Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Phân tích tác phẩm hầu trời Tản Đà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.43 KB, 11 trang )

Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

HẦU TRỜI
- Tản ĐàI. MỞ BÀI
Tản Đà được biết đến như là một nhà thơ mở đầu cho nền thơ ca hiện đại Việt
Nam. Vào những năm đầu thế kỉ XX, khi chốn nước non này còn lặng lẽ, người ta bỗng
thấy một nhà thơ làm xôn xao cả văn đàn với một hồn thơ lãng mạn, bay bổng mà vẫn
đầy cảm thương, phong cách tài hoa, độc đáo mà vẫn giữ được cốt cách thơ ca dân tộc.
Với cái tơi ngơng nghênh, phóng khống của mình, nhà thơ mang túi thơ đi khắp cuộc
đời, sẻ chia với con người, với cuộc đời. Hồi Thanh từng nói về ơng: "Tiên sinh là người
của hai thế kỉ". Người ta còn gọi ông là dấu gạch nối giữa văn học truyền thống và văn
học hiện đại, là người "dạo bản đàn mở đầu cho một cuộc hịa nhạc tân kì đương sắp
sửa". Một trong những bài thơ tiêu biểu nhất cho cái tôi trong thơ Tản Đà ấy là “Hầu
Trời”. Thi phẩm được in trong tập “Còn chơi” xuất bản vào năm 1921 đã tạo nên ấn
tượng đặc biệt và khẳng định tài năng của nhà thơ.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
"Hầu Trời" là một bài thơ rất đặc sắc và độc đáo, độc đáo ở thi đề, độc đáo ở cảm
hứng, độc đáo ở nội dung bài thơ. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên
khá tự do, bên cạnh những khổ thơ bốn câu, tác giả đan xen vào những đoạn thơ sáu câu,
mười câu, mười hai câu... Chất tự sự được thể hiện đậm nét qua các yếu tố cốt truyện,
tình huống, nhân vật, lời kể… đã tạo nên một cấu tứ rất đặc biệt của tác phẩm này. Bài
thơ có cốt truyện là chuyện nhân vật chính cũng là tác giả - một thi sĩ được lên trời đọc
thơ. Sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và hiện thực được thể hiện rõ khi câu chuyện
hoàn toàn hư cấu, tưởng tượng, nhưng lại được kể với một giọng điệu say mê, tự nhiên và
rất bình dị tạo cảm giác rất chân thật. Câu chuyện ấy có thể tóm tắt lại qua ba sự việc theo
trật tự thời gian: trình bày lí do được lên Trời đọc thơ, cảnh tác giả đọc thơ đầy hào hứng
và thái độ ngợi ca, tán thưởng của Trời và các chư tiên, cuộc trò chuyện với Trời và cuộc
chia tay đầy lưu luyến, xúc động. Cấu trúc đa dạng ấy đã mở ra một không gian nghệ


thuật để Tản Đà bộc lộ cái tơi của mình, và cho nó "tung hồnh" nơi Thiên mơn đế
khuyết.
Chất ngơng thường được thể hiện bởi các nhà văn, nhà thơ có ý thức cao độ về cái
tài và cái tình. Với cái tài đó, họ mang ra phục vụ cho đời nhưng cũng là để "đóng dấu"
hình ảnh của mình với thời gian. Họ có thể ngơng bởi họ có tài, họ có cái để hãnh diện,
để thách thức với cuộc đời, với người đời và cũng bởi trong cuộc sống, mỗi con người họ
đã là một tính cách riêng, một sự phá cách không thể trộn lẫn với một người nào khác. Và
cái ngông ấy trong "Hầu Trời" đã tạo ra cho nhà thơ một cái tôi độc đáo.
2. Giới thiệu chuyện được lên trời
1


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Cách vào đề của "Hầu trời" cũng rất độc đáo, dẫn dắt độc giả vào thế giới thơ một
cách cuốn hút và gây ấn tượng người đọc ngay từ những câu thơ đầu.
Đêm qua chẳng biết có hay khơng,
Chẳng phải hoảng hốt, khơng mơ mịng.
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên – sướng lạ lùng
Nhà thơ như thủ thỉ tâm tình, kể cho độc giả nghe một câu chuyện vừa mới xảy ra
là sự việc “được lên tiên – sướng lạ lùng” vào đêm qua. Lên tiên hay “hầu trời” không
phải một ý tưởng mới mẻ trong văn học Việt Nam. Bởi trước đó trong văn học dân gian
mơ típ tương giao giữa thế giới của thần tiên, ma quỷ với thế giới của con người đã từng
xuất hiện rất nhiều trong văn học. Ví dụ như Cóc kiện trời, Từ Thức gặp tiên, Chuyện
người con gái Nam Xương hay Chuyện chức phán sự đền Tản Viên… Tuy nhiên khi đến
với “Hầu Trời”, người đọc vẫn bị thu hút bởi nhiều khía cạnh, một trong số đó chính là
cách vào truyện đầy độc đáo.

