Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

tư pháp hình sự so sánh Quyền im lặng trong pháp luật Hoa Kỳ và những kinh nghiệm cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.34 KB, 15 trang )

Quyền im lặng trong pháp luật Hoa Kỳ và những kinh nghiệm cho Việt Nam

A.PHẦN MỞ ĐẦU
Trong tố tụng hình sự, việc chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan có
thẩm quyền. Người bị buộc tội khơng bị buộc phải chứng minh tội phạm hoặc
chứng minh mình vơ tội. Tuy nhiên, trên thực tế, người bị buộc không phải lúc nào
cũng có thể im lặng và chờ đợi cơ quan có thẩm quyền chứng minh tội phạm. Tỷ lệ
oan sai diễn ra nhiều mà chủ yếu do bức cung, nhục hình. Người bị bắt bị tra tấn về
tinh thần và thể xác để đưa ra lời khai mà khiến họ mang về bản án vô cùng khắt
khe. Đây là vấn đề vô cùng quan trọng liên quan tới quyền cơ bản của con người
cần phải được bảo vệ.
Trên thế giới có nhiều quốc gia có những chế định bảo vệ quyền của người bị
buộc tội. Chế định quyền im lặng trong pháp luật Hoa Kỳ là một ví dụ. Cảnh sát
Hoa Kỳ mỗi khi bắt người họ đều thông báo cho người bị bắt về quyền im lặng của
mình. Và người bị bắt không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại họ trong mọi
tình huống. Quyền này triệt để bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội. Việt Nam
những năm gần đây đi theo xu hướng cải cách thế giới cũng đã và đang học tập mơ
hình tố tụng sử dụng quyền im lặng này. Bằng chứng là Bộ luật tố tụng hình sự
2015 đã quy định về việc người bị buộc tội khơng có nghĩa vụ phải chứng minh tội
phạm mà việc chứng minh này thuộc về cơ quan có thẩm quyền. Đây cũng là một
nội dung của quyền im lặng. Vậy để hiểu hơn nữa về quyền im lặng của Hoa Kỳ,
em xin đi tìm hiểu những quy định của pháp luật Hoa Kỳ về quyền im lặng và Việt
Nam chúng ta có thể học hỏi được gì từ chế định quyền im lặng này.

1


B.PHẦN NỘI DUNG
I.
Quy định của pháp luật Hoa Kỳ về quyền im lặng
1. Tu chính án thứ năm


Hoa Kỳ hay Mỹ là quốc gia có thể nói là cường quốc số 1 thế giới. Là đất
nước đi đầu về hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế, Hoa Kỳ có một nền kinh tế vơ
cùng phát triển. Trong khi đó, Hiến pháp của Hoa Kỳ là bản hiến pháp được ban
hành vào năm 1787 và là bản hiến pháp lâu đời nhất và nổi tiếng nhất với hơn 200
năm lịch sử. Qua nhiều lần bổ sung, các nguyên tắc của văn kiện này vẫn được giữ
nguyên. Hiến pháp Hoa Kỳ không phải là một văn bản pháp luật cứng nhắc mà
thực tế nó lại mang tính mềm dẻo bởi các tu chính án Hiếp pháp. Tu chính án Hiếp
pháp là sự thay đổi trong Hiến pháp của một quốc gia. Hiến pháp Hoa Kỳ đã trả
qua hơn 200 năm và có hai mươi sáu tu chính án được thơng qua. Trong đó, tu
chính án thứ năm là cơ sơ cho quyền im lặng của công dân và là một trong những
quyền quan trọng nhất của công dân thực hiện để bảo vệ quyền và lợi ích của họ.
Tu chính án thứ năm được đề nghị thông qua vào ngày 25 tháng 9 năm 1789
và được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua vào ngày 15 tháng 12 năm 1791. Nội dung
của tu chính án này đề cập tới truy tố; tiến trình xét xử; tự nhận tội; khơng truy tố
cùng một tội hai lần (double jeopardy), và những luật lệ về trưng thu (eminent
domain): “Không một ai bị buộc phải chịu trách nhiệm về một tội nghiêm trọng hay
một tội xấu xa khác nếu khơng có sự tường trình và cáo trạng của Bồi thẩm đoàn,
trừ những trường hợp xảy ra trong lục quân, hải quân hoặc trong lực lượng dự bị,
khi đang thi hành công vụ trong thời chiến hoặc trong tình trạng xã hội gặp hiểm
nguy. Khơng một ai sẽ bị kết án hai lần về cùng một tội có nguy hại đến tính mạng
và thân thể; khơng một ai bị ép buộc phải làm chứng chống lại bản thân mình trong
một vụ án hình sự và bị tước đoạt sinh mạng, tự do hoặc tài sản, nếu khơng qua một
q trình xét xử theo đúng luật; khơng một tài sản tư hữu nào bị trưng dụng vào
việc cơng mà khơng được bồi thường thích đáng”.

