A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Lịch sử dân tộc ta là lịch sử dựng nước và giữ nước với bao dấu mốc
vàng son, vinh danh biết bao anh hùng dân tộc trong công cuộc kiến thiết và
bảo vệ vững chắc chủ quyền cũng như toàn vẹn lãnh thổ của nước ta từ đỉnh
cao Nguyên Đồng Văn đến mũi đất Cà Mau.
Sự nghiệp bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ trên đất liền vùng trời,
vùng biển của dân tộc Việt Nam ln gặp nhiều khó khăn sóng gió cùng
mn ngàn thử thách lịch sử.
Đã bao lần, nhân dân ta phải cùng oằn mình lên để chống đỡ những cơn
bão táp hải chiến trên lãnh thổ thổ biển Đơng mà cụ thể là lãnh thổ 2 quần đảo
Hồng Sa và Trường Sa nhằm bảo vệ chủ quyền thực sự của Việt Nam, bảo
toàn lãnh hải trên vùng biển nhằm khai thác các nguồn lợi để phát triển kinh
tế - xã hội.
Đồng thời, trong những tình huống chính trị tranh chấp nhạy cảm như
vậy. Việt Nam gặp phải những hàng rào khó khăn. Đó là vừa bảo vệ chủ
quyền lãnh hải của Tổ quốc song lại cũng phải đảm bảo những nguyên tắc
nhất định nhằm bảo vệ những mối quan hệ quốc tế với các quốc gia láng
giềng như Trung Quốc, Malaixia, Philippin…
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá - hội nhập kinh tế quốc tế. Sự tham
gia trong phạm vi giữa các nước trong khu vực và quốc tế là những nhân tố
hết sức quan trọng đối với mỗi quốc gia khi tham gia quan hệ quốc tế và Việt
Nam cũng khơng nằm ngồi quy luật của tồn cầu hố.
Song, hồ nhập nhưng khơng hồ tan - Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối
tác tin cậy với tất cả các nước trên thế giới nhưng vẫn trên cơ sở tơn trọng độc
lập chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ cũng như không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau.
Trong lịch sử bang giao của Việt Nam và Trung Quốc tuy đã có nhiều
phen thăng trầm biến đổi, đặc biệt là việc tranh chấp về chủ quyền 2 hịn đảo
Trường Sa và Hồng Sa đã khiến nhân dân 2 nước nhiều lần căng thẳng – mất
1
đi quan hệ láng giềng hữu nghị hợp tác bền vững lâu dài trong quan hệ quốc
tế trong 1 thời gian tương đối dài.
Rõ ràng, những diễn biến tranh chấp về chủ quyền lãnh hải ở quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa đang đặt ra cho quan hệ ngoại giao Việt Nam với các
nước trong khu vực đặc biệt là với Trung Quốc là vấn đề hết sức quan trọng
cần thiết phải được đặt lên vị trí hàng đầu hiện nay.
Việt Nam luôn tôn trọng và không vi phạm đến quan hệ của các chủ thể
trong quan hệ quốc tế và Việt Nam cũng muốn được đối xử như thế về vấn đề
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Việc nghiên cứu vấn đề tranh chấp ở Hoàng Sa và Trường Sa là việc
cần thiết nhằm tìm ra nhưng cơ sở lịch sử, địa hình và căn cứ khoa học để
khẳng định chủ quyền lãnh thổ trong phát triển đất nước. Đồng thời, qua đó
tăng cường và củng cố tinh thần hợp tác hữu nghị lâu dài trong quan hệ ngoại
giao để phát huy và tăng cường ngoại lực để phát triển đất nước. Việt Nam và
Trung Quốc luôn tôn trọng nguyên tắc 16 chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp
tác lâu dài, ổn định phát triển, hướng tới tương lai”.
Chính vì những lý do đó, mà tơi chọn đề tài nghiên cứu của mình là
viết về những vụ hải chiến đã xảy ra ở phần đảo Trường Sa, dẫn đến những
xung đột giữa Việt Nam và Trung Quốc trong quan hệ quốc tế từ những năm
80 của thế kỷ 20. Qua đó, tơi cũng mong góp phần nghiên cứu của mình để tìm
ra những căn cứ xác thực về chủ quyền của Việt Nam trên lãnh thổ Trường Sa
và cũng qua đó bác bỏ những luận điểm sai trái về chủ quyền lãnh thổ hàng
chia rẽ 2 quốc gia, 2 dân tộc vốn có quan hệ láng giềng hợp tác lâu dài trong
lịch sử.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Diễn biến tranh chấp trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa luôn được
coi là vấn đề nhạy cảm trong quan hệ quốc tế và cũng là đề tài thu hút được dư
luận của cả trong nước và ngoài nước cũng như các nhà lí luận, nhà lịch sử
khảo cổ đã dày cơng nghiên cứu tìm hiểu về lịch sử của 2 quần đảo và Trường
Sa.
2
Trong đề tài của mình, tơi xin trình bày về lịch sử của quần đảo Trường
Sa, và trình bày về những vụ xung đột xảy ra ở quần đảo Trường Sa trong
những năm đã qua của lịch sử. Từ đó đưa ra những căn cứ để luận chứng
khẳng định sự phát triển một cách đúng đắn và hợp lý chủ quyền lãnh thổ trên
biển của Việt Nam.
3. Mục đích nhiệm vụ – phạm vi nghiên cứu.
* Mục đích nghiên cứu đề tài:
Qua việc tìm hiểu tranh chấp của Việt Nam và Trung Quốc cũng như
những vụ hải chiến trên biển ở quần đảo này đề tài nhằm khẳng định hơn nữa
chủ quyền quốc gia dân tộc và cũng nhằm củng cố tăng cường mối quan hệ
với Trung Quốc và các nước trong khu vực.
* Nhiệm vụ:
- Đi sâu nghiên cứu lịch sử của quần đảo Trường Sa.
- Đi sâu vào các vụ tranh chấp hải chiến ở quần đảo Trường Sa.
- Khẳng định có căn cứ chủ quyền lãnh hải.
- Củng cố quan hệ quốc tế.
* Phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu tồn bộ lịch sử hình thành, diễn biến chính trị tranh chấp ở
quần đảo Trường Sa trong những năm 80 của thế kỷ 20 cho đến tận hôm nay.
4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu đề tài.
* Cơ sở lý luận.
Để tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
quyền dân tộc.
* Phương pháp luận.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, đề tài sử dụng kết hợp các phương
pháp sau: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp logic lịch sử, phân
tích tổng hợp … và sử dụng những nội dung liên quan đến độc lập dân tộc và
chủ quyền dân tộc, quốc gia.
5. Kết cấu của đề tài.
3
Ngoài phần mở đầu, kết thúc và danh mục tài liệu tham khảo đề tài
gồm 3 chương và nhiều nội dung cụ thể.
4
B. NỘI DUNG
Chương I:
KHÁI LƯỢC VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN DÂN CƯ - XÃ HỘI VÀ LỊCH SỬ
CỦA QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA
1.1. Điều kiện tự nhiên - dân cư - xã hội của Trường Sa
Nằm trong Biển Đông, quần đảo Trường Sa được bao quanh bởi những
vùng đánh cá trù phú và giàu có về tài nguyên dầu mỏ và khí đốt. Hiện nay,
Trường Sa mở rộng (diện tích) của nó vẫn cịn chưa được biết và đang trong
vịng tranh cãi. Bên cạnh đó, Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc, mỗi nước
đều tuyên bố chủ quyền trên toàn bộ quần đảo… trong khi Brunei, Mailaixia,
Philipoin mỗi nước tuyên bố chủ quyền nhiều phần. Những năm tham gia
tranh chấp này có quân đội đóng trên từng phần của quần đảo Trường Sa.
Chính bởi Trường Sa có vị trí địa lý chính trị vơ cùng quan trọng trong vùng
Biển Đơng.
