MỞ ĐẦU
Đảng và nhà nước ta xác định “ Giáo dục là quốc sách hang đầu” có mục
đích đó là: nâng cao dân trí, phát triển nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Góp phần
quan trọng vào phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa con người Việt nam.
Quản lý giáo dục là một khoa học. Khoa học Quản lý giáo dục ở nước ta hiện
nay vẫn đang là một vấn đề mới, đang hình thành và phát triển, nhưng chưa
hồn chỉnh. Trong thực tiễn, đã có một số tác giả đã nghiên cứu một số cơng
trình có liên quan đến chuyên ngành khoa học này, như: Nguyễn Kỳ, Bùi Trọng
Tuân, Nguyễn Gia Quý, Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Quốc Trí, Hà Sỹ Hồ, Hà Thế
Ngữ, Nguyễn Ngọc Quang. Đây được coi như là những viên gạch góp phần xây
dựng và hoàn thiện chuyên ngành khoa học quản lý giáo dục cho đến hiện nay.
Để góp phần từng bước cải tiến công tác QLGD xây dựng hệ thông quản
lý giáo dục mới trên cơ sở khoa học, vừa tuân theo những quy luật của xã hội
học- giáo dục, vừa tuân theo những quy luật của khoa học tổ chức và quản lý, có
khả năng tổ chức và điều khiển hệ thống giáo dục quốc dân. Đồng thời để giúp
cho các trường Đại học, Cao đẳng sư phạm, Cán bộ QLGD các cấp, các Nghiên
cứu sinh, Học viên Cao học…tham khảo và làm tài liệu học tập nghiên cứu.
Trên cơ sở kế thừa thành tựu của các nhà khoa học đi trước và đồng nghiệp,
đồng tác giả Trần Kiểm - Nguyễn Xuân Thức viết Giáo trình Đại cương Khoa
học quản lí và quản lí giáo dục và đã được nhà xuất bản Đại học Sư phạm ấn
hành năm 2012. Cuốn sách được biên soạn có kế thừa, tiếp thu và lựa chọn các tri
thức trong các tài liệu của những tác giả trước đó và được sắp xếp lại ở một số
đơn vị tri thức cho phù hợp khi giảng dạy, tránh sự trùng lặp về tri thức giữa các
phần và với các chuyên đề quản lý chuyên sâu. Quyển sách dày trên 227 trang,
bao gồm 5 chương, danh mục các công trinh tham khảo và một lời tựa ngắn do
chính tác giả viết, nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển chuyên ngành khoa học
quản lí giáo dục, mặc dù bối cảnh học thuật và kinh tế cịn nhiều khó khăn. Đây là
cuốn sách chuyên khảo dùng cho các trường đại học sư phạm, cao đẳng sư phạm,
cán bộ quản lý giáo dục, nghiên cứu sinh, học viên cao học làm cơ sở cho quá
trình nghiên cứu, giảng dạy, học tập, tham khảo cả về mặt lý luận và thực tiễn.
1
NỘI DUNG
Trong tác phẩm này, tác giả Trần Kiểm và Nguyễn Xuân Thức, đã khái
lược sự ra đời của một chuyên ngành khoa học mới, dù chưa hoàn chỉnh, trong
lĩnh vực giáo dục ở Việt Nam. Tác giả đã cố gắng tổng hợp, đối chiếu những học
thuyết lí luận chủ đạo vào thực tiễn giáo dục nhằm xây dựng một mơ hình mới
cho khoa học quản lí giáo dục Việt Nam.
Chương một có tựa đề: “Quản lý là một khoa học” với những khái niệm
chung về quản lí, về đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu khoa học
quản lý; Đặc điểm của khoa học quản lý; Sự phát triển các tư tưởng quản lý.
Trong chương thứ hai: “Khái qt về quản lý” gồm 3 nội dung chính: Vai
trị của quản lý; Quản lý và những khái niệm liên quan; Chức năng quản lý. Trong
vai trò của quản lý tác giả đã làm rõ vai trò của quản lý đối với sự phát triển của
xã hội, vai trò của quản lý đối với các hoạt động và hoạt động lao động của các tổ
chức xã hội, quản lý nhằm bảo đảm kỷ cương trật tự của các bộ máy tổ chức và
xã hội. Sau đó tác giả đã đưa ra khái niệm chức năng quản lý, ý nghĩa của chức
năng quản lý, phân loại chức năng quản lý.
Chương ba, có tựa đề là “Đại cương về quản lý giáo dục”. Chương này tác
giả nêu ra các định nghĩa và phân tích nội hàm của “quản lý giáo dục”, bản chất
quản lý giáo dục, các yếu tố của quản lý giáo dục, các nguyên tắc quản lý giáo
dục, các chức năng quản lý giáo dục, thông tin trong quản lý giáo dục, phương
pháp và công cụ quản lý giáo dục.