2


Như vậy, tu chính án thứ năm có quy định về “không một ai bị ép buộc phải làm
chứng chống lại bản thân mình trong một vụ án hình sự”. Sự quy định này được

hiểu là một người có quyền khơng đưa ra các bằng chứng chống lại mình, và được
thế giới ghi nhận là quyền im lặng.
Trong tố tụng hình sự Hoa Kỳ, quyền im lặng bao gồm ba quyền riêng biệt của
ba chủ thể khác nhau:
1. Quyền im lặng của bị cáo, có chức năng bảo vệ bị cáo trước sự địi hỏi
của phía cơng tố buộc bị cáo phải đứng lên bục nhân chứng trong vụ án
của chính mình;
2. Quyền im lặng của người làm chứng, theo đó người làm chứng có quyền
từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào nếu câu trả lời có thể dẫn đến một sự
truy tố hình sự;
3. Quyền im lặng của nghi phạm ngăn chặn các cơ quan công quyền sử dụng
các lời khai, lời nhận tội được thu thập khơng tự nguyện trong giai đoạn
trước phiên tịa.
Các quyền nói trên có nội dung và phạm vi tác động khác nhau: “Tại phiên tịa,
bị cáo có một quyền im lặng tuyệt đối”. Năm 1965, Tòa án Tối cao đã quy định
rằng sự im lặng của bị cáo tại phiên tòa khơng thể bị xem như là bằng chứng có tội
hoặc bị sử dụng theo hướng bất lợi đối với bị cáo; “Trong các giai đoạn tố tụng
trước phiên tòa, nghi phạm cũng có quyền được giữ sự im lặng tuyệt đối”. Nghĩa là
trong giai đoạn điều tra lẫn các giai đoạn tố tụng sau đó như trong q trình xét xử
hay tại phiên tịa, họ đề có quyền giữ im lặng. Bên cạnh đó, quyền im lặng của bị
cáo và nghi phạm còn là một quyền tuyệt đối. Tức là, nếu như họ thực hiện quyền
im lặng thì sẽ khơng có cuộc thẩm vấn nào diễn ra. Cịn đối với người làm chứng,
quyền im lặng không phải là một quyền tuyệt đối mà chỉ mang tính tương đối. Có
nghĩa là, người làm chứng khơng thể giữ im lặng hồn tồn, mà họ có nghĩa vụ
phải trả lời các câu hỏi từ cơ quan có thẩm quyền. Để có thể viện dẫn quyền im
lặng, người làm chứng có nghĩa vụ chứng minh rằng việc trả lời một câu hỏi cụ thể
3


nào đó có thể dẫn đến hệ quả là họ có thể bị truy tố từ thơng tin có trong câu trả lời.