Trước hết, tác giả thể hiện sự băn khoăn không biết câu chuyện ấy là có thật hay
mộng, thực hay ảo. Rồi nhà thơ lại khẳng định câu chuyện diễn ra vào lúc không hoảng
hốt, khơng mơ mịng. Ơng cịn sử dụng bốn từ "thật" cho thấy cảm giác câu chuyện rất
thật và sự việc diễn ra mang lại cho tác giả cảm xúc rất thật là đầy thích thú, vui sướng.
Cách dẫn dắt câu chuyện của thi nhân như vậy khiến người ta tin đó là câu chuyện thật,
mà thật một cách đầy tự nhiên, chứ không hề gượng gạo. Cách mở đầu câu chuyện như
thế đầy khéo léo và duyên dáng, đến nỗi nhà thơ Xuân Diệu cũng trầm trồ, thán phục và
khẳng định đây là một trong số những bài thơ đứng lại được với thời gian, ngạo với năm
tháng. Và rồi từ lời giới thiệu độc đáo, hấp dẫn ấy, câu chuyện dần được mở ra.
3. Kể lại nguyên nhân được lên trời (Tóm lược phần tham khảo thêm)
Ngay sau đó, thi sĩ trình bày lý do được lên tiên cũng đầy lạ lùng. Đó là, trong đêm
khuya trăng sáng, lúc canh ba, nằm buồn một mình, tác giả ngồi dậy đun nước uống trà
rồi ngâm nga văn thơ. Bỗng thấy hai cô tiên xuống mời thi sĩ lên trời. Hóa ra, vì tiếng
ngâm thơ của thi sĩ vang cả sông Ngân Hà khiến Trời không ngủ được nên Trời mời thi sĩ
lên trời đọc thơ cho người nhà trời nghe. Câu chuyện có vẻ khó tin nhưng cách tác giả
giải thích đầy hóm hỉnh và tự nhiên khiến người đọc thấy được sự thú vị và dần tin vào
câu chuyện. Vậy khi lên nhà trời và đối diện với Trời, thi sĩ sẽ thể hiện đọc thơ như thế
nào?
4. Thi sĩ đọc thơ cho người nhà trời nghe và thái độ của người nhà trời
Cuộc đọc văn và bình văn nơi Thiên môn đế khuyết được Tản Đà kể lại thật sinh
động và hấp dẫn. Thính giả gồm có Trời và đông đảo chư tiên. Sau khi nghe lời truyền
bảo của Trời, văn sĩ cung kính thưa: "Dạ, bẩm lạy Trời, con xin đọc", thì cuộc đọc văn,
hình văn bắt đầu. Văn sĩ "Đọc hết văn vần sang văn xi”, hết văn thuyết lí lại văn chơi",
càng đọc càng "đắc ý", càng "tốt hơi", nhất là khi được nhấp giọng bằng "chè Trời".
Thính giả và văn sĩ trở thành bạn tri âm trong cuộc đọc văn, bình văn. Trời và chư tiên
2