Với diện tích đất liền gần 5km vng, nằm ở toạ độ 8 038’ Bắc và
111055’ Đông. Quần đảo Trường Sa gồm 148 đảo nhỏ, đảo san hơ và đảo chìm
rải tác trên 1 diện tích gần 410.000km 2 ở giữa Biển Đơng với đường bờ biển
dài 926km. Khí hậu nhiệt đới với nhiều loại động thực vật phong phú đa
dạng. Địa thế phẳng, quần đảo Trường Sa ở vào độ cao với vị trí điểm thấp
nhất so với Biển Đơng là 0m và điểm cao nhất là ở vị trí khơng đặt tên ở đảo
Song Tử Tây (4m). Tuy nhiên, nơi đây cũng thường xuyên xảy ra những vụ
thảm hoạ của thiên nhiên như bão gây nguy hiểm cho giao thông đường biển
bưởi Trường Sa có nhiều đảo đá ngầm và bãi nơng.
Quần đảo Trường Sa vốn khơng có đất trồng trọt và khơng có dân cư
bản địa. Có khoảng 20 đảo trong đó đảo Ba D Dình có diện tích lớn nhất,
dược coi là nơi có dân cư sinh sống bình thường. Các nguồn lợi từ thiên nhiên
gồm: cá, phân chim, tiềm năng dầu mỏ và khí đốt cịn chưa được xác định.
Ngoài nghề cá, các hoạt động kinh tế khác bị kiềm chế do tranh chấp chủ
quyền. Do nằm gần khu vực lịng chảo trầm tích chứa nhiều dầu mỏ và khí
5
đốt, quần đảo Trường Sa có tiềm năng lớn về dầu khí. Hiện địa chất vùng này
vẫn chưa được khảo sát và chưa có số liệu đánh giá cụ thể rõ ràng. Quần đảo
Trường Sa chưa có cảng hay bến tàu nhưng có 4 sân bay trên các đảo có vị trí
chiến lược nằm gần tuyến đường vận chuyển tàu biển chính trên biển Đơng.
1.2. Lịch sử của quần đảo Trường Sa
Dấu ấn sớm nhất ghi lại được của con người với quần đảo Trường Sa là
từ khoảng năm thứ ba trước Công nguyên. Điều này dựa trên 1 số phát hiện
rằng những người đánh cá, đa số là cư dân thì vương quốc Chăm Pa cổ của
Việt Nam hoặc cư dân cổ xuất phát từ đảo Hải Nam và các vùng đất này là
các quận ở tỉnh Quảng Đông đã đến quần đảo Trường Sa. Và các đảo khác ở
vùng biển đông để đánh cá hàng năm.
Vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, thỉnh thoảng có một số thuỷ thủ từ một
số nước lớn châu Âu đến quần đảo này, từ đó quần đảo này có cái tên tiếng
Anh là Spratly và tên này được thừa nhận chung, nhưng các nước châu Âu hồi
đó cịn ít chú ý đến quần đảo này. Đa số cái tên tiếng Anh của các đảo, đảo
nhỏ và đảo chìm được những ngư dân Việt Nam hay Trung Quốc đặt. Các tàu
Đức đến nghiên cứu quần đảo Trường Sa 1883 nhưng cuối cùng cũng đã rút
lui sau những phản ứng từ phía nhà Nguyễn của Việt Nam.
Các bản đồ địa lý Việt Nam cổ ghi nhận Bãi Cát Vàng (dùng để chỉ
chung Hoàng Sa và Trường Sa) là lãnh thổ của Việt Nam từ đầu thế kỷ 17.
Trong cuốn “Phủ biên tạp lục” của Lê Q Đơn, Hồng Sa và Trường Sa được
xác định rõ thuộc về Quảng Ngãi. Ông miêu tả đó là nơi, người ta có thể khai
thác các sản phẩm biển và những đồ vật sót lại từ các vụ đắm tàu. Tài liệu ghi
chép Việt Nam vào thế kỷ 17 nhắc đến các hoạt động kinh tế được tài trợ của
chính phủ từ thời nhà Lê cách 200 năm trước đó, nhà Nguyễn đã tiến hành
nhiều cuộc nghiên cứu địa lý về các đảo từ thế kỷ 18.
Các bản đồ về địa lý cổ của Trung Quốc có vẽ quần đảo Trường Sa
nhưng không tỏ rõ các đảo là lãnh thổ của Trung Quốc. Những năm 1930,
Pháp tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của chính phủ bảo hộ đối với quần đảo
6
Hoàng Sa và Trường Sa thay cho Việt Nam, lúc đó đang là nước thuộc địa của
Pháp. Họ chiếm đóng một số đảo thuộc Trường Sa gồm cả đảo Ba đình và xây
các trạm khí tượng trên 2 đảo và sau đó quản lý chúng như một phần lãnh thổ
Đơng Dương thuộc Pháp.
Sự chiếm đống này bị chính phủ Trung Quốc phản đối bởi vì theo họ
thì khi các tàu chiến của Pháp tới đây, thì trên đảo biển có một số ngư dân gốc
Trung Quốc đánh cá, theo họ thì ngư dân này đã xé cờ Pháp sau khi tàu của
Pháp rời đảo. Sau đó Nhậta chiếm một số đảo trong thế chiến thứ hai và sử
dụng các đảo này làm căn cứ tàu ngầm cho các chiến dịch ở Đơng Nam Á.
Dưới thời đó, những đảo này gọi là Shinnan Shơt, cùng với quần đảo Hồng
Sa và chấp nhận đặt dưới sự cai trị của chính quyền Đài Loan. Sau khi Nhật
bại trận, Quốc dân Đảng tuyên bố chủ quyền toàn bộ quần đảo Trường Sa và
thừa nhận sự đầu hàng của Nhật. Nhật rút bỏ tất cả các tuyên bố chủ quyền
đối với các đảo vào năm 1951 theo Hiệp ước Hồ bình SanFransico. Trong
hiệp ước này với Trung Quốc, Nhật 1 lần nữa rút bỏ chủ quyền khỏi các đảo
cùng với Hồng Sa, Đơng Sa và các đảo đã chiếm của Trung Quốc. Tuy
nhiên, Quốc Dân Đảng đã rút khỏi Trường Sa và Trường Sa khi họ bị các lực
lượng của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối lập đánh bại năm 1949.
Khi người Pháp rời Việt Nam, các lực lượng hải qn Việt Nam cộng
hồ chính thức thay thế Pháp thực hiện chủ quyền đóng giữ Trường Sa.
Sau hội nghị San Fransicoo năm 1951 về Hiệp ước hồ bình với Nhật
Bản, các phái đồn từ Việt Nam ở thời điểm đó, vẫn thuộc sự kiểm sốt của
Pháp – tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Năm 1956: Giám đốc Học viện Hải Dương Philippin tuyên bố chủ
quyền trên đa phần quần đảo Trường Sa gọi lãnh thổ của ông là vùng đất tự
do. Trung Quốc, Việt Nam, Pháp, Anh, Hà Lan đều đưa ra phản đối. Trung
quốc đưa các đơn vị hải qn tới Trường Sa, mặc dù khơng có các đơn vị đồn
trú thường xuyên nhưng Việt Nam ủng hộ yêu cầu của Trung Quốc và tuyên
bố rằng “theo các dữ liệu của Việt Nam các đảo Tây Sa và Nam Sa” về mặt
7
lịch sử là một phần của lãnh thổ Trung Quốc. Cuối năm 1956, Việt Nam tuyên
bố sát nhập quần đảo Trường Sa thành 1 phần tỉnh Phước Tuy. Năm 1958
Trung Quốc đưa ra tuyên bố xác định lãnh thổ biển của họ gồm cả quần đảo
Trường Sa. Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc Vụ Viện Trung
Quốc công hàm ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4/9/1958 của chính
phủ Trung Quốc quyết định về hải phận nhưng vấn đề Trường Sa cần phải
xem xét lại.