Như vậy, so sánh với bị cáo và nghi phạm, người làm chứng được trao quyền im
lặng một cách hạn chế hơn.
Quyền im lặng cũng khơng phải hồn tồn chỉ áp dụng trong tố tụng hình sự mà
nó còn được áp dụng trong cả tố tụng dân sự, tố tụng hành chính và thủ tục lập
pháp. Tuy nhiên, Tòa án Hoa Kỳ thường từ chối một sự im lặng tuyệt đối. Người
nào viện dẫn quyền im lặng từ Tu chính án thứ 5 phải chứng minh cơ sở hợp lý cho
sự im lặng của mình, nghĩa là câu trả lời của họ có khả năng buộc họ phải chịu các
trách nhiệm hình sự sau này. Vậy nên, trong tố tụng phi hình sự, người tham gia tố
tụng phải cân nhắc kỹ trước khi sử dụng quyền im lặng.
Vậy, quyền im lặng là một quyền con người cơ bản, được quy định trong
Hiến pháp Hoa Kỳ. Nội dung và phạm vi tác động của quyền này khác nhau tùy
thuộc vào hồn cảnh pháp lý mà nó được vận dụng.
2. Các yếu tố của quyền im lặng
Quyền im lặng trong tu chính án thứ năm chỉ được sử dụng để bảo vệ một
hành vi khi mà hành vi của người đó có đủ các yếu tố: tính chất lời khai, tính chất
tự buộc tội và tính chất bị cưỡng ép. Tịa án tối cao Hoa Kỳ có quy định: “Để được
bảo vệ bởi Tu chính án thứ 5, một hành vi phải có mang tính chất lời khai, tính chất
tự buộc tội và tính chất bị cưỡng ép”.
- Về hành vi mang tính chất lời khai: tịa án tối cao Hoa Kỳ chưa có quy
định nào cụ thể về thế nào là tính chất lời khai. Vậy nên, ta phải xem xét
tính chất lời khai của một hành vi dựa trên các phán quyết của tịa án có
liên quan tới quyền im lặng trước đó. Từ các phán quyết trên, có người đã
đưa ra kết luận rằng tính chất lời khai có thể bao gồm lời khai và các hành
vi khác có thể tiết lộ suy nghĩ của một người. Tức là quyền im lặng không
chỉ bảo vệ mỗi lời khai mà còn bảo vệ cả hành vi.

4


Một ví dụ về hành vi mang tính chất lời khai thuộc về án lệ United States và

Hubbell, theo đó một lệnh yêu cầu ông Hubbell phải cung cấp tất cả các văn bản có
liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến nguồn tiền hoặc các vật có giá trị khác được
nhận hoặc cung cấp bởi ơng Hubbell. Để có thể thực hiện được lệnh này, Hubbell
phải thực hiện việc suy nghĩ để xác định được tài liệu nào có liên quan đến nguồn
tiền hoặc vật có giá trị. Vì vậy, hành vi yêu cầu cung cấp tài liệu trong trường hợp
này là một hành vi mang tính chất lời khai.
Ngồi ra, theo định nghĩa trên, có thể thấy, một số hành vi cung cấp chứng
cứ tính tự buộc tội như cung cấp mẫu máu, mẫu DNA, hoặc mẫu nước tiểu không
thuộc phạm vi bảo vệ của quyền im lặng. Đồng thời, tất cả các hành vi khác không
liên quan đến việc tiết lộ suy nghĩ cũng không thuộc phạm vi của quyền im lặng, ví
dụ như yêu cầu viết chữ, thực hiện một hành vi mang tính phản xạ, hoặc yêu cầu
đứng ra để người khác nhận dạng.
Vậy, có thể kết luận về hành vi mang tính chất lời khai là hành vi mà yêu cầu
người đó thực hiện việc tiết lộ suy nghĩ của chính người đó về các thơng tin liên
quan hành vi của họ.
- Về tính chất tự buộc tội có nghĩa là hành vi đó khiến cho chủ thể thực
hiện hành vi đối mặt với khả năng phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc
hình phạt.
Năm 1968 và 1983, Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã ghi nhận rằng, yếu tố quan
trọng nhất của quyền im lặng chính là liệu người thực hiện lời khai có phải đối mặt
với một trách nhiệm hình sự thực chất, hiện hữu hay khơng. Quan trọng hơn, năm
1951, Tịa án Tối cao quy định rằng, quyền im lặng không chỉ bảo vệ trực tiếp các
lời khai có thể dẫn đến trách nhiệm hình sự, mà cịn bảo vệ đến các chứng cứ khác
có thể dẫn đến trách nhiệm hình sự có nguồn gốc từ lời khai đó.
Vậy nên, có thể hiểu rằng thành tố tính tự buộc tội của quyền im lặng gần
như đóng vai trị chính tạo nên quyền im lặng bởi tính dẫn dắt chủ thể thực hiện
5