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107

Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

đều say mê thưởng thức nghệ thuật. Văn sĩ cao hứng đọc "ran cung mây". Chuyến lên
trời đọc thơ của Tản Đà được kể lại đầy thú vị, hấp dẫn.
Song hành với việc thi sĩ đọc thơ là thái độ và cảm xúc của người nhà trời khi nghe
đọc thơ. Mỗi một cá nhân đều có một cảm xúc, cách thể hiện riêng. Trời với con mắt
xanh, với sự thẩm văn tinh tế đã dành cho văn sĩ lần đầu mới gặp những lời ngợi khen
quý giá. Trời cũng “lấy làm hay” thậm chí hứng chí “bật buồn cười”, rồi mở miệng ngọc
phê “Văn thật tuyệt”, khen ngợi: "Văn đã giàu thay lại lắm lối". Hàng loạt hình ảnh so
sánh đẹp đẽ nhất, tinh khiết nhất: sao băng, mây chuyển, tinh như sương, đầm như mưa
sa, lạnh như tuyết, được Trời và chư tiên dùng để diễn tả những vẻ đẹp đa dạng, phong
phú trong thơ văn Tản Đà. Đồng thời cho thấy niềm sây mê ngưỡng mộ của họ đối với thi
nhân. Sao Tâm thì vui sướng, thích chí như “nở dạ”, ngơi sao Cơ thì thấy thích thú, thán
phục mà “lè lưỡi” như trẻ con. Còn Hằng Nga, Chức Nữ vốn xưa nay nổi tiếng dịu dàng,
e lệ, kín kẽ khi nghe thơ của Tản Đà cũng khơng khỏi “chau đôi mày”, mặt ngọc ra chiều
ngẫm nghĩ cho thấu ý văn sâu sắc của thi nhân. Đến Song Thành, Tiểu Ngọc cũng “lắng
tai đứng” rất chăm chú nghe. Bên cạnh những cảm xúc riêng ấy thì chư tiên cùng có một
điểm chung ấy là đều rất tán thưởng nhiệt liệt nên “đọc xong mỗi bài đều vỗ tay”. Cách
kể chuyện mộc mạc tự nhiên, cách sử dụng ngôn từ, giọng điệu hóm hỉnh, tác giả đã làm
nổi bật phong cách "bình dân" của ơng Trời và các chư tiên, cùng với cái điệu bộ khúm
núm và "thật thà" của văn sĩ làm câu chuyện trở nên đầy thú vị, hấp dẫn.
Khơng chỉ đọc thơ mà văn sĩ cịn tự hào “báo cáo” với Trời về những tác phẩm của
mình đã được in. Thi sĩ có sức sáng tác dồi dào, sáng tác ở nhiều thể loại như văn thuyết
lí, văn chơi, tiểu thuyết, văn dịch…
Hai quyển Khối tình văn thuyết lí
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến quyển Lên tám nay là mười

Khi nghe thi sĩ kể về tác phẩm đã được in, các chư tiên đều ao ước, mong mỏi có
thể sở hữu những áng văn thơ ấy cho riêng mình để nghiền ngẫm nên tha thiết đề nghị:
“Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:
Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”.
Sự tán thưởng và cách người nhà trời gọi thi sĩ là “anh” càng xóa nhịa đi khoảng
cách và thân phận của bề trên với kẻ dưới, chỉ còn lại sự yêu mến tha thiết văn chương
của độc giả với người thi sĩ tài năng. Sự tán thưởng của người nhà trời với thơ Tản Đà
khiến ta nhận ra dường như đến với nghệ thuật, cái hay, cái đẹp của nghệ thuật là sợi dây
kết nối những tâm hồn nghệ sĩ với nhau, giữa chiếu văn chương khơng cịn người nhà
Trời với người trần, khơng cịn người bề trên với kẻ bề tơi, mà chỉ cịn quan hệ giữa tác
3


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

giả và độc giả. Hỏi đã có văn sĩ nào xưa nay được hưởng hạnh phúc, được đọc văn, đọc
thơ trước một thính giả nơi Thiên mơn đế khuyết như vậy?
Từ cách mà Tản Đà thuật lại việc lên trời đọc thơ, và thông qua những cung bậc
cảm xúc của chư tiên khi nghe người thi sĩ bộc lộ tài năng chúng ta có thể nhận thấy một
số nét phác họa bức chân dung của Tản Đà. Ông hiện lên là một con người rất tự tin, kiêu
hãnh về tài năng, nhận thức rất rõ về giá trị của cá nhân nên đã lên hẳn cõi tiên để thể
hiện tài năng. Và ở cõi tiên ấy, Tản Đà như được lột xác, được sống đúng với bản thân
mình, tự tin thể hiện tài năng của mình một cách thoải mái, tự nhiên. Trước Tản Đà các
nhà nho tài tử đều hết thảy thị tài nhưng chữ tài mà họ nói tới nhiều khi mang một nội
hàm khá rộng. Họ ít khi dám nói đến cái hay, cái "tuyệt" của thơ văn mình, nói gì đến
chuyện thể hiện và khẳng định tài năng của mình với Trời. Rõ ràng đến Tản Đà, ý thức cá
nhân ở nhà thơ đã phát triển rất cao độ.
Mặt khác, ý thơ đã hé lộ nỗi niềm cô đơn, lạc lõng của thi sĩ. Trong xã hội thực dân