- 1961 – 1963: Việt Nam xây dựng cột mốc lãnh thổ trên nhiều đảo
thuộc Trường Sa.
-1968: Philippin gửi quân tới 3 đảo để bảo vệ công dân Kalayaan và
tuyên bố sáp nhập nhóm đảo Kalayaan.
- 1971: Malayxia tuyên bố chủ quyền đối với một số đảo thuộc Trường
Sa.
- 1972: Philippin sáp nhập đảo Kalayaan vào tỉnh Palawam.
- 1974: Việt Nam ra tuyên cáo về 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
và đồng thời tố cáo Trung Quốc tấn công quân lực Việt Nam để chiếm Hoàng
Sa và Trường Sa vào ngày 20-1-1974.
- 1978: Một nghị định của tổng thống Philippin về phác thảo tuyên bố
chủ quyền trên Trường Sa.
- 1979: Malaixia xuất bản một bản đồ vẽ thềm lục địa tuyên bố của
mình gồm cả 12 đảo thuộc Trường Sa. Việt Nam xuất bản sách trắng phác
thảo yêu cầu chủ quyền của mình về Trường Sa và tranh cãi về yêu cầu chủ
quyền của nước khác.
- 1982: Việt Nam xuất bản 1 cuốn sách trắng khác, đóng căn cứ ở nhiều
đảo thuộc Trường Sa, Philippin cũng chiếm nhiều đảo.
- 1983: Malaixia chiếm 1 đảo thuộc Trường Sa.
- 1984: Brunei thiết lập vùng đánh cá đặc quyền gồm cả đảo chìm
Louisa ở phía Nam Trường Sa nhưng khơng tun bố chủ quyền.
8
- 1987: Cộng hoà nhân dân Trung Hoa tiến hành các chuyến tuần tra
hải quân ở Trường Sa và thiết lập căn cứ quân sự thường xuyên.
- 1988: Tàu của Trung Quốc và Việt Nam đụng độ ở đảo chìm Jonhsơn.
Đây chính là vụ hải chiến mà trong đề tài này tơi nghiên cứu và tìm ra
ngun nhân cũng như diễn biến của nó nhằm khẳng định chủ quyền lãnh thổ
của Việt Nam trên biển Đông.
1.3. Trường Sa – một đơn vị hành chính của Việt Nam.
Huyện Trường Sa được thành lập theo quyết định số 193-HĐBT ngày
9/2/1982 của Hội đồng Bộ trường Việt Nam bao gồm toàn bộ khu vực quần
đảo Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai. Trước đó, quần đảo Trường Sa thuộc
huyện Long Đất tỉnh Đồng Nai. Đến ngày 28/12/1982, huyện Trường Sa được
chuyển sang tỉnh Phú Khánh. Sau khi chia tách tỉnh Phú Khánh (30/06/1989)
huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hồ.
Nghị định số 65/2007/NĐ-CP của Chính phủ ban hành tháng 4/2007,
huyện Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hồ có 3 đơn vị hành chính trực thuộc,
gồm thị trấn Trường Sa và các xã Song Tử, Sinh Tồn. Thị trấn Trường Sa
được thiết lập trên cơ sở đảo Trường Sa lớn và các đảo, đá, bãi phụ cận. Xã
Song Tử Tây được thành lập trên cơ sở đảo Song Tử Tây các các đảo, đá, bãi
phụ cận.
9
Chương II:
TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN CỬ QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA
2.1. Nguyên nhân của quá trình tranh chấp chủ quyền ở Trường Sa.
Chính do yếu tố vị trí mang tính địa chính trị chiến lược của quần đảo
Trường Sa cực kỳ quan trọng. Nên đây là quần đảo cùng với Hoàng Sa luôn là
nơi xảy ra tranh chấp giữa các nước trong khu vực. Thật vậy:
Những nước tham gia tranh chấp hầu hết đều có quân đội đóng trên
từng phần của quần đảo này và kiểm soát nhiều căn cứ các đảo khác nhau.
Đài Loan chiếm một trong những đảo lớn nhất, đảo Ba Đình. Tháng 2/1995,
Trung Quốc chiếm đảo đá ngầm Vành Khăn từ tay Philippin gây nên cuộc
khủng hoảng chính trị lớn ở Đơng Nam Á. Đầu năm 1999, những cuộc tranh
cãi lại tăng lên khi Philippin tuyên bố rằng Trung Quốc đang xây dựng đồn
bốt quân sự trên đảo đá ngầm này. Mặc dầu những tranh cãi đó đã giảm bớt
một chút nhưng chúng vẫn là nguyên nhân có thể gây ra một cuộc chiến lớn ở
Đơng Nam Á với sự tham gia của Trung Quốc hay chỉ đơn giản là một cuộc
chiến nhỏ hơn giữa các nước tuyên bố chủ quyền khác.
Dấu hiệu đầu tiên cho thấy Trường Sa không chỉ đơn giản là một mối
nguy cho tàu chở hàng đi qua đó là khi vị năm 1968 người ta tìm thấy dầu mỏ
trong vùng. Theo ước tính của Bộ địa chất và Tài ngun khống sản Trung
Quốc vùng quần đảo Trường Sa có chứa trữ lượng dầu và khí đốt tự nhiên rất
lớn, lên đến 17,7 tỉ tấn, so với 13 tỷ tấn của Kuwait, và họ xếp nó vào danh
sách một trong 4 vùng có trữ lượng dầu khí lớn nhất thế giới. Đương nhiên,
tiềm năng trữ lượng dầu khí to lớn này góp phần làm tình hình thêm căng
thẳng và thúc đẩy các nước trong vùng tuyên bố có chủ quyền.
Ngày 11/03/1976, cuộc thám hiểu dầu khí lớn đầu tiên của Philippin
được tiến hành ngoài khơi Palawan, trong khu vực quần đảo Trường Sa và các
khu khai thác ở đó hiện chiếm 50% tồn bộ số dầu tiêu thụ tại Philippin
Các nước tuyên bố chủ quyền khơng cấp giấy phép khai thác ngồi
khơi trong vùng đảo vì sợ gây ra một xung đột lập tức. Các cơng ty nước
ngồi cũng khơng đưa ra bất kỳ một cam kết nào về việc khai thác vùng này
10
cho đến khi tranh cãi về lãnh thổ được giải quyết hay các nước tham gia đạt
được thoả thuận chung.
Một động cơ khác để tranh chấp là trữ lượng khai thác cá thương mại
của vùng biển quần đảo Trường Sa. Vào năm 1988, biển Đông chiếm 8% tổng
số lượng đánh bắt cá và hải sản của thế giới.
Một con số chắc chắn cịn có thể tăng lên, Trung Quốc dự đốn rằng
biển Đơng chứa lượng cá và nguồn dầu mỏ, khí ga tự nhiên có giá trị lên đến
1 nghìn tỉ đơ la. Đã có nhiều cuộc xung đột xảy ra giữa Philippin và các nước
khác đặc biệt là Trung Quốc về những tàu đánh cá nước ngoài trong vùng đặc
quyền kinh tế của họ và báo chí cũng thường đưa tin về những vụ bắt giữ ngư
dân Trung Quốc.
Vùng này cũng là một trong những vùng có mật độ hàng hải đông nhất
trên thế giới. Trong thập niên 1980, mỗi ngày có ít nhất 270 lượt tàu đi qua
quần đảo Trường Sa, và hiện đang có hơn 1 nửa số tàu chở dầu siêu cấp của
thế giới chạy qua vùng biển này hàng năm. Lượng tàu chở dầu chạy qua Biển
Đông lớn gấp ba lần lượng tàu chạy qua kênh đào Xuyê và gấp 5 lần lượng
tàu qua kênh đào Panama, gần 20% lượng dầu thô trên thế giới được chun
chở ngang qua biển Đơng.