hành vi đối mặt với khả năng phải chịu trách nhiệm hình sự bởi chính lời khai hoặc

chứng cứ mà họ đưa ra.
- Về tính chất cưỡng ép, cơ sở để đánh giá tính chất cưỡng ép chính là có
hay khơng ý chí tự do của người cho lời khai bị áp bức.
Sự cưỡng ép được hiểu là việc ép buộc một người phải làm theo trái với ý
muốn của họ. Sự cưỡng ép có thể là từ phía cơ quan quyền lực hoặc từ phía khác,
tức là khơng phải là của một trong những mệnh lệnh pháp lý của người có thẩm
quyền ra lệnh. Trong quyền im lặng, sự cưỡng ép có thể là do các thủ tục pháp lý
như lệnh của thẩm phán. Đối với sức ép từ phía khác, có thể hiểu sự cưỡng ép xuất
phát từ việc đe doạ, tra tấn hoặc từ sự hứa hẹn trái pháp luật. Quyền im lặng trong
Hiến pháp Hoa Kỳ chỉ chấp nhận sự cưỡng ép từ phía Chính phủ, những ép buộc
tới từ phía tư nhân khơng đượng cơng nhận. Tuy nhiên, trên thực tế, đôi khi hành vi
của tư nhân lại đại diện cho quyền lực nhà nước, do đó, nếu có một sự gắn kết chặt
chẽ giữa quyền lực nhà nước và hành vi của tư nhân thì hành vi của tư nhân có thể
được xem xét như là hành vi của Nhà nước.
Tóm lại, để có thể thực hiện quyền im lặng, ba tính chất lời khai, tự buộc tội
và cưỡng ép phải được đáp ứng.
3. Vụ án Miranda và phán quyết Miranda
Ngày 23/3/1963, Emesto Miranda bị cảnh sát bắt vì đã thực hiện vụ trộm tại một
ngân hàng thuộc thành phố Phoenix, bang Arizona, Mỹ. Sau nhiều giờ bị cảnh sát
thẩmvấn, Miranda thừa nhận tội ăn trộm. Tuy nhiên, sau đó, Miranda tự nguyện
khai rằng một tuần trước, anh đã bắt cóc và hãm hiếp một cơ gái 18 tuổi. Tháng
6/1963 tồ án xét xử vụ án của Mirandan, dựa vào những lời thú tội được viết ra
giấy của Emesto Miranda và lời khai của anh với cảnh sát, Tòa án quận Maricopa,
Phoenix phán quyết Miranda bản án 20 năm tù giam vì ba tội: trộm, bắt cóc và hiếp
dâm.