nửa phong kiến ấy đã có mấy người tri âm hiểu và biết trân trọng những tác phẩm văn
chương của Tản Đà, bởi khơng thể tìm được sự tri âm, tri kỉ ở chốn đời thực nên phải tìm
tận đến trời để được đồng cảm, sẻ chia. Ơng khao khát tìm được tri âm để có thể thấu
hiểu tất thảy những tâm tư, tình cảm của mình và đây cũng là khát vọng chung của biết
bao nghệ sĩ đương thời.
Có thể nói, đoạn thơ kể chuyện lên trời đọc thơ của Tản Đà đã thể hiện rõ cảm
hứng lãng mạn của bài thơ. Giây phút lên tiên hay chính là giây phút thăng hoa trong
nghệ thuật của nhà thơ Tản Đà. Ở đó, người đọc cịn được chứng kiến một cái tơi cá nhân
ngơng nghênh, phóng túng, tự ý thức về tài năng, giá trị đích thực của mình và khao khát
được khẳng định giữa cuộc đời.
5. Cuộc trò chuyện với Trời
- Kể về thân thế: Sau cuộc đọc văn, bình văn là cuộc hầu chuyện với Trời của văn
sĩ: Để Trời hiểu rõ hơn về thơ văn của mình, Tản Đà đã "tâu trình" rõ ràng thân thế của
mình, phù hợp hồn tồn mạch chuyện:
"Dạ bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về Địa Cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt".
Tản Đà đã khai tên, họ theo một kiểu công khai lý lịch rất hiện đại, nêu rõ bản
quán, châu lục, tên hành tinh. Việc nêu tên mình vào thơ đã có ở thời trung đại, trong thơ
văn của một số tác giả có tài năng, có ý thức cao độ về cái tôi cá nhân như Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Du... Tiếp nối theo họ, Tản Đà khơng chỉ khoe tên,
q qn mà cịn ngầm khoe cả bút danh được lấy từ tên địa danh núi Tản, sơng Đà ở q
hương mình. Thế là, Tản Đà đã có sự gặp gỡ với các thi sĩ trung đại tài danh. Họ gặp
nhau ở một điểm cơ bản mà nếu như thiếu nó thì sẽ khơng thể "ngơng" được đó là cái tài,
cái tình và ý thức về cái tơi bản ngã của chính mình. Họ làm nên những phong cách nghệ
4


Chị Đẹp Dạy Văn

SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

thuật riêng độc đáo, nhưng ấn tượng đặc biệt, không thể nào phai trong lịng người đọc và
khơng lẫn với cái ngông của nhà thơ nào khác. Tản Đà là con người khoe tài, thị tài và rất
ngông. Nhưng ở đó, ơng khơng chỉ thể hiện ý thức cá nhân, niềm tự hào về bản thân, mà
còn thể hiện lòng u q hương, đất nước tha thiết, lịng tự tơn dân tộc sâu sắc.
- Thể hiện cái ngông và cảm hứng lãng mạn: Cái ngông của Tàn Đà không dừng
lại ở việc lên trời để thi thố tài năng, nêu tên họ, bút danh vào thơ mà ngông hơn, cá tính
hơn khi ơng nhận mình là "trích tiên" bị đày xuống hạ giới vì tội ngơng, khơng chỉ khẳng
định tài năng mà còn khẳng định thân phận khác thường, hơn người của mình. Thi sĩ
mượn lời người nhà trời để khẳng định mình được Trời trao cho sứ mệnh cao cả, sai
xuống hạ giới thực hiện "việc thiên lương của nhân loại":
"Trời rằng không phải Trời đày
Trời định sai con một việc này,
Là việc "thiên lương" của nhân loại
Cho con xuống thuật cùng đời hay".
Trong xã hội đương thời, Tản Đà nhận ra thiên chức của người nghệ sĩ là phải tìm
lại thiên lương. Văn sĩ phải gánh trọng trách đem "thiên lương"- giáo hoá người đời, để
trần gian tươi đẹp hơn, yên vui hơn, vươn đến cái chân- thiện- mỹ vốn đang bị mai một
như ông đã từng viết:
"Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ
Dám xin không phụ Trời trông mong"
Nhà thơ ý thức về nhân cách, một nhân cách vượt ra khỏi mọi sự ràng buộc về
danh lợi. Nó đối lập với cái xã hội bất cơng vụ lợi, chạy theo đồng tiền và danh lợi thời
bấy giờ. Có thể nói, kế thừa nét ngơng trong thơ truyền thống, song trong cái ngông của
Tản Đà không phải cái ngông lấy thú ăn chơi hưởng lạc làm trọng, mặc kệ được mất,
khen chê như Nguyễn Công Trứ. Cũng không phải cái ngơng trong việc đi tìm một phong
cách, một lối thể hiện riêng của người tôn thờ cái đẹp như Nguyễn Tuân sau này. Xét cho
cùng, cái ngông của Tản Đà chẳng qua là sự đối lập lại với cả xã hội bất công. Cái ngông