Chương bốn của quyển sách được dành trọn cho vấn đề đổi mới quản lí
giáo dục. Ở chương này tác giả trình bày các xu thế đổi mới giáo dục và quản lí
giáo dục. Một kinh nghiệm thực tiễn được tác giả nêu ra trong phần này, đó là
vấn đề xã hội hố giáo dục ở Cẩm Bình, nơi ơng xem là mơ hình kiểu mẫu của
cộng đồng giáo dục cấp xã trong cả nước. Đồng thời tác giả làm rõ thách thức và
thời cơ đối với giáo dục và quản lý giáo dục, đổi mới quản lý giáo dục ở nước ta
bao gồm đổi mới về tư duy giáo dục, nội dung đổi mới giáo dục. Đoạn kết
chương mô tả một vài hướng tiếp cận hiện đại về quản lí áp dụng cho giáo dục,
2
các mơ hình quản lý chất lượng giáo dục, mà tác giả gọi là “quản lý chất lượng
tổng thể trong giáo dục” và “quản lý dựa vào nhà trường”, chủ yếu dành cho các
nhà quản lí giáo dục nhằm giúp họ vận dụng vào cơng việc của mình.
Chương năm mang tựa đề “Nhà trường. Lãnh đạo và quản lý hoạt động
giáo dục trong nhà trường”. Ở chương này tác giả tập trung làm rõ nôi dung
chủ yếu về các vấn đề: nhà trường, sự phát triển của nhà trường qua các thời kì
lịch sử, các loại nhà trường, bản chất của nhà trường, các chức năng của nhà
trường trong thời kì hội nhập, nhà trường tự chủ và tự chịu trách nhiệm, lãnh
đạo nhà trường và quản lí nhà trường, các kĩ năng lãnh đạo và quản lí của hiệu
trưởng nhà trường, lãnh đạo và quản lí các hoạt động giáo dục trong nhà trường,
quản lí phát triển giáo viên, nhà trường hiệu quả.
Chúng ta thấy rằng trong từng chương, tác giả đã đề cập đến từng khía
cạnh, nội dung của khoa học quản lý giáo dục. Bản thân xin được tập trung làm
rõ nội dung chương III của cuốn sách với tựa đề “Đại cương về quản lý giáo
dục”, trong đó tác giả đã xác định rõ các chức năng quản lý giáo dục.
Vấn đề số lượng các chức năng quản lý giáo dục đã có nhiều tác giả nghiên
cứu và có nhiều ý kiến khơng giống nhau. Ở đây tác giả đã nghiên cứu và đưa ra 4
chức năng chủ yếu, đó là: chức năng kế hoạch hố trong quản lý giáo dục, chức
năng tổ chức trong quản lý giáo dục, chức năng điều khiển (chỉ đạo thực hiện)
trong quản lý giáo dục, chức năng kiểm tra trong quản lý giáo dục. Trong nội
dung của bài thu hoạch bản thân xin làm rõ chức năng kế hoạch hóa trong quản lý
giáo dục của tác giả Trần Kiểm – Nguyễn Xuân Thức:
1. Nhận thức chung chức năng kế hoạch hóa trong quản lý giáo dục:
Chức năng kế hoạch hố trong quản lý giáo dục bao gồm việc xây dựng
mục tiêu, chương trình hành động, xác định từng bước đi, những điều kiện
nguồn lực, phương tiện cần thiết trong thời gian nhất định của cả hệ thống quản
lý và bị quản lý.
Là hành động đầu tiên để thực hiện một chủ trương (chương trình, dự án)
của người quản lý, là việc làm cho tổ chức phát triển theo kế hoạch. Đây là căn
3
cứ mang tính pháp lý quy định hành động của cả tổ chức trong quá trình quản lý.
Chức năng kế hoạch hoá phối kết hợp với các chức năng tổ chức, điều hành,
kiểm tra làm cho quá trình quản lý giáo dục đạt theo mục tiêu yêu cầu đã xác
định.
Kế hoạch hố chính là nhiệm vụ cốt yếu của người quản lý, đó là làm thế
nào để mọi người biết nhiệm vụ của mình, biết phương pháp hoạt động nhằm
thực hiện có hiệu quả mục tiêu của tổ chức; đó chính là chức năng kế hoạch hố
của nhà quản lý. Kế hoạch hoá bao gồm từ xây dựng mục tiêu, chương trình
hành động, xác định từng bước đi, những điều kiện, phương tiện cần thiết trong
một thời gian nhất định của cả hệ thống quản lý và bị quản lý. Chức năng này đề
cập tới hai vấn đề là: các loại kế hoạch và việc lập kế hoạch trong giáo dục.