Có nhiều ám chỉ rằng Trung Quốc đã sáp nhập và chiếm đảo không
phải chỉ vì mục tiêu khai thác tài ngun mà cịn để giám sát cá hoạt động
trên. Biển Đơng. Ví dụ, đảo Vành Khăn là một điểm lý tưởng để quan sát các
tàu của hải quân Mỹ chạy qua vùng biển phía Tây Philippin . Việc Trung
Quốc chiếm đảo này cũng có thể có mục đích đối chọi với Đài Loan hơn là
với Philippin , bởi vì Trường Sa nằm ngang vùng biển thiết yếu của Đài Loan.
Đó cũng có thể chỉ đơn giản là một nỗ lực của Trung Quốc nhằm thông báo
sự củng cố quyền bá chủ trong vùng của họ.
2.2. Những vụ xung đột chính trị xảy ra ở quần đảo Trường Sa.
Một xô xát diễn ra liên quan đến một tàu dân sự vào ngày 10/04/1983
khi 1 du thuyền của Đức bị bắn chìm và khơng ai bị coi là có trách nhiệm về
vụ việc này.
11
Tiếp đó ngày 14/03/1988 hải quân Trung Quốc đã dùng vũ lực để
chiếm các đảo ở Trường Sa. Họ đã bắn chìm ba tàu vận tải của hải quân Việt
Nam. Kết quả là 74 chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam tử nạn giữa biển
khơi, sau đó Trung Quốc chiếm giữ 06 đảo nhỏ trong 1 vùng từng nằm dưới
sự quản lý của Việt Nam.
Vào tháng 4/1988, một tháng sau vụ tấn công và chiếm đống Trung
Quốc đã thông qua một nghị quyết thành lập tỉnh Hải Nam trong đó bao gồm
cả Hồng Sa và Trường Sa.
Để trả lời cho những lo ngại ngày càng tăng bởi các nước có bờ biển ở
vùng biển Trường Sa về sự xâm phạm của các tàu nước ngoài đối với tài
nguyên thiên nhiên của họ. Liên Hợp quốc đã họp và ra công ước quốc tế về
luật biển (UNCLOS) năm 1982 để xác định các vấn đề về các biên giới biển
quốc tế. Về những lo lắng trên, chúng được giải quyết rằng một nước có
đường bờ biển có thể tuyên bố 200 dặn hàng hải quyền tài phán từ biên giới
đất liền của mình.
Tuy nhiên UNCLOS khơng thể giải quyết vấn đề làm thế nào để giải
quyết các tranh chấp chống lấn vì thế tương lai của quần đảo vẫn cịn mờ mịt.
Năm 1984, Brunei thiết lập ra một vùng đặc quyền đánh cá bao gồm cả
đảo ngầm Lousia ở phía Nam quần đảo Trường Sa, nhưng không công khai
tuyên bố chủ quyền hịn đảo. Sau đó, vào năm 1988 - Việt Nam và Trung
Quốc một lần nữa lại đụng độ ở biển về quyền sở hữu đảo ngầm Johnson
thuộc Trường Sa tàu chiến Trung Quốc đánh đắm các tàu chở đội qn đổ bộ
Việt Nam. 2 nước bình thường hố quan hệ vào năm 1991 và chủ tịch Giang
Trạch Dân sau đó 2 lần viếng thăm Việt Nam nhưng 2 nước vẫn còn nhiều
thoả thuận chưa thống nhất về tương lai của Trường Sa.
Năm 1992, Trung Quốc và Việt Nam trao các hợp đồng thăm dị dầu
khí cho các cơng ty Mỹ trên vùng chống lấn ở Trường Sa. Vào 5/1992, cơng
ty dầu khí ngồi khơi quốc gia Trung Quốc (CNOOS) và một công ty Mỹ đã
ký hợp đồng hợp tác để cùng thăm dò Wan’na Bei – 21 block, 1 vùng rộng
12
25155km2 ở phía Tây Nam biển Đơng gồm cả các vùng đảo Trường Sa.
CNOOC cung cấp các dữ liệu về địa chất và các thơng tin vè đáy biển vùng
đó trong khi phía cơng ty của Mỹ đồng ý chịu mọi chi phí và tiếp tục tiến
hành thăm dị địa chất và khoan trong vùng. Hợp đồng được kéo dài tới 1999
sau khi phía Mỹ thất bại trong việc hồn thành thăm dò.
Một phần trong hợp đồng của Mỹ bao gồm cả 2 block 133 và 134 của
Việt Nam nơi Petro Việt Nam và Conoco Philippin Việt Nam Exploration và
Producation, một đơn vị của Conoco Philíp, đã đồng ý đánh giá khả năng vào
tháng 4/1992. Điều này dẫn tới sự chạm trán giữa Trung Quốc và Việt Nam,
với việc mỗi nước đều yêu cầu rằng bên kia huỷ bỏ hợp đồng của mình. Xung
đột cấp độ hơn nữa vào đầu năm 1995 khi Philippin tìm thấy một kết cấu
quân sự đầu tiên của đảo ngầm Mischief, 130 dặm biển khơi ngồi Palawan.
Việc này thúc đẩy chính phủ Pháp đưa ra khuyến cáo chính thức đối với sự
chiếm đóng hịn đảo của Trung Quốc và hải quân Pháp bắt giữ 62 ngư dân
Trung Quốc ở bãi cát ngầm Half Moon, cách Palawan 80km. 1 tuần sau, sau
sự xác nhận của Fiden V. Ramos về việc ra lệnh tăng cường cho các lực lượng
quân sự trong vùng, Trung Quốc tuyên bố rằng kết cấu đó là các chịi tạm
dành cho ngư dân. Tiếp theo sự tranh cãi đó, Trung Quốc và các nước thành
viên ASEAN, với một sự mở giới của ASEAN đã đạt được một thoả thuận
rằng một nước sẽ thông báo tới các nước còn lại về hành động quân sự của
mình bên trong vùng lãnh thổ tranh chấp và sẽ khơng tiến hành xây dựng
thêm các cơng trình. Thoả thuận này nhanh chóng bị Trung Quốc và Malayxia
xâm phạm. Tuyên bố rằng vì bị hư hại do bão nên 7 tàu của Trung Quốc tiến
vào đó để tránh bão ở các chòi ngư dân ở đảo ngầm Rizal, cả 2 chỗ này đều
nằm bên trong vùng EE2 của Philippin . Để trả đũa, Philippin trao đổi chính
thức và yêu cầu dỡ bỏ các kết cấu đó. Đồng thời Pháp tăng cường tuần tra hải
quân ở Kalayaan và mời các nhà chính trị Mỹ tới giám sát các căn cứ của
Trung Quốc bằng máy bay.
13
Tới năm 1998, Trung Quốc tiếp tục sát nhập các đảo của mình đặt các
cột cốc lãnh thổ hay phao trên bãi cát. Thomas thứ nhất và thứ hai, bãi cát
Pennsylvania, bãi cát Half Moon và đưa đảo san hô vàng Sabina cùng đảo
Jackson, vùng đảo Trường Sa đưa vào danh sách một trong tám điểm nóng
xung đột thế giới.
Cuối năm 1998, căn cứ của Trung Quốc đã bao quanh các tiền đồn của
Pháp. Một sĩ quan hải quân hoàng gia Anh phân tích các bức thư ảnh chụp kết
cấu của Trung Quốc và tuyên bố rằng Trung Quốc có lẽ đang chuẩn bị chiến
tranh. Quan hệ giữa Miama và Bắc Kinh đã xấu đi tới mức sắp xảy tới xung đột.
Đầu thế kỷ 21, như một phần trong chính sách ngoại giao lúc đầu được
gọi là “khái niệm an ninh mới” và tự lớn mạnh của Trung Quốc hoà bình”.