của Tàn Đà là cái ngơng của một người thốt li thực tại mà chìm đắm trong mộng: mộng
về cuộc đời, mộng về sự đổi thay, say để mộng, mộng để ngông với người đời. Nhìn
chung, thốt ra khỏi quan niệm "thi dĩ ngơn chí", Tản Đà thực sự thăng hoa trong thế giới
nghệ thuật, bộc lộ cảm xúc cái tự do cá nhân mới mẻ của riêng mình.
- Thổ lộ về tình cảnh nghèo khó: Nếu như đoạn thơ kể chuyện lên trời đọc thơ và
lời tự nhận mình là người nhà trời được sai xuống hạ giới để truyền bá thiên lương đầy
thăng hoa và thể hiện rõ cảm hứng lãng mạn thì đoạn thơ Tản Đà kể về tình cảnh của
mình cho trời nghe lại thể hiện rõ cảm hứng hiện thực. Điều đó cho thấy ơng cũng khơng
vì q thăng hoa mà thoát li hiện thực cuộc sống. Thi sĩ đã thưa với Trời về thân phận
mình cũng như bao văn sĩ khác bấy lâu nay dưới hạ giới. Vào thời đại của mình, Tản Đà
được biết đến là người đầu tiên đem “văn chương ra bán phố phường”. Nhưng sự đời
5


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

ngặt nghèo không dễ dàng như người ta tưởng, gia tài là bụng văn nhưng tấc đất khơng
có, nào giấy, nào mực, nào cửa hàng đều là đi thuê của người:
...Giấy người, mực người, thuê người in.
Mướn cửa hàng người bán phường phố.
Tình cảnh rất nghèo khó, khơng có một thước đất cắm dùi, kế sinh nhai ngày một
thêm chật vật. Trong khi đó, văn chương hạ giới lại rẻ mạt, lãi ít mà tiêu nhiều, học hành
thêm thì tuổi đã cao.
"Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu."
Khơng dừng lại ở đó, Tản Đà còn vạch ra thực tế phũ phàng: tài năng không thống

nhất với số phận, phải chịu cảnh “tài cao phận thấp chí khí uất”. Nhà thơ thiếu tri âm, tri
kỉ và bất hòa với cuộc đời. Cuộc sống khốn khổ vậy cịn nói gì đến việc truyền bá thiên
lương. Những câu thơ vì vậy thấm đậm cảm xúc ngậm ngùi, sự trăn trở về sứ mệnh của
kẻ cầm bút.
Khi nghe văn sĩ lo lắng thưa: "Trời lại sai con việc nặng quá - Biết có làm nổi mà
dám theo?" thì Trời đã động viên và hứa:
"Con khơng nói, Trời đã biết,
Trời dẫu ngồi cao, Trời thấu hết.
Cho con cứ về mà làm ăn,
Lịng thơng chớ ngại chi sương tuyết,
Cố xong công việc của Trời sai,
Trời sẽ cho con về đế khuyết…
Trời đưa đã động viên thi sĩ hết sức chân thành và lời động viên ấy cũng chính là
lời tự an ủi của nhà thơ với chính mình và các văn sĩ cùng thời. Đoạn thơ không chỉ cho
thấy cái “ngông”, sự tự tin, kiêu hãnh về giá trị của bản thân của Tản Đà mà đồng thời
cũng cho thấy ý thức trách nhiệm của thi sĩ với cuộc đời.
7. Cuộc tiễn đưa lưu luyến, trang trọng
Đoạn cuối bài thơ kể chuyện Trời sai Khiên Ngưu đóng xe đưa trích tiên trở lại
trần gian. Cuộc tiễn đưa của chư tiên vừa lưu luyến, vừa trang trọng: "Hai hàng lụy biệt
giọt sương rơi". Khi trăng tà non Đoài, tiếng gà gáy xao xác, nhà thơ đã về tới sân nhà,
cảm thấy cô đơn và ngậm ngùi. Vừa tiếc rẻ, vừa mong ước:
Giữa sân còn đứng riêng ngậm ngùi.
Một năm ba trăm sáu mươi đêm,
Sao được đêm đêm lên hầu Trời!
Bài "Hầu Trời" như một truyện cổ tích được viết bằng thơ. Nhân vật Trời và các chư
tiên rất giản dị, bình dân, thân mật và dễ mến. Bài thơ cho ta thấy Tản Đà có một trí
tưởng tượng phong phú, một vốn từ ngữ giàu có, nhất là khi ông nói về Trời, về các chư
6



Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

tiên và cách sống của họ. Đoạn thơ nói về cuộc đọc văn và bình văn, về ngơn ngữ đối
thoại giữa văn sĩ với Trời và các chư tiên được kể lại rất sinh động và lí thú. Có lúc chúng
ta cảm thấy cuộc bình văn hình như đang diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật nơi cõi đời
mà mình từng được tham dự.
III. KẾT LUẬN
"Hầu Trời" là một bài thơ độc đáo và đặc sắc, tuy khá dài nhưng bố cục chặt chẽ,
giọng thơ liền mạch, nhất khí, cảnh và tình rất tự nhiên, diễn biến theo câu chuyện, lôi
cuốn người đọc từ đầu đến cuối. Bài thơ trường thiên, có vẻ q dài nhưng chính điều đó
lại tạo cho bài thơ giàu yếu tố tự sự, giúp ta cảm nhận thêm chất tài tử, tài hoa và cái
ngông của Tản Đà thi sĩ. Tác phẩm đã thành công khi thể hiện cái tôi cá nhân đầy dấu ấn,
táo bạo, mãnh liệt. Thi sĩ mượn lời của trời để thể hiện tài năng bản thân với cảm xúc
được bộc lộ rất thoải mái. Ngôn ngữ gần gũi đời thường ít ước lệ quy phạm mà giàu sức
gợi hình gợi cảm. Lối kể chuyện hấp dẫn, giọng kể bình dân, khơi hài, hóm hỉnh mà có
dun đưa người đọc vào câu chuyện rất tự nhiên, lôi cuốn. Đáng chú ý nữa là hiện tượng
chia khổ, các khổ có độ dài khác nhau tạo nên cảm xúc tự do và nét mới trong thơ văn.
Bài thơ giúp ta nhận thấy ở thi sĩ tính cách của một nhà Nho tài tử, đa tình, ngơng
và xê dịch, thấy cả một cái tơi lãng mạn nhưng cũng rất hiện thực. Nguyên tắc tôn trọng
dòng chảy tự nhiên, sống động của cảm xúc cá nhân, cá thể của thơ cho phép nhà thơ
thoát khỏi những ràng buộc quá khắt khe về hình thức để tự do vẫy vùng thể hiện tư
tưởng tình cảm của mình. Cái cũ và mới, xưa và nay đan xen đưa Tàn Đà trở thành người
nối kết hai thời đại thi ca đúng với nhận xét của Xuân Diệu “Chủ nghĩa lãng mạn với cá
thể đã bật nứt ra trong văn học Việt Nam những năm đầu của thế kỉ XX bằng Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu”. Và đến nay, ta hồn tồn có thể khẳng định Tản Đà là ngôi sao sáng
với vẻ đẹp rất riêng trên bầu trời văn học Việt Nam.
LUYỆN ĐỀ
Đề bài: Quá trình hiện đại hóa văn học thể hiện trong bài “Hầu Trời” của Tản Đà.
I. MỞ BÀI

Nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng ln gắn bó mật thiết với những biến
chuyển của xã hội, của đời sống con người. Những tác phẩm văn học chân chính xưa nay
đều bắt rễ sâu xa từ xã hội, làm nên một diện mạo mới cho văn học theo khuynh hướng
thời đại. Vào những năm đầu thế kỉ XX, tình hình xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Văn học cũng phải thay đổi theo xu thế xã hội và bắt đầu quá trình hiện đại hóa.
Dấu ấn của q trình chuyển từ cái cũ sang cái mới, từ phạm trù trung đại sang
phạm trù hiện đại thể hiện rõ qua thơ văn Tản Đà mà đặc biệt qua bài thơ “Hầu Trời”.
II. THÂN BÀI
7


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

1. Khái quát
- Khái niệm văn học hiện đại: Thoát khỏi ảnh hưởng của thi pháp trung đại vốn
chịu ảnh hưởng từ văn học Trung Quốc để chuyển sang chịu ảnh hưởng của văn hóa, văn
học phương Tây ở cả phương diện nội dung và hình thức tác phẩm văn học.
- Q trình hiện đại hóa văn học Việt Nam: được diễn ra và hồn tất trong vịng
45 năm đầu thế kỷ XX và qua ba giai đoạn chính mà mỗi giai đoạn sẽ để lại dấu ấn riêng.
Giai đoạn thứ nhất diễn ra từ đầu thế kỷ XX đến khoảng năm 1920, là giai đoạn chuẩn bị
cho công cuộc hiện đại hóa, đã có cái mới song vẫn cịn nhiều cái cũ. Giai đoạn thứ hai
diễn ra từ năm 1920 đến năm 1930, đây là giai đoạn quá trình hiện đại hóa đạt được
những thành tựu đáng kể và tạo được dấu ấn rõ rệt, cái cũ còn rất ít và đã nghiêng nhiều
về cái mới. Giai đoạn ba diễn ra từ năm 1930 đến năm 1945, là giai đoạn hồn tất q
trình hiện đại hóa và từ đây văn học Việt Nam chính thức trở thành văn học hiện đại.
Trong đó Tản Đà và thơ văn của ơng tiêu biểu cho q trình hiện đại hóa văn học thứ hai,
tức là thơ văn Tản Đà vừa có dấu ấn của cái cũ những đã mang dấu ấn của cái mới và
ngiêng về cái mới. Bởi vậy nên ông được mệnh danh là người của hai thế kỉ, là dấu gạch