6


Alvin Moore là luật sư của Miranda lúc đấy đã phát hiện ra một chi tiết đó là

cảnh sát khơng hề thông báo với anh khi thực hiện lệnh bắt anh là anh có quyền
khơng trả lời bất cứ câu hỏi nào của cảnh sát khi chưa có sự hiện diện của luật sư.
Ông Moore đã phản đối việc sử dụng lời khai của Miranda trước đó. Tuy nhiên, tồ
án Hoa Kỳ lại không chấp nhận và bác ý kiến của ơng. Sau đó vị luật sư này đề
nghị kháng cáo. Toà án tối cao bang Arizona xử y án sơ thẩm, tái khẳng định lại
quyết định của bản án sơ thẩm. Vụ án của Miranda lúc này thu hút sực chú ý của
Robert J. Cocoran - một luật sư nổi tiếng lúc bấy giờ. Cocoran sau đó liên kết với
Jonh J.Flynn và John P. Frank - hai luật sư khác để bào chữa cho Miranda.
Vụ án sau đó được xét xử tại toà án tối cao Hoa Kỳ. Cả hai vị luật sư đã bào
chữa thành công cho Miranda khi xốy sâu vào tình tiết Miranda khơng được thơng
báo quyền được giữ im lặng khi bị cảnh sát bắt cũng như khi bị thẩm vấn. Flynn
khẳng định, không thể hy vọng một người ít học và ở tầng lớp thấp trong xã hội
như Miranda lại biết đến “Tu chính án thứ 5” để có thể nêu ra nhằm tự bảo vệ
mình. Anh phải được thơng báo điều đó khi bị bắt, nhưng cảnh sát đã không làm
như thế.
Ngày 13/6/1966, Tòa án tối cao Hoa Kỳ bác bỏ việc kết tội Ernesto Miranda chỉ
dựa trên lời nhận tội của anh. Vì điều đó được thực hiện qua q trình thẩm vấn
khơng đúng ngun tắc. Chánh án tịa án tối cao Mỹ Earl Warren viết trong phán
quyết rằng một người bị bắt giữ trước khi bị thẩm vấn phải được thông báo một
cách rõ ràng họ có quyền giữ im lặng và bất kỳ điều gì người đó nói ra sẽ được sử
dụng để chống lại người đó trước tịa án.
Từ vụ bào chữa cho Miranda, các Luật sư John J. Flynn và John P. Frank đã
làm thay đổi hoàn toàn tiến trình tố tụng hình sự của nước Mỹ. Từ đó, Cảnh sát
khắp nước Mỹ ln phải thơng báo với nghi phạm khi tiến hành việc bắt giữ như
sau: “Anh có quyền giữ im lặng. Nếu anh từ bỏ điều này, bất cứ điều gì anh nói
cũng sẽ được dùng để chống lại anh khi tịa xét xử. Anh có quyền có luật sư và luật
7


sư sẽ hiện diện khi cảnh sát thẩm vấn anh. Nếu anh khơng thể tìm được luật sư, anh

sẽ được cung cấp một luật sư mà khơng phải trả phí. Trong bất cứ cuộc thẩm vấn
nào, anh cũng có quyền sử dụng các quyền này, không trả lời bất cứ câu hỏi nào và
không đưa ra tuyên bố nào. Anh có hiểu những gì tơi vừa nói với anh?”.
Miranda được thả tự do vào năm 1972 nhưng sau đó lại bị đâm chết. Chính
nghi can sát hại Miranda đã viện dẫn quyền im lặng khi bị cảnh sát bắt giữ.
Tóm lại, cảnh báo Miranda là một đảm bảo pháp lý mang tính thủ tục mà
cảnh sát phải đáp ứng trước mỗi cuộc thẩm vấn nghi can nhằm đảm bảo nghi can
có thể biết và sử dụng quyền im lặng tại Tu chính án thứ 5.
4. Đánh giá lời khai
Để viện dẫn quyền im lặng, một người cho lời khai phải được trải qua một
thủ tục gọi là Due Process Voluntariness Test (Trình tự cơng bằng kiểm tra tính tự
nguyện), hay còn được gọi là Test of Totality of the Circumstances (Tạm dịch:
Kiểm tra toàn bộ hoàn cảnh). Việc trải qua thủ tục kiểm tra này được hình thành từ
thế kỷ thứ 18. Đặc biệt hơn, sau án lệ Miranda năm 1966, người ta càng coi trọng
thủ tục này hơn nữa nhằm kiểm tra tính tự nguyện của lời khai.
Thủ tục này gồm hai giai đoạn:
- Kiểm tra về việc người bị thẩm vấn có biết về quyền im lặng của mình
hay khơng?
Giai đoạn này trong tiếng anh là “need be know”. Dịch sang tiếng việt thì thủ
tục này được hiểu như trên. Quả thực, việc kiểm tra người bị lấy lời khai có biết về
quyền của mình hay khơng thực sự quan trọng. Vụ án Miranda đã chỉ ra rằng việc
người bị bắt có biết về quyền của mình hay không là một vấn đề lớn. Thủ tục này
được thực hiện nhằm đảm bảo người bị thẩm vấn biết và hiểu được quyền của
mình, khi đó, việc người đó đưa ra lời khai sẽ được coi là sự tự nguyện của họ. Thủ
tục này cũng khẳng định, nếu một người không được thông báo về quyền im lặng