2. Các loại kế hoạch giáo dục
Tác giả chỉ ra có 4 cách phân loại chủ yếu:
Thứ nhất: Dựa vào yếu tố thời gian có: Kế hoạch dài hạn 10 - 15 năm
(như Kế hoạch chiến lược, Chiến lược giáo dục); Kế hoạch trung hạn 5 - 7 năm;
Kế hoạch ngắn hạn 1 - 2 năm (kế hoạch năm học).
Thứ hai: Dựa vào quy mơ quản lý, có: Kế hoạch tổng thể (Kế hoạch đổi
mới giáo dục phổ thông); Kế hoạch bộ phận (Kế hoạch đổi mới giáo dục tiểu
học).
Thứ ba: Dựa vào nguồn lực giáo dục, có: Kế hoạch xây dựng cơ sở vật
chất; Kế hoạch quản lý tài chính; Kế hoạch phát triển đội ngũ
Thứ tư: Dựa vào hoạt động giáo dục, có:Kế hoạch dạy học; Kế hoạch hoạt
động ngoài giờ lên lớp
Sự phân chia trên đậy cũng chỉ là tương đối (chẳng hạn như Chiến lược
giáo dục cũng có thể được gọi là Kế hoạch tổng thể, cũng có thể coi là Kế hoạch
chiến lược.
3. Lập kế hoạch trong giáo dục.
a. Vị trí, vai trị
4
Tác giả đã làm rõ việc lập kế hoạch trong quản lý nói chung cũng như
trong giáo dục nói riêng có vai trị rất quan trọng, là tất yếu khách quan, cả ở
tầm vĩ mơ cũng như vi mơ, vì:
Nó đảm bảo cho khả năng ứng phó với sự bất định và sự thay đổi (Giáo
dụa và quản lý giáo dục luôn chịu sự chi phối của các nhân tố bên trong và bên
ngoài. Những thay đổi về số, chất lượng liên quan đến giáo viên, học sinh, sinh
viên; tác động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, sự mở cửa
hội nhập; những mặt tích cực và tiêu cực của xã hội; thiên tai là những biến đổi
khó lường. Những tác động này có ảnh hưởng tác động đến giáo dục và quản lý
giáo dục; vì vậy nó làm cho việc lập kế hoạch trở thành tất yếu khách quan,
Chính thơng qua lập kế hoạch đã làm cho nhà quản lý dự báo được xu thế vận
động thơng qua cơng tác quản lý của mình.
Thơng qua việc lập kế hoạch, cho phép nhà quản lý tập trung sự chú ý vào
các mục tiêu, đặc biệt là mục tiêu ưu tiên: Thực chất của việc lập kế hoạch là
nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức, đó cũng là mục tiêu của hoạt động quản lý.
Chính việc lập kế hoạch sẽ giúp nhà quản lý có cái nhìn tổng thể, tồn diện, qua
đó thấy được hoạt động tường tác giữa các bộ phận, cũng như có thể nhìn thấy
tương lai, hướng vào mục tiêu đã xác định.
Thơng qua lập kế hoạch giúp nhà quản lý lựa chọn những phương án tối
ưu, tiết kiệm nguồn nhân lực, tạo hiệu quả hoạt động cho toàn bộ tổ chức. Đảm
bảo sự hoạt động theo kế hoạch, tránh tuỳ tiện, tản mạn, rời rạc, vội vàng, thiếu
cân nhắc.
Thông qua việc lập kế hoạch để tạo điều kiện cho việc kiểm tra dễ dàng, đảm
bảo có mục tiêu xác định để đo lường, quản lý có kế hoạch và theo kế hoạch.
Trên đây là bốn lý do để khẳng định tầm quan trọng của việc lập kế hoạch, điều
kiện tiên quyết của bất kỳ nhà quản lý cấp nào cũng như đối với cơ sở giáo dục
b. Những đặc điểm của việc lập kế hoạch:
Nhà quản lý cần phải đặt trọng tâm vào tư duy và hành động mang tính chiến
lược, đó là tư duy mang tính tồn cục, cơ bản, xun suốt quá trình quản lý.
5
Lập kế hoạch phải chú trọng vào tương lai, trong đó có cả tương lai gần
và tương lai xa. Tương lai gần là những nấc thang đến tương lai xa, trong đó đặc
biệt cần xác định đúng, chuẩn xác tương lai gần (năm học), từ đó làm cơ sở cho
việc hoạch định, dự báo chuẩn xác tương lai xa (cấp học, bậc học).