nối giữa thơ văn trung đại và thơ văn hiện đại. Tản Đà được đánh giá là nhà thi sĩ thứ
nhất đã cho chúng ta nghe những khúc giáo đầu đặc biệt tài hoa, những khúc giáo đầu của
thơ hiện kim, của thơ mới (Xuân Diệu).
2. Dấu ấn trung đại trong bài thơ “Hầu trời”
- Tản Đà là một nhà Nho mang tư tưởng học vấn của cửa Khổng sân Trình, ln tự ý thức
về tài năng, nhân cách, giá trị đích thực của mình => Phong cách nhà nho tài tử, ngông.
- Cảm hứng lên tiên vốn đã được thể hiện trong nhiều tác phẩm văn học dân gian và văn
học Trung đại như “Từ Thức gặp tiên”, “Người con gái Nam Xương”…
- Hình thức nghệ thuật: Thể thơ thất ngôn trường thiên vốn là thể thơ Trung đại.
3. Dấu ấn hiện đại trong bài thơ “Hầu trời”
3.1. Dấu ấn hiện đại hóa thể hiện ở nội dung
* Vẻ đẹp của "cái tơi" ngơng, phóng túng, khao khát được khẳng định mình giữa cuộc
đời (Cảm hứng lãng mạn)
- Đó là sự giàu tưởng tượng, duyên Hầu Trời gắn với những phút cao hứng, thăng
hoa, trong sáng, niềm hạnh phúc có thể sánh với truyện gặp Tiên.
“Đêm qua chẳng biết có hay khơng
Chẳng phải hoảng hốt, khơng mơ mộng
Thật hồn! phậch pách! thật thân thế
Thật được lên tiền sướng lạ lùng”.
Tác giả dường như không nhận thức được chuyện xảy ra “đêm qua”. Đó là thực,
hay là mơ, hay là tưởng tượng? Nhưng dù sao, dù thế nào thì cũng rất thăng hoa sung
sướng đến lạ lùng. Đó là truyện được Hầu Trời, gặp được tiên để tìm tri âm, tri kỷ cho
mình. Trong sự thanh thản của con người dường như khơng cịn bận bịu gì với việc trần
thế, uống nước, ngâm câu thơ hay, đó đã lay động đến trời làm trời không ngủ được.
8


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn


Tiếng ngâm thơ mà “vang cả sông Ngân Hà”. Cái tơi bắt đầu được bộc lộ từ đây. Đó là
cái tơi tài năng đấy tơi thanh thản đi tìm hạnh phúc đó là sáng tạo thơ ca cho người tri kỷ.
- Dấu ấn “hiện đại hóa” trong Hầu Trời cịn là ý thức về tài năng, khát vọng rất
nghệ sĩ mà đầy kiêu hãnh. Đọc bài thơ là một phương thức giải sầu, tìm kiếm tri kỷ và chỉ
có trời, chư tiên là kẻ tri âm mới thấy văn hay và tán thưởng.
“Văn dài hơi tốt ran cung mây
Trời nghe, trời cũng thấy làm hay
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức nữ chau đôi mày
Tông thành Tiểu Ngọc lắng tay đứng
Đọc xong mỗi bài cũng vỗ tay”.
Chỉ là văn của người hạ giới, nhưng đã làm rung động cả Đấng Tạo hóa siêu nhiên.
Đó chính là sự khẳng định cái tài của bản thân của cái tôi một cách mãnh liệt. Đó cũng là
dấu ấn của “hiện đại hóa”, trong cách suy nghĩ về bản thân.
- Dấu ấn hiện đại hóa cịn được thể hiện ở việc ý thức sâu sắc về bản thân xứng
danh gắn niềm kiêu hãnh cá nhân, với lịng tự trọng tự tơn dân tộc. Khi được trời gọi lên
văn sĩ sẵn sàng giới thiệu về mình, về tài của mình và cả nơi. “chơn rau cắt rốn của
mình”.
“Dạ bẩm lạy trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á Châu về địa cầu
Sơng Đà núi tản, nước nam Việt”.
Đó là một cái tơi đầy mạnh dạn, cá tính, ln ln đề cao cái tôi, cái bản ngã khác
hẳn với thơ Xưa. Đoạn thơ chính là niềm tự hào về quê hương niềm tự hào đó cũng chính
là điều đáng kể cho đấng tối cao là ông trời.
- Hơn nữa việc ý thức sâu sắc về bản thân còn là sự khẳng định tài năng và sứ
mệnh của bản thân. Tự xem mình là “trích tiên” bị đày xuống hạ giới vì tội “ngơng”,
nhận mình là người nhà trời, được sai xuống hạ giới thực hiện sứ mệnh cao cả là thực
hành thiên lương.