Trung Quốc giảm bớt chạm trán ở quần đảo Trường Sa. Gần đây, Trung Quốc
tiến hành thương lượng với các nước ASEAN nhằm mục đích thực hiện đề
xuất tự do thương mại giữa 10 nước tham gia. Trung Quốc và ASEAN cũng
đã thoả thuận đàm phán để đưa ra một bộ luật ứng xử nhằm giảm căng thẳng
tại các đảo tranh chấp. Ngày 5/3/2002, một thoả thuận đã ra đời, công bố
mong ước của các nước liên quan giải quyết vẫn đề chủ quyền mà không
dùng thêm vũ lực nữa. Tháng 11/2002, một tuyên bố ứng xử của các bên tại
Biển Đông đã được ký kết, làm giảm căng thẳng nhưng khơng phải là một bộ
luật ứng xử mang tính bắt buộc. Vào năm 2007, Việt Nam và hãng BP của A
đang chuẩn bị thực hiện dự án trị giá 2 tỷ USD lắp đặt đường ống dẫn dầu khí
đốt thiên nhiên từ 2 mỏ khí ở khu vực quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền
Việt Nam đồng thời tổ chức bầu cử Quốc hội Việt Nam khoá 12 sẽ được tiến
hành vào ngày 20/5 tại quần đảo Trường Sa thì người phát ngơn bộ ngoại giao
Trung Quốc Lào Tần Cương nói trong buổi họp báo thường kỳ rằng: “Việt
Nam áp dụng hàng loạt các hành động mới trên quần đảo Nam Sa (theo cách
hiểu của người Trung Quốc là Trường Sa) đã đi ngược lại với nhận thức
chung quan trọng về các vấn đề trên biển mà 2 bên đã đạt được. Lào Tần
Cương gọi đây là hành động “xâm phạm chủ quyền lãnh thổ cũng như chủ
14
quyền và quyền cai quản của Trung Quốc và Việt Nam bày tỏ hết sức quan
tâm việc này và đã giao thiệp nghiêm khắc với Việt Nam”. Trong lúc chủ tịch
Quốc hội Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đang có chuyến thăm chính thức nước
này.
Trong khi phía Trung Quốc lại cho các cơng ty dầu khí mà điển hình là
PetroChina thăm dị và khai thác dầu khí trong khu vực tranh chấp. Sau đó
vào tháng 6 năm 2007, phát ngơn nhân của BP Ple, ơng Davit Nicholas nói
rằng hãng này thấy rằng “nên ngừng kế hoạch khảo sát chấn đông tại lơ 5.2 để
cho các nước liên quan có cơ hội để giải quyết vấn đề. Khu thăm dị địa chấn,
lơ 5.2. mà B.P dự định tiến hành nằm ở giữa Việt Nam và quần đảo Trường
Sa, cách bờ biển Việt Nam khoảng 370km. Tuy nhiên, người phát ngơn của
BP nói lại với Reuteurs rằng công việc tại các lô 5.2 và 5.3 là kế hoạch lâu dài
chứ không phải trước mắt Trung Quốc ngày càng gây hấn bằng vũ lực trên
quần đảo Trường Sa. Vào tháng 4 năm 2007 đã bắt giữ 41 ngư dân Việt Nam
và chỉ trả tự do cho họ sau khi những người này đã nộp phạt. Đến 09/07 tàu
hải quân Trung Quốc đã nã súng vào một số thuyền đánh cá của ngư dân Việt
Nam trong vùng biển gồm Trường Sa, cách thành phố Hồ Chí Minh 350km
làm chìm 1 thuyền đánh cá của Việt Nam, ít nhất là 1 ngư dân thiệt mạng và
một số khác bị thương. Nguyên nhân chính dẫn tới các mâu thuẫn giữa 2 nước
là trữ lượng lớn 600 triệu thùng của Việt Nam mà Trung Quốc tuyên bố nằm
trong vùng chủ quyền trong khi giá dầu thơ có thể tăng đến 100USD vào cuối
năm 2007. Phía Việt Nam cũng đã cho 2 tàu chiến cơ động BDS – 500 do
Nga thiết kế lập tức đến hiện trường nhưng phải đứng xa vì sự hoả lực quá
mạnh từ tàu Trung Quốc. Mặc dù Báo chí Việt Nam tránh đưa tin sự kiện trên
nhưng sau đó, thứ trưởng ngoại giao Việt Nam ông Vũ Dương đã đến Bắc
Kinh từ ngày 21/07 đến 23/07 để bàn về các vấn đề biên giới và đặc biệt là
vấn đề biên giới trên biển.
2.3. Nguyên nhân diễn biến, kết quả của cuộc đụng độ Hải chiến Trường
Sa năm 1988.
15
a. Nguyên nhân:
Những nguyên nhân sâu xa thì đã được trình bày ở các phần trên như
đã nói đó là do vị trí địa chính trị của quần đảo Trường Sa
Các nước đua sức chạy đua tranh chấp nhằm khẳng định chủ quyền của
mình ở quần đảo này trong đó phải kể đến là vụ hải chiến giữa hải quân Việt
Nam và Trung Quốc năm 1998.
Theo phía Trung Quốc cho biết và khẳng định rằng: Trong khi các tàu
của họ đang bỏ neo để yểm trợ cho 1 nhóm nghiên cứu thăm dị dầu mỏ tại
đây thì hải qn Việt Nam đã nổ súng tấn cơng vì thế hải qn Trung Quốc
bắt buộc phải tự vệ. Khi hạm đội Trung Quốc di chuyển tới Trường Sa, Trung
Quốc đã lấy danh nghĩa là đưa phái đoàn khoa học liên hợp quốc đi khảo sát
để nguỵ biện cho hành động của mình.
Sau này chính phủ Trung quốc đã tuyên bố rất tiếc về sự việc đã xảy ra
về phía Liên Hợp Quốc thì cho rằng họ khơng có cơng tác khảo sát nào ở
Trường Sa. Rõ ràng những nguyên nhân mà Trung Quốc đưa ra trong vụ hải
chiến năm 1988 là không có căn cứ.
b. Diễn biến của cuộc xung đột.
Hải chiến Trường Sa nằm 1988 là tên gọi của cuộc xung đột trên biển
Đơng năm 1988 giữa Hải qn giải phóng Trung Quốc và Hải quân nhân dân
Việt Nam để chiếm các đảo thuộc quần đảo Trường Sa vào ngày 14/03/1988.
Trong những tháng đầu năm 1988, Trung Quốc cho quân chiếm đóng một số
bãi đá thuộc khu vực quần đảo Trường Sa, chiếm giữ Đá Chữ Thập (31-01),
Châu Viên (18/2), Ga Ven (26/2), Huy Gơ (28-2), Tu Bi (23/3). Hải quân Việt
Nam đưa vũ khí, khi tàu ra đóng giữ tại các đảo đá tiên nữ (26/1), Đá Lát
(5/2), Đá lớn (6/2), Đá Đông (18/2), Tốc Tan (27/02), Núi Le (43), bước đầu
ngăn chặn hành động mở rộng phạm vi chiếm đóng của hải quân Trung Quốc
ra các đảo lân cận. Phía Việt Nam dự kiến Trung Quốc có thể chiếm thêm 1 số
bãi cạn xung quanh cụm đảo Sinh Tồn, Nam Yết và Đông Kinh tuyến 1150.
16
Căn cứ vào tình hình xung quanh khu vực Trường Sa, Hải quân Việt
Nam xác định: Gạc Ma giữ vị trí quan trọng, nếu để hải quân Trung Quốc
chiếm giữ thì họ sẽ khống chế đường tiếp tế của Việt Nam cho các căn cứ tại
quần đảo Trường Sa. Vì vậy, thường vụ Đảng uỷ quân chủng hạ quyết tâm
đánh giữ đảo Gạc Ma, Cô Lin và Len Đao…
Thường vụ Đảng uỷ quân chủng giao cho Lữ đoàn vận tải 125 cử lực
lượng thực hiện nhiệm vụ này.