Kế hoạch phải định hướng hoạt động của cả nhà quản lý và của tổ chức
vào các kết quả đạt được, đây chính là cái đích của tồn bộ tổ chức trong đó có
nhà quản lý.
Kế hoạch phải thể hiện tập trung sự quan tâm về nguồn lực vào các vấn đề
bức xúc nhất mà tổ chức đang quan tâm (ví dụ như chất lượng giáo dục là vấn
đề bức xúc buộc nhà quản lý các cấp đều phải quan tâm và dành mọi nguồn lực
cho nó).
Kế hoạch cần phải quan tâm đến quan hệ hợp tác. Đây cũng là sự thể hiện
rõ giáo dục - một hoạt động mang đậm tính chất xã hội - xã hội hố cơng tác
giáo dục.
c. Các bước của việc lập kế hoạch giáo dục
Đây là những bước mang tính kỹ thuật, giúp nhà quản lý dễ dàng thực
hiện chức năng kế hoạch hóa. Cụ thể:
Bước một: Nhận thức đầy đủ về yêu cầu của cấp trên thông qua những chỉ
thị, nghị quyết.
Bước hai: Phân tích trạng thái xuất phát của đối tượng quản lý. Để làm
việc này, thường người ta dung phương pháp phân tích theo SWOT, nghĩa là
phải thấy được những điểm mạnh, điểm yếu, thời cơ và nguy cơ.
Bước ba: Xác định nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện kế hoạch. Đây
là điều kiện làm cho kế hoạch khả thi, Nguồn lực giáo dục có hai dạng: nguồn
lực bên trong và nguồn lực bên ngoài. Nhưng quan trọng hơn là nguồn lực bên
trong, bởi chỉ khi nội lực bên trong mạnh mới có khả năng tiếp nhận và sử dụng
có hiệu quả nguồn lực bên ngồi.
Bốn là: Xây dựng “Sơ đồ khung” của việc lập kế hoạch, nhất là kế hoạch
chiến lược. Kế hoạch khung bao gồm các yếu tố cơ bản sau: Xác định mục đích;
6
xác định mục tiêu; xác định được các chuẩn đo đạc kết quả; xây dựng kế hoạch
chiến lược và các chương trình hành động.
4. Ý nghĩa trong quản lý giáo dục ở các học viện, nhà trường quân đội
hiện nay.
Qua nghiên cứu cuốn sách giáo trình Đại cương khoa học quản lý và quản
lý giáo dục của Trần Kiểm – Nguyễn Xuân Thức nói chung và chương 3 “Đại
cương về quản lý giáo dục” nói riêng, cụ thể là chức năng Kế hoạch hóa bản
thân nhận thấy nó rất ý nghĩa đối với công tác lập kế hoạch và thực hiện kế
hoạch giáo dục và quản lý giáo dục trong các học viện, nhà trương quân đội hiện
nay:
Tài liệu đã cung cấp những luận cứ có tính phương pháp luận khoa học, luận
giải những vấn đề cơ bản về khóa học quản lí và quản lý nhà nước về giáo dục,
trong giai đoạn phát triển mới của đất nước theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa; hợp tác và mở rộng quan hệ quốc tế.
Là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân, các Nhà trường quân đội
trong thời gian qua mặc dù đạt được nhiều kết quả trong công tác chuyển đổi cơ
chế quản lý nhà nước về giáo dục – đào tạo theo hướng đổi mới, coi trọng chất
lượng, tiến tới chuẩn hoá các tiêu chuẩn về quản lý, nâng cao chất lượng mọi mặt
đáp ứng với yêu cầu xây dựng quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng
bước hiện đại”.
Quản lý giáo dục trong quân đội là một bộ phận hữu cơ của hệ thống quản
lý giáo dục quốc dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, mà
trực tiếp là Đảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng. Sự lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng đối với nhiệm vụ quản
lý giáo dục - đào tạo thông qua hệ thống cơ quan chức năng và đội ngũ cán bộ
quản lý giáo dục các cấp trong toàn quân. Những nội dung cụ thể về quản lý nhà
nước đối với nhiệm vụ giáo dục - đào tạo trong quân đội được Bộ Quốc phịng
quy định rất rõ trong Điều lệ cơng tác nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam.
Vì vậy, quản lý giáo dục trong quân đội mang đầy đủ vị trí ý nghĩa, bản chất,
nguyên tắc, phương pháp, chức năng…như quản lý giáo dục nói chung. Tuy
7
nhiên, do đặc điểm, tính chất, chức năng, nhiệm vụ của quân đội quy định, nên
quản lý giáo dục trong quân đội có những nét đặc thù riêng.