Nghe xong trời ngộ một lúc lâu
Lại bảo thiên tào lấy sổ xét
Thiên tào tra sổ xét vừa xong
Đệ sổ lên trình thượng đế trơng
Bấm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đầy xuống hạ giới vì tội ngơng
Trời rằng không phải là trời đầy
Trời định sai con một việc này
Là việc Thiên Lương của nhân loại
Cho con xuống thuật cùng đời hay”.
9


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107
Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

Cái tôi Tản Đà là một vị thần là con trời ban xuống hạ giới. Nói “Ban” chứ khơng
nói “đầy”, bởi chính trời cũng đã nói “khơng phải trời đầy”. Tản Đà xuống đến trần gian
là lo cho cái thiên lương của con người, làm cho “thiên lương” được Hưng thịnh dưới hạ
giới. Cái tôi ý thức bản thân quả thực là một điều mới mẻ mà trước kia ta khó tìm thấy
trong thơ ca cổ.
* Dấu ấn của hiện đại hóa cịn được thể hiện qua cảm hứng hiện thực
- Cảm hứng hiện thực bộc lộ rõ trong lời tâm sự chân thành về cuộc sống thực tại
nghèo khó, văn chương hạ giới rẻ mạt, hàm chứa một sự khiêu khích nhất định đối với
cái nhìn đầy thành kiến về thang bậc, giá trị của con người trong xã hội.
“Bấm Trời cảnh con thực tế khó
Trần gian thước đất cũng khơng có
Nhờ trời năm xưa học ít nhiều
Vốn liếng cịn một bụng Văn đó

Giấy người, mực người, th người in
Mướn cửa hàng người bán phường phố
Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
Kiếm được thời ít, tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu…”.
Cuộc sống đã nghèo khổ cuộc sống của các văn sĩ càng cùng cực hơn. Ngay đến cả
nghèo khó thi sĩ cũng dám thổ lộ, cho thấy một sự cách tân độc đáo, mới mẻ. Đây là điều
khác hẳn với cốt cách tao nhã, coi thường vật chất của các nhà Nho xưa.
3.2. Dấu ấn hiện đại hóa thể hiện qua phương diện nghệ thuật
- Bài thơ tạo được một tình huống lạ lùng thú vị đó là tình huống hư cấu Hầu Trời
rất hợp lý khi gắn liền với văn thơ và giây phút thăng hoa của người nghệ sĩ sáng tạo. Tác
giả đã lựa chọn và sắp đặt các chi tiết hư cấu, hợp lý, tạo thành câu chuyện như thật.
Ngồi ra đó là việc dụng cơng tả cảnh, dựng đối thoại, miêu tả tâm lí nhân vật để tạo sức
thuyết phục.
- Thể thơ: thất ngôn trường thiên => dù là thể loại cũ nhưng không bị ràng buộc
bởi kết cấu qui phạm nên mạch cảm xúc được bộc lộ phóng túng, tự nhiên. Hơn nữa,
cách chia khổ thơ dài ngắn không đều cũng là một cách để thể hiện cảm xúc một cách tự
do hơn.
- Ngôn ngữ: gần gũi với ngôn ngữ đời thường, không cách điệu mà gợi cảm, tinh tế
Sự kết hợp tính chất tự sự và trữ tình độc đáo: Tác giả hiện diện trong bài thơ với tư cách
người kể chuyện đồng thời là nhân vật chính => cảm xúc tự do, linh hoạt, tạo điều kiện
cho cái tôi được bày tỏ.
4. Đánh giá

10


Chị Đẹp Dạy Văn
SĐT: 0975.243.107

Fanpage & Insta: Chị Đẹp Dạy Văn

- Cái cũ và cái mới, phạm trù trung đại và hiện đại đan xen đưa Tản Đà thành
người nối kết hai thời đại thi ca, trở thành ngôi sao sáng mang vẻ đẹp rất riêng trong lịch
sử văn học dân tộc.
- “Hầu trời” của Tản Đà là một căn cứ quan trọng để ta xác định tính chất giao thời
của văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. Có Tản Đà ta mới nhận ra mạch thi
hứng chuyển dần từ trung đại sang hiện đại của thơ ca Việt Nam.

11



×