8


của mình mà đưa ra bất cứ lời khai nào thì sẽ bị coi là bị cưỡng ép đưa ra lời khai

và sẽ không được chấp nhận là chứng cứ buộc tội trước tồ.
- Kiểm tra tính tự nguyện của lời khai của người bị thẩm vấn.
Sau khi trải qua thủ tục thứ nhất, người bị thẩm vấn được đảm bảo về quyền
im lặng có thể đưa ra lời khai nếu họ muốn. Và những lời khai của họ có thể sẽ
được coi là chứng cứ chống lại họ trước tồ.
Về mặt khách quan, tịa án sẽ xem xét cách thức mà buổi lấy lời khai được
thực hiện như thời gian, địa điểm và các yếu tố khác. Khi xem xét các yếu tơ trên,
tịa án sẽ cân nhắc và quyết định xem liệu lời khai của người bị buộc tội có bị ảnh
hưởng bởi những yếu tố trên khơng. Và nếu như có bằng chứng cho thấy người bị
buộc tội bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như trên và có thể bị cưỡng ép gián tiếp thì
thẩm pháp có quyền hủy bỏ lời khai của người bị buộc tội do quyền im lặng bị xâm
phạm.
Về mặt chủ quan, tòa án xem xét về đặc điểm thể chất, tinh thần của người bị
thẩm vấn như tuổi tác, thể trạng, về tâm thần hoặc các bệnh lý khác. Một vài ví dụ
như tại án lệ Gallegos và Colorado, Tịa án xác định rằng lời khai của nghi phạm 14
tuổi là không hợp pháp bởi cuộc thẩm vấn tuy không ảnh hướng lớn đến người
thành niên nhưng có thể tác động đến não bộ trẻ tuổi của nghi phạm. Một ví dụ
khác, tại án lệ Spano và New York, Tòa án đã loại trừ lời khai của nghi phạm Spano
vì tâm lý không ổn định của nghi phạm đã bị ảnh hưởng bởi chiến thuật thẩm vấn
của cảnh sát.
Tóm lại, tính tự nguyện đóng vai trị chủ yếu trong việc đánh giá lời khai của
người bị buộc tội tại Hoa Kỳ. Dù sự giải thích cho tính tự nguyện có thể khác nhau
theo từng trường hợp cụ thể nhưng điều cốt lõi của mọi lời khai tự nguyện là liệu
sự tự cho về ý chí khi đưa ra lời khai của nghi phạm.

9


II.


Kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Từ các quy định về quyền im lặng của Hoa Kỳ, Việt Nam có thể xem xét và

học tập kinh nghiệm áp dụng quyền im lặng như sau:
Thứ nhất, về người có quyền sử dụng quyền im lặng.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chỉ quy định người bị buộc tội có quyền
im lặng, người bị buộc tội gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và bị cáo.
Các chủ thể trên chỉ xuất hiện trong tố tụng hình sự và như đã nói ở trên, quyền im
lặng của pháp luật Hoa Kỳ được sử dụng cả trong tố tụng phi hình sự. Năm 2015
đánh dấu sự ra đời của các văn bản pháp luật về tố tụng. Tuy nhiên, ngay cả khi
thực hiện cải cách tư pháp, các chủ thể tham gia tố tụng khác và người không bị
buộc tội như người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, hoặc người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan lại không được pháp luật quy định cho quyền im
lặng và đều có nghĩa vụ phải khai báo trung thực về các tình tiết liên quan đến vụ
án. Việc Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và các văn bản khác không trao quyền
im lặng cho các chủ thể này có khả năng khiến họ bị buộc phải đưa ra lời khai
chống lại họ và khiến họ phải chịu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp, từ
đó xâm phạm giá trị cốt lỗi được bảo vệ bởi quyền im lặng là sự tự do ý chí cá
nhân.
Do đó, chúng ta nên cân nhắc trao quyền im lặng cho các chủ thể không phải
là người bị buộc tội, tuy nhiên theo một cách khác hạn chế hơn. Nghĩa là những
chủ thể này chỉ được từ chối trả lời một số câu hỏi nhất định, kèm theo nghĩa vụ
chứng minh lý do cho sự từ chối đó. Nếu lý do từ chối hợp lý và chính đáng, cơ
quan tố tụng có quyền quyết định chấp nhận yêu cầu sử dụng quyền im lặng của họ.
Nhưng nếu cơ quan tiến hành tố tụng khơng chấp nhận, thì cần đảm bảo rằng lời
khai nếu được thu thập, sử dụng trong một vụ án thì khơng được dùng làm chứng
cứ trong vụ án khác và nếu các chứng cứ được thu thập là dựa trên lời khai đó cũng
sẽ bị vơ hiệu về mặt pháp lý. Quy định này nhằm đảm bảo những người tham gia tố
10