Trong khi đó, hải quân Trung Quốc sau khi đưa quân chiếm đóng các
đảo chìm Chữ Thập, Châu Viên, Ga Ven, Xu Bi, Huy Gơ cũng đang có ý đồ
chiếm giữ 3 đảo Gạc Ma, Cô Lui và Len Đao. Đầu tháng 3/1998, Trung Quốc
huy động lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực quần đảo Trung Quốc,
tăng số tàu hoạt động ở đây thường xuyên lên đến 9 thậm chí đến 12 tàu
chiến: 1 tàu khu vực tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo, 2 tàu đổ bộ,
3 tàu vận tải hỗ trợ LSM, tàu đo đạc, tàu kéo và một tàu lớn.
Trước tình hình đó, ngày 31/3, tư lệnh hải quân Việt Nam lệnh cho
vùng 4, Lữ đoàn 125, Lữ đoàn 146 và các hải đội 131, 132, 134 của Lữ đoàn
172 chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Đồng thời lệnh cho vùng 1, vùng
3 và Lữ đồn 125 ở Hải Phịng chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng
cường. Bộ tư lệnh Hải quân điều động 41 tàu thuyền và phương tiện nổi của Lữ
đoàn 125, Cục kinh tế vùng 1, 3, 5, Trường Sĩ quan Hải quân Việt Nam nay là
Học viện Hải quân Việt Nam, nhà máy Ba Son… đến phối hợp khi cần thiết.
Lúc 19h ngày 11/3 tàu HQ – 604 rời cảng ra đảo Gạc Ma để thực hiện
nhiệm vụ trong chiến dịch CQ – 88 (chủ quyền 88)
Ngày 12/03 tàu HQ – 605 thuộc Lữ đoàn 125 do thuyền trưởng Lê
Lệnh Sơn chỉ huy được lệnh từ Đá Đơng đến đóng giữ đảo Len Đao, trước 6h
ngày 14/03. Sau 29 tiếng hành quân tàu 605 đến Len Đao lúc 5h ngày 14/03
và cắm vờ Việt Nam trên đảo.
Thực hiện nhiệm vụ đóng giữ các đảo Gạc Ma và Cô Lin, 9h ngày
13/03 tàu HQ-604 của thuyền trưởng Vũ Phi Trừ và tàu HQ 505 của thuyền
17
trưởng Vũ Huy Lễ được lệnh từ đảo Đá Lớn tiến về phía Gạc La – Cơ Lin.
Phối hợp với 2 tàu 505 và 604 có 2 phân đội cảng binh (70 người) thuộc trung
đồn cơng binh 83, bốn tổ chiến đấu (22 người) thuộc Lữ đoàn 146 do Trần
Đức Thơng – phó Lữ đồn trưởng chỉ huy và 4 chiến sĩ đo đạc của Đoàn đo
đạc và vẽ bản đồ.
Sau khi 2 tàu của Việt Nam thả neo được 30 phút tàu hộ vệ hải quân
của Trung Quốc từ đảo Huy Gơ chạy về phía đảo Gạc Ma, có lúc đôi bên chỉ
cách nhau 500m, 17h ngày 13/03, tàu Trung Quốc áp sát tàu 604 và dùng loa
gọi sang. Bị uy hiếp, 2 tàu 604 và 505 kiên trì neo giữ quanh đảo. Còn chiến
hạm của Trung Quốc cùng một hộ vệ hạm, 2 hải vận hạm thay nhau cơ động,
chạy quanh Gạc Ma.
Trước tình hình căng thẳng do hải quân Trung Quốc gây ra, lúc 21h
ngày 13/3 – Bộ Tư Lệnh Hải quân Việt Nam chỉ thị cho Trần Đức Thông, Vũ
Huy Lễ, Vũ Phi Trừ chỉ huy bộ đội quyết giữ các đảo Gạc Ma, Cô Lin. Tiếp
đó, Bộ Tư Lệnh cũng chỉ thị cho lực lượng công binh khẩn trương dùng
xuồng chuyển vật liệu xây dựng lên đảo ngay trong đêm 13/3. Thực hiện
mệnh lệnh, tàu 604 cùng lực lượng cơng binh trung đồn 83 chuyển vật liệu
lên đảo Gạc Ma, tiếp đó lực lượng của lữ đoàn 146 bị lật đổ bộ, cắm cờ Việt
Nam ra triển khai 4 tổ bảo vệ đảo.
Lúc này Trung Quốc có thêm 2 hộ vệ hạm trang bị pháo 100mm đến hỗ
trợ, lực lượng này đã đến lúc từ trước, yêu cầu phía Việt Nam rút khỏi đảo
Gạc Ma, Ban chỉ huy tàu 604 họp nhận định: Trung Quốc có thể dùng vũ lực
can thiệp và quyết định chỉ huy bộ đội bình tĩnh xử lí, thống nhất thực hiện
theo phương án tác chiến đề ra quyết tâm bảo vệ Gạc Ma.
Ngày 14/03 chiến sự diễn ra phức tạp, quyết liệt tại khu vực đảo Gạc
Ma, Cô Lin và Len Đao.
* Tại bãi Gạc Ma
18
Sáng 14/03, tàu của Việt Nam HQ – 604 đang thả neo tại Gạc Ma, phát
hiện thấy 4 chiếc tàu lớn của Trung Quốc đang tiến lại gần. Tổ 3 người được
cử lên đảo bảo vệ lá cờ Việt Nam đang cắm trên bãi.
Phía Trung Quốc cứ 2 xuồng chở 8 người có vũ khí lao thẳng về phía
đảo chỉ huy Trần Đức Thông của Việt Nam ra lệnh cho các thuỷ thủ từ tàu
604 tiến về bảo vệ bãi để hình thành tuyến phịng thủ, khơng cho đối phương
tiến lên.
6h sáng, hải quân Trung Quốc thả 3 thuyền nhôm và 40 quân đổ bộ lên
đảo giật cờ Việt Nam. Hạ sĩ Nguyễn Văn Lanh bị lê đâm và bắn bị thương.
Thiếu uý Trần Văn Phương bị bắn tử thương, trước khi chết ông đã hô: “Thà
hi sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để cho máu của mình tơ htắm lá cờ
truyền thống của quân chủng Hải quân”.
Do Hải quân Việt Nam không chịu rút khỏi đảo, lúc 7h30’ Trung Quốc
dùng 2 chiến hạm bắn pháo 100mm vào tàu 604 làm tàu bị hỏng nặng. Hải
quân Trung Quốc cho qn xơng về phía tàu Việt Nam. Thuyền trưởng Vũ Phí
Trừ chỉ huy quân tàu đánh trả quyết liệu để tự vệ buộc đối phương phải nhảy
xuống biển bơi về tàu.
Hải quân Việt Nam vừa chiến đấu, vừa tổ chức băng bó cứu thương và
hỗ trợ các chiến sĩ bảo vệ cờ. Trung Quốc tiếp tục nã pháo, tàu 604 của Việt
Nam bị thủng và chìm dần xuống biển. Thuyền trưởng cùng phó đồn cùng
các thuỷ thủ trên tàu 604 đã từ trận tại khu vực đảo Gạc Ma.
* Tại Đảo Cô Lin.
6h, tàu HQ-505 của Việt Nam đã cắm 2 lá cờ trên đảo. Khi thấy tàu 604
của Việt Nam bị chìm, thuyền trưởng tàu 505 ra lệnh nhổ n eo cho tàu về bãi.
Phát hiện tàu 505 đang về bãi, 2 tàu HQ quay sang tấn công tàu HQ-505. Khi
tàu HQ 505 trườn lên được 2/3 thân tàu lên đảo thì bốc cháy.