Trong những năm qua, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng uỷ
Quân sự Trung ương và Bộ Quốc Phòng, hoạt động giáo dục - đào tạo và công
tác quản lý giáo dục, xây dựng nhà trường quân đội đã phát triển đúng đường
lối, chủ trương của Đảng, phù hợp với tính đặc thù quân sự, có tiến bộ về mọi
mặt; cơ bản đạt được mục tiêu, yêu cầu về số lượng, từng bước nâng cao chất
lượng đào tạo đội ngũ cán bộ, hạ sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật, góp
phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu
của quân đội ta. Đối với hoạt động quản lý giáo dục - đào tạo đã đạt được những
kết quả rất quan trọng.
Hệ thống nhà trường quân đội được củng cố thêm một bước, hình thành
các bậc học, ngành học tương đối hoàn chỉnh, đáp ứng được yêu cầu cơ bản về
đào tạo cán bộ, hạ sĩ quan, nhân viên chuyên môn kỹ thuật cho quân đội.
Hệ thống cơ quan công tác nhà trường được củng cố, kiện toàn từ Bộ đến
các cấp quản lý các học viện, nhà trường tồn qn.
Cơng tác quản lý, điều hành quy trình đào tạo và các mặt hoạt động khác
của các trường đã đi vào nền nếp; các văn bản quy định, quy chế về quản lý giáo
dục - đào tạo được xây dựng và hoàn thiện ngày càng đầy đủ hơn.
Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục bước đầu được kiện tồn, cịng cố, đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, nhất là trình độ về quản lý giáo dục.
Phương tiện kỹ thuật hiện đại, nhất là công nghệ thông tin phục vụ công
tác quản lý, phòng điều hành huấn luyện, phòng học chuyên dụng, thư viện…
ngày càng được quan tâm đầu tư, nâng cấp.
Nâng cao chất lượng quản lý giáo dục trong các học viện, nhà trường quân
đội, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp trong cả hệ thống. Trong đã, việc thực
hiện các chức năng quản lý giáo dục là một nội dung cực kỳ quan trọng, có tính
quyết định đến việc nâng cao chất lượng giáo dục và quản lý giáo dục ở các học
viện, nhà trường quân đội trong giai đoạn hiện nay. Các kiểu cấu trúc chủ yếu bao
gồm: cấu trúc trực tuyến và cấu trúc chức năng. Cấu trúc trực tuyến thực chất là:
người lãnh đạo thực hiện tất cả các chức năng quản lý, người thừa hành (bộ phận
8
hay cá nhân) nhận và thực hiện mệnh lệnh trực tiếp của thủ trưởng. Cấu trúc chức
năng thực chất là: dưới người lãnh đạo có các đơn vị chun mơn (phòng, ban
chức năng) làm nhiệm vụ hướng dẫn các đơn vị thực hiện quyết định của thủ
trưởng và kiểm tra việc thực hiện đã.
Hệ thống quản lý giáo dục là bộ phận chủ thể quản lý của hệ thống giáo
dục trong các học viện, nhà trường quân sự; nó có sự liên hệ chặt chẽ và tác động
qua lại thường xuyên với hệ thống bị quản lý. Hệ thống quản lý giáo dục nhà
trường quân sự là lĩnh vực nghiên cứu của khoa học quản lý giáo dục quân sự.
Bản chất của quá trình quản lý giáo dục ở các học viện, nhà trường quân
đội được thể hiện thông qua bốn chức năng quản lý như phần trên đã trình bày.
Trong đã, chức năng kế hoạch hoá, trong quản lý giáo dục ở các học viện, nhà
trường quân sự nhằm xây dựng mục tiêu, chương trình hành động, xác định từng
bước đi, những điều kiện, phương tiện cần thiết trong một thời gian nhất định
của hệ thống quản lý và bị quản lý trong học viện, nhà trường.
Chức năng kế hoạch hố có nhiệm vụ soạn thảo và thơng qua các quyết
định về những vấn đề như:
Xác định mục đích và nhiệm vụ phát triển của nhà trường, hoàn thiện quá
trình sư phạm, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục và đào tạo.
Xác định các con đường và phương tiện hiện thực để hoàn thành các
nhiệm vụ và đạt các mục đích đề ra.
Xác định nhịp độ phát triển và tỷ lệ cân đối giữa các mơn học, các hình
thức học, các hoạt động giáo dục, các thành tố của quá trình giáo dục của các
học viện, nhà trường quân đội.