tụng sẽ đưa ra lời khai trong một vụ án mà khơng phải đối mặt với nguy cơ bị chính
các lời khai đó chống lại chính mình trong một vụ án khác, từ đó bảo vệ họ khỏi
trách nhiệm hình sự bởi chính lời khai của họ.
Thứ hai, về phạm vi tác động của quyền im lặng.
Quyền im lặng của pháp luật Hoa Kỳ bao gồm cả hành vi dẫn đến nguy cơ
phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, pháp luật Việt Nam lại chỉ quy định
quyền im lặng đối với lời khai mà thôi. Vậy nên, cần xem xét để thêm vào phạm vi
của quyền im lặng là bao gồm cả hành vi lẫn lời khai của người đó..
Theo cách tiếp cận của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, một người hồn
tồn có thể bị buộc phải thực hiện một số hành vi để tạo lập các chứng cứ đó. Có
nghĩa là, người đó bị ép buộc phải tự buộc tội bản thân thông qua hành vi của chính
mình. Việc quy định như vậy đã trực tiếp xâm phạm đến giá trị cốt lỗi được bảo vệ
bởi quyền im lặng là sự tự do cá nhân trước sự tự buộc tội. Do đó, nên mở rộng
phạm vi tác động của quyền im lặng đến cả các hành vi tự buộc tội, mà thông qua
hành vi đó có thể tiết lộ suy nghĩ của người thực hiện. Nghĩa là, một hành vi bị xem
là vi phạm quyền im lặng nếu thỏa mãn ba yếu tố sau: Bị buộc phải thực hiện;
Hành vi có tính chất tự buộc tội; Sự buộc tội được thể hiện ra bên ngồi thơng qua
hành vi có nguồn gốc từ suy nghĩ của người thực hiện hành vi.
Thứ ba, việc đánh giá lời khai cần được quy định thêm yếu tố tự nguyện.
Lời khai trong pháp luật Việt Nam được coi là một nguồn chứng cứ. Và nó sẽ
trở thành chứng cứ nếu nó đảm bảo ba yếu tố đó là tính khách quan, tính liên quan
và tính hợp pháp. Như vậy, lời khai của một người hồn tồn khơng hề được đảm
bảo về mặt tự nguyện nếu áp dụng quyền im lặng của Hoa Kỳ. Tức là, trên thực tế,
có thể lời khai của người này không được lấy một cách tự nguyện mà mang tính
cưỡng ép bởi các biện pháp phi pháp như bức cung, nhục hình... Vậy nên, cần phải
thêm một chế định về việc đảm bảo sự tự do ý chí trong việc đưa ra lời khai của
chính người bị lấy lời khai. Cụ thể, một mặt, liệt kê định danh cụ thể một số biện
11



