đầu, mất năng lượng
Viêm gan
Siêu vi trùng
viêm gan A
Siêu
vi trùng
Đốt cháy gan, vàng da, ăn
không ngon, đau đầu
Bại liệt Siêu vi trùng bại liệt
Siêu
vi trùng
Đau cuống họng, ỉa chảy, đau
cột sống và chân tay

Sự ô nhiễm nước có thể có nguồn gốc tự nhiên hay nhân tạo:
- Sự ô nhiễm có nguồn gốc tự nhiên là do mưa, tuyết tan, gió bão, lũ lụt
Nước mưa rơi xuống mặt đất, mái nhà, đường phố đô thị, khu công nghiệp kéo
theo các chất bẩn xuống sông, hồ hoặc các sản phẩm hoạt động sống của sinh vật,
kể cả các xác chết của chúng. Sự ô nhiễm này còn gọi là ô nhiễm diện.
- Sự ô nhiễm nhân tạo chủ yếu do xả nước, thải từ các vùng dân cư, khu công
nghiệp, hoạt động giao thông vận tải, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ và phân bón trong
nông nghiệp vào môi trường nước.
Theo thời gian các dạng gây ô nhiễm có thể diễn ra thường xuyên hoặc tức thời
do sự cố rủi ro.
Theo bản chất của các tác nhân gây ô nhiễm, người ta phân biệt: ô nhiễm vô
cơ, ô nhiễm hữu cơ, ô nhiễm hoá chất, ô nhiễm vi sinh vật, cơ học hay vật lí (ô
nhiễm nhiệt hoặc do các chất lơ lửng không tan), ô nhiễm phóng xạ
Bảng 3: Một số chất hữu cơ tổng hợp trong nước bị ô nhiễm
Hợp chất Một số tác động đến sức khoẻ
Thuốc trừ sâu Tác động đến hệ thần kinh
Benzen (dung môi) Rối loạn máu, bệnh bạch cầu
Cacbon tetraclorua (dung môi) Ung thư, làm hại gan và có thể tác động
27

×