Như vậy, chức năng kế hoạch hoá là chức năng quan trọng nhất của việc
lãnh đạo, soạn thảo và thông qua những quyết định quản lý quan trọng nhất.
Cơng tác kế hoạch hố trong các học viện, nhà trường quân đội bao gồm: dự
báo, vạch chiến lược, xây dựng các kế hoạch chiến lược dài hạn, trung hạn và
ngắn hạn, các kế hoạch tác chiến hàng tháng, hàng tuần, hàng ngày; xác định
quy trình và điều kiện đảm bảo sự vận hành của quá trình sư phạm trong các học
viện, nhà trường.
9
Trong những năm qua, công tác lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch hoá
trong quản lý giáo dục ở các học viện, nhà trường quân đội đã thường xuyên được
chú trọng nghiên cứu, đổi mới và ngày càng hoàn thiện. Do đã, các học viên, nhà
trường quân đội đã thường xuyên thực hiện đổi mới và nâng cao chất lượng giáo
dục và quản lý giáo dục, đào tạo ra đội ngũ cán bộ sĩ quan, chuyên môn kỹ thuật,
hạ sĩ quan có đầy đủ phẩm chất, năng lực, đại đa số đều hoàn thành tốt nhiệm vụ
theo chức trách được giao. Tuy nhiên, việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch
hoá trong thời gian qua ở các học viện, nhà trường quân đội vẫn còn bộc lộ một
số hạn chế, yếu kộm, bất cập cần phải khắc phục trong những năm tới, đó là: việc
xác định kế hoạch cịn có nội dung chưa sát với thực tế, chưa có tính khả thi cao,
cịn hiện tượng dồn nén nội dung trong giáo dục và quản lý giáo dục; việc quản lý
theo kế hoạch còn là một khâu yếu; cá biệt vẫn còn hiện tượng chồng chéo trong
xác định nội dung, chức năng, tổ chức thực hiện quản lý giáo dục. Cơng tác xây
dựng kế hoạch chiến lược cịn chưa được chú trọng quan tâm đứng mức, còn bị
xem nhẹ. Kế hoạch cịn có nội dung chưa thực sự nhất qn, nên cịn gây khó
khăn trong q trình thực hiện. Cơng tác dự báo cịn là khâu yếu. Vì vậy, trong
giáo dục và quản lý giáo dục, chất lượng hiệu quả có mặt, có nội dung chưa cao;
thậm chí học viên ra trường vẫn cịn một số đồng chí chưa đáp ứng tốt yêu cầu
nhiệm vụ, chức trách theo mục tiêu đã đào tạo ở trường. Những hạn chế, yếu kém
đã ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình đào tạo nhân lực trong quân đội.
Để công tác lập kế hoạch và kế hoạch hố trong quản lý giáo dục có hiệu
quả cao trong các học viện, nhà trường quân đội, trong tình hình hiện nay, các học
viện, nhà trường cần tổ chức quán triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về giáo dục - đào tạo và công tác quản lý
giáo dục - đào tạo. Cụ thể các văn bản sau:
Nghị quyết số 86/ĐUQSTƯ của Đảng uỷ Quân sự Trung ương, ngày 29
tháng 3 năm 2007 “Về công tác giáo dục - đào tạo trong tình hình mới, gắn sát
với thực tiễn đất nước, quân đội, nhà trường”, đã chỉ rõ 9 nhiệm vụ, giải pháp
chủ yếu trong giáo dục - đào tạo: “Xây dựng chương trình giáo dục - đào tạo và
quy hoạch đào tạo cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật đáp ứng yêu cầu xây
dựng quân đội trong tình hình mới; Hồn thiên quy hoạch hệ thống nhà trường
10
quân đội và nâng cao hiệu lực chỉ đạo, quản lý đào tạo và xây dựng nhà
trường; Đổi mới quy trình, chương trình, nội dung giáo dục - đào tạo và
phương pháp dạy học; Kiện toàn và phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý
giáo dục; Tăng cường đầu tư về cơ sở vật chất cho các nhà trường; Đẩy mạnh
công tác nghiên cứu khao học trong các nhà trường; Công tác chuẩn bị nguồn
đào tạo; Tăng cường liên kết trong nước và hợp tác quốc tế về đào tạo; Xây
dựng các tổ chức đảng trong nhà trường trong sạch vững mạnh”.