pháp lấy lời khai thể hiện rõ sự cưỡng ép và nếu cuộc thẩm vấn rơi vào các trường
hợp này sẽ đương nhiên khiến lời khai khơng có giá trị pháp lý. Ví dụ như, hành vi
dùng nhục hình, hành vi đe dọa, hành vi dụ cung, hành vi dụ dỗ, hành vi lừa dối
hoặc các hành vi tương tự khác thể hiện rõ sự ép buộc. Mặt khác, quy định một tiêu
chuẩn pháp lý theo hướng mở, mang tính chất định tính, để kiểm tra tính tự nguyện
của người bị buộc tội trong các trường hợp khác.
Thứ tư, về việc thu thập các chứng cứ khác dựa trên lời khai vi phạm quyền
im lặng.
Thực tế, cơ quan điều tra có thể sử dụng các biện pháp bức cung, nhục hình
mà các cơ quan khác khơng thể biết được nhằm thu thập lời khai mà có thể thực tế
đúng với sự thật của vụ án nhưng không phải là do sự tự nguyện của người bị lấy
lời khai. Và khi mà việc cưỡng ép trên bị phát hiện thì lời khai trên có thể bị huỷ bỏ
tuy nhiên những chứng cứ khác được thu thập dựa trên lời khai cũng có thể bị huỷ
và khơng được áp dụng để chứng minh tội phạm. Việc này sẽ làm khó khăn cho
cơng tác chứng minh tội phạm của Cơ quan điều tra. Vậy nên, cũng cần quy định
về việc sử dụng các chứng cứ hợp pháp khác nếu chứng minh được rằng việc thu
thập lời khai bất hợp pháp là do lỗi vơ ý hoặc do sơ suất nghiệp vụ thì vẫn được sử
dụng trong vụ án.
Quyền im lặng có một lịch sử phát triển lâu dài và khá hoàn thiện tại Hoa
Kỳ. Do đó, cân nhắc và vận dụng hợp lý những kinh nghiệm của Hoa Kỳ về quyền
im lặng vào bối cảnh tại Việt Nam là cần thiết để có thể hoàn thiện tốt hơn chế định
về quyền im lặng tại Việt Nam, từ đó đảm bảo các giá trị cốt lõi của quyền im lặng
là bảo vệ sự tự do ý chí của cá nhân trước việc tự buộc tội.

12


C.PHẦN KẾT LUẬN
Quyền im lặng trong pháp luật Hoa Kỳ là một chế định quan trọng được

quy định trong Hiến pháp Hoa Kỳ bởi tu chính án thứ năm. Quyền im lặng đã có
một lịch sử hình thành và áp dụng khá dài tại Mỹ. Là một nước theo mô hình tố
tụng tranh tụng, quyền im lặng được sử dụng triệt để nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
của cơng dân hay tất cả mọi người trên đất Mỹ. Có thể thấy, Hoa Kỳ là một quốc
gia đi đầu về quyền con người khi mà quyền im lặng được áp dụng rất phổ biến
trong toàn bộ dân chúng. Việt Nam là quốc gia theo mơ hình tố tụng thẩm vấn vậy
nên, khi học tập kinh nghiệm về quyền im lặng của nước bạn ta cũng cần phải cân
nhắc chọn lọc áp dụng sao cho phù hợp với quy định của Hiến pháp 2013. Bởi cơ
sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nước ta chưa thể sánh vai với nước bạn, do
đó, áp dụng quyền im lặng giống hệt nước bạn sẽ gây khó khăn cho các cơ quan
cơng quyền trong việc đi tìm sự thật của vụ án.
Tóm lại, quá trình cải cách tư pháp của nước ta cũng cần phải học hỏi những
kinh nghiệm về quyền im lặng của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, chúng ta cần học hỏi một
cách có chọn lọc và cân nhắc áp dụng sao cho quyền của người bị buộc tội vẫn
được đảm bảo và cơ quan điều tra vẫn có thể làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ
án ngay khi áp dụng quyền im lặng.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
/>ItemID=203

14


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................1
B. PHẦN NỘI DUNG..............................................................................................2
I. Quy định của pháp luật Hoa Kỳ về quyền im lặng...........................................2

1. Tu chính án thứ năm......................................................................................2
2. Các yếu tố của quyền im lặng........................................................................4
3. Vụ án Miranda và phán quyết Miranda.........................................................6
4. Đánh giá lời khai...........................................................................................8
II. Kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam...................................................................10
C.

PHẦN KẾT LUẬN..........................................................................................13

TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................14

15



×