8h15’ thuỷ thủ tàu 505 vừa triển khai lực lượng dập lửa cứu tàu bảo vệ
đảo, và đưa xuống đến cứu thuỷ thủ, tàu 604 bị chìm ở phía bãi Gạc Ma ngay đó.
* Tại đảo Len Đao.
19
8h20’ ngày 14/3: Hải quân Trung Quốc bắn mãnh liệt vào tàu HQ605
của hải quân Việt Nam. Tàu 605 bị bốc cháy và chìm lúc 6h ngày 15/03 thuỷ
thủ của tàu bơi về đảo Sinh Tồn.
Thượng uỷ Nguyễn Văn Chương và trung uý Nguyễn Sỹ Minh tổ chức
đưa thương binh và chiến sĩ về tàu 505. Thi hài của các chiến sĩ cùng các
thương binh được đưa lên tàu. Sống cịn sức cố lái đưa xuồng về bãi Cơ Lin.
c. Kết quả.
Trong trận chiến ngày 14/03 năm 1988, Việt Nam bị thiệt hại 03 tàu bị
bắn cháy và chìm, 03 người tử trận, 11 người khác bị thương, 70 người mất
tích. Sau này Trung Quốc đã trao trả cho phía Việt Nam 9 người bị bắt, 61
người vẫn mất tích, và được xem là tử trận.
Việt Nam bảo vệ được chủ quyền tại các đảo Cô Lin và Len Đao. Trung
Quốc chiếm đảo Gạc Ma từ ngày 16/03/1988 cho đến nay.
Trong năm 1988, hải quân Việt Nam đã đưa quân ra đóng giữ tiếp 11
bãi đá ngầm khác, 17/10/1988, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh ký văn bản số
19/NQ-TV về việc bảo vệ khu vực bãi ngầm trong thềm lục địa phía Nam
(khu DK1). Ngày 5/7/1989, thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị số 180UT về
việc xây dựng cụm dịch vụ, kinh tế – khoa học kỹ thuật thuộc tỉnh Bà Rịa
– Vũng Tàu (DK1), xác định lại chủ quyền của Việt Nam đối với khu vực
thềm lục địa này.
Từ 6/1989, Hải quân Việt Nam bắt đầu đóng giữ các bãi đá ngầm Tư
Chính, Phúc Nguyên, Phúc Tâm, Huyền Trân, Quế Dương, Ba Kê…
Ngoài ra, trong trận hải chiến này, Học viện 2 quân Việt Nam có 02 học
viên là Kiều Hồng Lập và Nguyễn Bá Cường hy sinh trong lúc tham gia thực
tập và chiến đấu trên tàu HQ-604.
Đặc biệt trong thời gian xảy ra chiến sự, Hải quân Liên xơ đóng ở Cam
Ranh đã khơng can thiệp, tương tự như Đệ thất hạm đội của Mỹ năm 1974
trong Hải chiến Hoàng Sa.
20
Chương III:
KHẲNG ĐỊNH PHÁP LÝ CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ CỦA VIỆT NAM
3.1. Những căn cứ pháp lý chủ quyền thuyết phục của Việt Nam về vấn
đề quần đảo Hoàng Sa.
Hoàng Sa cách lục địa Trung Quốc khoảng 750 hải lý nên không nằm
trong thềm lục địa của Trung Quốc. Tại bờ biển Việt Nam, thềm lục địa chạy
thoai thoải từ dãy Trường Sa ra Hồng Sa. Đây là những bình nguyền của
thềm lục địa Việt Nam trên mặt biển. Năm 1925, nhà địa chất quốc tế - tiến sĩ
khoa học A.Krempf – Giám đốc Học viện Hải học Đông Dương, sau 02 năm
nghiên cứu và đo đạc đã lập phúc trình và kết luận: “Trường Sa - Hồng Sa về
mặt địa chất là thành phần của Việt Nam”. Tại Trường Sa – về độ sâu và địa
hình đáy biển các đảo cồn bãi đá Trường Sa là sự tiếp nối tự nhiên của thềm
lục địa Việt Nam. Tại bãi Tử Chính nơi khai thác dầu khí, biển sâu khơng tới
400m và tại vùng đảo Trường Sa độ sâu chỉ tới 200m. Bãi Tử Chính cách bãi
biển Việt Nam khoảng 190 hải lý và cách lục địa Trung Quốc tới 750 hải lý.
Trường Sa cách Việt Nam 220 hải lý và cách Trung Quốc 750 hải lý. Khơng
có sự phủ nhận rằng ít nhất từ 1816, dưới thời vua Gia Long Việt Nam đã
chiếm cứ cơng khai, liên tục, hồ bình các đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bá
chủ quyền do người Pháp dựng năm 1938 có ghi rõ, trong khi đó lịch sử
Trung Quốc khơng mang lại bằng chứng nào cho biết họ đã liên tục chiếm cứ
Hoàng Sa và Trường Sa từ đời Hán Vũ Đế hay ít nhất từ đời Mãn Thanh.
Theo Trung Quốc năm 1956, thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Ung Văn
Khiêm đã nói với đại diện lâm thời của Trung Quốc rằng Hoàng Sa và Trường
Sa về mặt lịch sử thuộc về lãnh thổ Trung Quốc. Đây là một căn cứ không xác
thực mà Trung Quốc đưa ra nhằm bác bỏ luận chứng chủ quyền lãnh thổ
Trường Sa của Việt Nam mà thơi.
Tiếp đó, lá thư ngày 14/09/1958, do Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi tới
thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai này được nhiều người xem là sự thừa nhận
21
của Việt Nam dân chủ cộng hoà đối với chủ quyền của Trung Quốc đối với
Hoàng Sa và Trường Sa. Song tất cả đều khơng có sức ràng buộc để khẳng
định chủ quyền của Trung Quốc đối với vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa. Theo
các báo cáo của Việt Nam thì khi tàu Việt Nam đã bị đánh đắm chìm thì tàu
chiến Trung Quốc chặn khơng cho tàu của Hội chữ thập đỏ đến cứu. Đây là một
sự vi phạm những điều luật cơ bản nhất của chiến tranh từ phía Trung Quốc.
Bức xúc của một nhà khoa học trước việc Trung Quốc bất chấp lẽ phải
chà đạp lên sự thật về chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa đã cho chúng ta những cái nhìn chân thâtạ hơn về hậu chiến của vụ
hải chiến Trường Sa năm 1988 cho đến nay vẫn còn ảnh hưởng như thế nào.
Luận điểm đầu tiên của chính quyền tỉnh Quảng Đơng khi cơng khai
khảo sát Hồng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc gọi là Tây Sa vào năm 1909
là cho rằng quần đảo Tây Sa là đất vô chủ, hải quân tỉnh Quảng Đông cắm cờ
trên đảo và bắn 21 phát súng đại bác tại 1 số đảo ở Hoàng Sa năm 1909.
Sau khi dùng vũ lực một cách bất hợp pháp cưỡng chiếm Hoàng Sa vào
trung tuần tháng giêng năm 1974, Trung Quốc đã cố gắng tìm kiếm tài liệu để
cố gắn ghép bằng cách cắt xén nếu cần thì xun tạc với sự đóng góp của các
nhà học giả như Sử lê tổ đưa ra luận điểm cho rằng “Các đảo Nam Hải từ cổ xưa
đến nay là lãnh thổ của Trung Quốc, do nhân dân Trung Quốc phát hiện sớm nhất,
kinh doanh sớm nhất, do chính phủ các triều đại Trung Quốc “quản hạt sớm nhất
và viện dẫn nhiều tài liệu lịch sử mang tính suy diễn để dẫn chứng.
Tất cả đều càng khẳng định hơn Việt Nam có căn cứ chủ quyền đối với
Trường Sa một cách khoa học và xác đáng nhất.