Nghị quyết 29 Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá XI), “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu
CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa và hội nhạp
quốc tế” ngày 04 tháng 11 năm 2013 đã xác định: “Đổi mới căn bản công tác
quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và
trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất
lượng. Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục,
đào tạo và trách nhiệm quản lý theo ngành, lãnh thổ của các bộ, ngành, địa
phương. Phân định công tác quản lý nhà nước với quản trị của cơ sở giáo dục
và đào tạo. Đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ
động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục, đào tạo.”... “Phát triển đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo. Xây dựng
quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý
giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh, quốc
phòng và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng
cấp học và trình độ đào tạo. Tiến tới tất cả các giáo viên tiểu học, trung học cơ
sở, giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải có trình độ từ đại
học trở lên, có năng lực sư phạm. Giảng viên cao đẳng, đại học có trình độ từ
thạc sỹ trở lên và phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Cán bộ
quản lý giáo dục các cấp phải qua đào tạo về nghiệp vụ quản lý.”
Trên cương vị chức trách là học viên, đào tạo thạc sĩ, chuyên ngành “quản
lý giáo dục” bản thân đề xuất một số giải pháp để thực hiện tốt chức năng kế
hoạch hố trong quản lý giáo dục trong tình hình hiện nay ở các học viện, nhà
trường quân đội. Cụ thể như sau:
11
Một là, Xây dựng kế hoạch kiện toàn biên chế tổ chức, nâng cao năng lực
các cơ quan quản lý giáo dục của các nhà trường quân đội.
Đây là nội dung cơ bản, là yêu cầu quan trọng nhằm nâng cao chất lượng
quản lý giáo dục - đào tạo trong các nhà trường quân sự hiện nay. Vì xuất phát từ
vị trí, tầm quan trọng của các tổ chức đối với công tác quản lý giáo dục, hơn nữa
nhiều vấn đề về biên chế tổ chức trên thực tế đặt ra đang địi hỏi cần phải kiện tồn
và nâng cao năng lực của các cơ quan này.. Trước hết cần kiện toàn bộ máy quản lý
giáo dục - đào tạo từ cấp Bộ, vụ đại học, đảm bảo đủ theo biên chế, chất lượng đội
ngũ cán bộ, thực sự là các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành hệ thống quản lý
giáo dục - đào tạo trong các nhà trường có hiệu quả. Đối với cấp nhà trường, cần
xây dựng, kiện tồn các phịng, ban chức năng đảm bảo cơ cấu, số lượng và chất
lượng hợp lý đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ. Yêu cầu trong tổ chức, kiện toàn các
cơ quan quản lý giáo dục - đào tạo phải đảm bảo tinh gọn, biên chế hợp lý, xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan ở từng nhà trường, các mối quan
hệ phối hợp hợp đồng trong công tác. Đồng thời, nâng cao hiệu quả cơng tác
tham mưu, chỉ đạo của các cơ quan đó; nâng cao hơn nữa tính chun nghiệp và
tinh thơng trong nghiệp vụ quản lý giáo dục - đào tạo của các cơ quan chức năng
trong tổ chức thực hiện các quyết định quản lý giáo dục - đào tạo trong nhà
trường, trực tiếp quản lý mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo; quản lý giáo
viên, học viên; quản lý kiểm tra, đánh giá chất lượng và hiệu quả giáo dục - đào
tạo.
Hai là, hoàn thiện cơ chế quản lý về giáo dục trong từng học viện, nhà
trường. Thực chất đó là các học viện, nhà trường và cơ quan chức năng cần phải
xây dựng được một hệ thống văn bản pháp quy khoa học, hệ thống văn bản kế
hoạch phù hợp, chuẩn xác, có tính khả thi cao.
Ba là, xây dựng các chức năng, nhiệm vụ, công việc của từng học viện,
nhà trường và từng cơ quan, đơn vị. Những chức năng, nhiệm vụ, từng công
việc cụ thể của mỗi cá nhân, bộ phận phải đảm bảo chính xác, khoa học, vừa
sức, phù hợp cho từng đối tượng, từ đó sẽ tạo thuận lợi cho việc kế hoạch hố
trong quá trình quản lý.
12
Bốn là, xây dựng các nguyên tắc, tiêu chuẩn và thể chế cho quá trình thực
hiện. Đây là khâu rất quan trọng trong việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch
hố trong quản lý giáo dục. Bởi vì, nó giúp cho nhà quản lý và các chủ thể cũng
như đối tượng bị quản lý có những căn cứ, thước đo để kiểm tra, tự kiểm tra,
đánh giá kết quả thực hiện đạt được đến đâu. Từ đó, nó cũng sẽ là căn cứ quan
trọng cho việc xây dựng kế hoạch cho những năm tiếp theo.
Năm là, xây dựng kế hoạch, chương trình và đề ra các chương trình, mục
tiêu cần phải chia thành các trình ở từng bước một. Đồng thời, cần xây dựng kế
hoạch về ngân sách đảm bảo cho quá trình thực hiện kế hoạch đã.