Hơn thế nữa, chúng ta lại được sự đóng góp ủng hộ nhiệt tình của bạn
bè quốc tế những nhà nghiên cứu, nhà khoa học và nhân dân tiến bộ u
chuộng hồ bình trên thế giới.
3.2. Thái độ của Việt Nam trước hành động vi phạm chủ quyền của
Trung Quốc.
22
Tại kỳ họp thứ 9 – Hội đồng nhân dân tỉnh Khánh Hồ khố IV dự định ra
nghị quyết phản đối việc Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa thuộc tỉnh Hải
Nam, bao gồm cả 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam.
Nội dung phản đối việc làm sai trí của Trung Quốc được đưa vào Nghị
quyết về kinh tế - xã hội Khánh Hoà của kỳ họp thứ 9 được thông qua ngày
21/12/2007 với những nội dung toàn văn như sau:
“Về việc Trung Quốc thành lập thành phố hành chính cấp huyện Tam
Sa trực thuộc tỉnh Hải Nam, bao gồm 2 huyện đảo Hoàng Sa và Trường Sa
của Việt Nam trong đó huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hoà, Hội đồng
nhân dân tỉnh Khánh Hoà phản đối việc Trung Quốc đưa huyện Trường Sa
của Khánh Hồ vào đơn vị hành chính mới trực thuộc tỉnh Hải Nam của
Trung Quốc và khẳng định huyện Trường Sa là một trong 9 đơn vị hành chính
trực thuộc tỉnh Khánh Hồ. Trước đó ngày 3/12/2007, người phát ngơn Bộ
ngoại giao Việt Nam Lê Dũng vừa cho biết phản ứng của Việt Nam trước việc
Quốc Vụ Viện Trung Quốc vừa phê chuẩn việc thành lập thành phố hành
chính cấp huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam, trực tiếp quản lý 3 quần đảo
trong đó có 2 quần đảo Trường Sa và Hồng Sa của Việt Nam.
Phát ngơn Bộ ngoại giao đã nêu rõ: Việt Nam có đầy đủ bằng chứng
lịch sử cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần
đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Việt Nam phản đối việc Trung Quốc thành lập thành phố hành chính
cấp Huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam, trực tiếp quản lý 3 quần đảo trong đó
có Hồng Sa và Trường Sa. Hành động này đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ
của Việt Nam, không phù hợp với nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao 2
nước, khơng có lợi cho tiến trình đàm phán tìm kiếm biện pháp cơ bản lâu dài
cho vấn đề trên biển giữa hai nước.
Trước sau như một - Việt Nam chủ trương giải quyết các bất đồng
thông qua thương lượng hồ bình trên cơ sở tơn trọng luật pháp Quốc tế và
thực tiễn quốc tế, đặc biệt là công ước của Liên Hợp quốc về luật Biển 1982
23
và tinh thần Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên biển Đơng năm 2002
nhằm giữ gìn hồ bình và ổn định trên biển Đơng và khu vực.
Lịch sử dân tộc lại một phen sóng gió khi chứng kiến những cuộc đụng
đầu lịch sử, những cuộc tranh chấp đó sẽ làm giảm đi tinh thần đồn kết hợp
tác quốc tế của Việt Nam ta.
Trường Sa lại bừng sáng sau cơn mưa để vươn mình hiên ngang đứng
trước bão táp mưa sa để bảo vệ cho được độc lập, chủ quyền của dân tộc.
Hơn bao giờ hết những người Việt Nam hơm nay hiểu được những giá
trị đích thực của hai chữ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ mà các thế hệ
cha anh đi trước đã phải ngã xuống và được trả giá bằng mồ hôi nước mắt và
cả hi sinh tính mạng.
Rõ ràng, những diễn biến tranh chấp xung đột ở lãnh thổ Trường Sa và
Hoàng Sa đang đặt ra cho Việt Nam những thách thức vơ cùng lớn lao và khó
khăn trong thời đại hội nhập kinh tế phát triển như hiện nay. Song Việt Nam
ln muốn tự khẳng định mình, khép lại lịch sử và hướng tới tương lai trong
mọi mối quan hệ bang giao là điều mà tồn Đảng tồn dân ln mong muốn
trong hồ bình ổn định và phát triển. Dân tộc Việt Nam u chuộng hồ bình,
song cũng ln giữ gìn bản sắc kiên định lập trường và tồn vẹn lãnh thổ một
cách triệt để và đúng nguyên tắc.
Những ứng xử với những tình huống chính trị như Hải chiến năm 1988
là những bài học kinh nghiệm và cũng là điều mà nhân dân Việt Nam không
muốn bởi một phần nào đó, sự kiện đó, tình huống đó tạo ra sự bất hoà trong
quan hệ láng giềng hữu nghị giữa hai nước.
Nhìn lại lịch sử khơng phải là kể lể, trách móc mà qua đó chúng ta có
cách nhìn một cách biện chứng khoa học. Khách quan và nhìn lại cách hành
xử bang giao để từ đó đưa ra những quyết sách phù hợp nhằm bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ trong sự hợp tác bang giao hoà hảo thân thiện với anh em bạn
bè thế giới và khu vực để Việt Nam trở thành điểm đến an toàn đối với bạn bè
thế giới.
24
C- KẾT LUẬN
Vấn đề tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các nước trong khu vực về
vấn đề lãnh thổ Trường Sa cũng như những mặt hạn chế và nó mang lại cho
tất cả các nước như chúng ta thấy điều khơng tốt và phần nào ảnh hưởng đến
chính mối quan hệ quốc tế láng giềng giữa các nước.
Lịch sử đã phải trả biết bao nhiêu cái giá đắt đó cho dân tộc Việt Nam
trong việc bảo vệ chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ dân tộc.
Dân tộc ta ln gặp phải những tình huống xung đột chính trị khó khăn
trên con đường mở cửa hội nhập phát triển ra biển lớn của thế giới. Nhưng
dường như càng khó khăn bao nhiêu thì càng chứng minh sức mạnh của con
người Việt Nam thật tuyệt với và lạ lùng thay. Phải chăng đó chính là tinh
thần u nước, lịng tự hào dân tộc, giúp cho dân tộc Việt Nam dù bé nhỏ
nhưng ln gan góc đứng vững trước mọi sóng gió bão táp để rồi “Rũ bùn
đứng dậy sáng loà”.
Trận Hải chiến Trường Sa năm 1988 và hàng loạt những cuộc bảo vệ
lãnh thổ dân tộc Việt Nam đã chứng minh năng lực lãnh đạo của Đảng ta đã
được rèn luyện, tôi đúc qua nhiều thử thách thật lá quý giá.
Sự lãnh đạo định hướng đúng đắn trong hành động tổ chức, quản lý, xử
lý mọi tình huống khó khăn của đất nước đã trở thành điều kiện quan trọng
quyết định và khẳng định sự thành công của cách mạng Việt Nam trong điều
kiện mới. Đó đã là một điều khơng thể phủ nhận cho sự phát triển của đất
nước Việt Nam hôm nay khi tin tưởng vào sự chỉ đạo của Đảng.
Hơn thế nữa, Hải quân nhân dân Việt Nam với truyền thống quý báu
trong lịch sử luôn nêu cao tinh thần độc lập bảo vệ toàn vệ lãnh thổ luôn luôn
là lực lượng đầu tàu bảo vệ vùng biển của Tổ quốc.
Nhìn lại những chặng đường đã đi qua, chúng ta đúc rút lại được nhiều
kinh nghiệm quý báu trong những tình huống chính trị gay go để khẳng định
hơn bản lĩnh của dân tộc Việt Nam. Với lịch sử hơn 4000 năm dựng nước và
giữ nước. Đồng thời qua tình huống lịch sử ở Trường Sa năm 1988, chúng ta
25