Sáu là, phải dự báo sát và đánh giá đúng triển vọng của từng nội dung,
từng vấn đề, từng mặt trong quản lý giáo dục. Để thực hiện tốt điều này, cần
nghiên cứu xu thế, đánh giá làm căn cứ về sự phát triển của kinh tế - xã hội đất
nước, sự tăng dân số, nhu cầu mà xã hội cần… Từ đó, mới có những căn cứ sát
thực, khoa học để xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch hoá hiệu quả.
Bẩy là, sắp xếp đúng, phù hợp, thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình
độ, phẩm chất, năng lực quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục - đào tạo
trong các học viện, nhà trường. Thực tiễn cho thấy, đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục - đào tạo trong trong các học viện, nhà trường hiện nay, bên cạnh những mặt
ưu điểm là cơ bản, thì vẫn còn những hạn chế, bất cập. Nhiều nơi cán bộ quản
lý vừa thiếu, vừa yếu, chưa đồng bộ, chưa phù hợp; nhiều cán bộ quản lý nhưng
chưa được đào tạo, bồi dưỡng đầy đủ về kiến thức quản lý nói chung và quản lý
giáo dục núi riêng, chưa có sự am hiểu về lý luận khoa học quản lý giáo dục. Vì
vậy, các học viện, nhà trường cần đào tạo, bồi dưỡng, gửi đi đào tạo cán bộ quản
lý giáo dục, nhằm nâng cao trình độ, năng lực quản lý quản lý theo chức trách
được đảm nhiệm.
Tám là, tăng cường đầu tư và ứng dụng phương tiện kỹ thuật hiện đại cho
công tác quản lý giáo dục- đào tạo. Trước hết cần đầu tư phương tiện kỹ thuật
hiện đại cho phòng quản lý, điều hành huấn luyện đáp ứng u cầu thu thập,
nắm tình hình và xử lý thơng tin, xử lý tình huống kịp thời. Mặt khác, đẩy mạnh
việc ứng dụng công nghệ thông tin, ứng dụng và phát triển các phần mềm
chuyên dụng để quản lý từng nội dung của công tác giáo dục- đào tạo ở từng cơ
13
sở đào tạo và cả hệ thống quản lý giáo dục - đào tạo bằng mạng trong từng học
viện, nhà trường tồn qn.
Chín là, nâng cao hiệu lực cơng tác chỉ đạo thực hiện, kiểm tra và thanh tra
trong quá trình giáo dục và quản lý giáo dục - đào tạo. Vì vậy, các học viện, nhà
trường cần thường xuyên kiện toàn, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra;
nâng cao hơn nữa hiệu lực công tác thanh tra, kiểm tra giáo dục - đào tạo… Khẩn
trương nghiên cứu, triển khai thành lập Phòng Kiểm định chất lượng giáo dục đào tạo ở từng nhà trường, xây dựng quy chế hoạt động trong quá trình giáo dục
và quản lý giáo dục; từ đó làm cơ sở pháp lý để tiến hành cụng tác này.
KẾT LUẬN
Giáo dục - đào tạo của đất nước nói chung, của quân đội nói riêng, đặc biệt
là trong lĩnh vực hoạt động quản lý giáo dục - đào tạo hiện nay đang đứng trước
bối cảnh mới, vừa có những thuận lợi, vừa có những khó khăn thách thức. Do
vậy, hơn lúc nào hết các học viện nhà trường quân đội cần luôn quán triệt sâu sắc
mọi chỉ thị, nghị quyết của Đảng, của Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng về
giáo dục và quản lý giáo dục - đào tạo; bám sát, nắm chắc tình hình kinh tế - xã
hội của đất nước và thực tế yêu cầu nhiệm vụ quân đội, của nhà trường để xây
dựng kế hoạch, mục tiêu, nội dung, chương trình, hình thức, phương pháp…Cơng
tác quản lý giáo dục ở các nhà trường quân đội càn quán triết và làm tốt chức
năng kế hoạch hóa, để nhằm quản lý giáo dục của nhà trường theo đúng hướng,
đúng mục tiêu đã xác định. Kế hoạch của nhà trường cần xác định rõ mục tiêu,
chương trình hành động, xác định từng bước đi, những điều kiện , phương tiện
cần thiết trong một thời gian nhất định của hệ thống quản lý và bị quản lý trong
nhà trường. Góp phần trực tiếp nâng cao chất lượng giáo dục và quản lý giáo dục,
đào tạo trong nhà trường nói riêng và nền giáo dục, đào tạo nói chung.
14
15