Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

tài chính công nâng cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.72 KB, 11 trang )

CHỦ ĐÊ 1:
I, Nhận diện các mơ hình kinh tế và khu vực công trên thế giới và Việt Nam
1,Các mơ hình kinh tế trên thế giới
1.1 Mơ hình kinh tế thị trường tự do

Định nghĩa: Kinh tế thị trường tự do trong tiếng Anh gọi là Free market economy.
Kinh tế thị trường tự do là nền kinh tế trong đó khơng phải nhà nước mà là các lực lượng
thị trường chi phối các q trình kinh tế.
Đặc trưng: Chính thị trường hay đúng hơn là các qui luật vốn có của thị trường
quyết định xã hội nên sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Nền kinh
tế thị trường tự do bị chi phối bởi một bàn tay vơ hình, hướng người ta đi đến các quyết
định về các vấn đề kinh tế cơ bản mà không cần đến sự can thiệp của nhà nước. Cách
thức thị trường phân phối hàng hóa hay thu nhập cho các cá nhân trong xã hội liên quan
trực tiếp đến sự vận hành của thị trường các yếu tố sản xuất. Hoạt động của thị trường
yếu tố sản xuất, về cơ bản, quyết định quá trình phân phối thu nhập. Trên cơ sở này, thị
trường quyết định phần hàng hóa hay dịch vụ mà mỗi người được hưởng trong tổng sản
lượng hàng hóa và dịch vụ mà xã hội tạo ra
1.2 Mơ hình kinh tế thị trường – xã hội

Định nghĩa: Mơ hình kinh tế thị trường xã hội được xây dựng và thừa nhận các
yếu tố cơ bản phổ biến của kinh tế thị trường, nhưng khác với mơ hình kinh tế thị trường
tự do, mơ hình kinh tế thị trường xã hội coi các mục tiêu xã hội và phát triển con người
(công bằng xã hội, phúc lợi cho người nghèo và cho người lao động, quyền tự do phát
triển của mọi người dân,…) là mục tiêu chính của q trình phát triển kinh tế thị trường
và nhà nước cần dẫn dắt nền kinh tế để nhằm mục đích đạt được các mục tiêu này.
Đặc điểm: Mơ hình kinh tế thị trường xã hội đã đề cao vai trò điều tiết của nhà
nước để thúc đẩy phát triển không chỉ cho mục tiêu tăng trưởng và hiệu quả kinh tế mà
còn cho cả nhiệm vụ phát triển xã hội và con người. Việc triển khai mơ hình kinh tế thị
trường xã hội trên thực tế đã mang lại những kết quả phát triển tích cực, không chỉ ở một
vài nước, tại một vài thời điểm riêng lẻ mà kéo dài trong nhiều thập niên. Điều này xác
nhận ưu điểm của mơ hình kinh tế thị trường xã hội.


Đối với mơ hình kinh tế thị trường xã hội được thực hiện thành công ở khá nhiều
nước Tây Bắc Âu, điển hình là Đức (khởi ng̀n của mơ hình kinh tế thị trường xã hội),
Thuỵ Điển, Na Uy hay Phần Lan. Xét theo tính chất đặc trưng, mơ hình kinh tế thị trường
xã hội còn có mặt ở một số nước khác như Đan Mạch, Hà Lan, Pháp và Bỉ với những
mức độ khác nhau


1.3 Mơ hình kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa
- Định nghĩa: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sản phẩm của thời

-

kỳ Đổi Mới, thay thế nền kinh tế kế hoạch bằng nền kinh tế hỗn hợp hoạt động
theo cơ chế thị trường. Những thay đổi này giúp Việt Nam hội nhập với nền kinh
tế toàn cầu. Cụm từ "định hướng xã hội chủ nghĩa" mang ý nghĩa là Việt Nam
chưa đạt đến chủ nghĩa xã hội mà đang trong giai đoạn xây dựng nền tảng cho một
hệ thống xã hội chủ nghĩa trong tương lai.
Đặc điểm: Là nền kinh tế hỗn hợp, vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự
điều tiết của nhà nước. Là nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu và đa dạng
các thành phần kinh tế, trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đất
đai thuộc sở hữu toàn dân. Việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các ng̀n lực
khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Là nền kinh
tế thị trường do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam quản lý, điều tiết vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh". Là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế

2, Các mơ hình kinh tế của Việt Nam
2.1 Mơ hình kinh tế thị trường


Định nghĩa: Đây là mơ hình kinh tế mà cho phép tất cả các hàng hóa được pháp
luật cho phép kinh doanh đều được tự do lưu thơng trong thị trường, hồn tồn dựa trên
yếu tố cung và cầu. Đây là loại mô hình kinh tế có xu hướng tự cân bằng, điều tiết mà
không cần quá nhiều sự tác động điều chỉnh.
Đặc điểm: Mơ hình kinh tế thị trường xã hội được xây dựng và thừa nhận các yếu
tố cơ bản phổ biến của kinh tế thị trường, nhưng khác với mô hình kinh tế thị trường tự
do, mơ hình kinh tế thị trường xã hội coi các mục tiêu xã hội và phát triển con người
(công bằng xã hội, phúc lợi cho người nghèo và cho người lao động, quyền tự do phát
triển của mọi người dân,…) là mục tiêu chính của quá trình phát triển kinh tế thị trường
và nhà nước cần dẫn dắt nền kinh tế để nhằm mục đích đạt được các mục tiêu này.
Đại dịch Covid 19 đã làm thay đổi hoàn toàn đời sống kinh tế, chính trị tồn cầu.
Hậu quả lớn nhất là tăng trưởng kinh tế toàn cầu giảm sút, các chuỗi cung ứng sản phẩm
bị đứt gãy, chi phí vận chuyển tăng cao.
Theo quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo, tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm
2021 ở mức 6%, cao hơn con số do Ngân hàng Thế giới (WB) là 5,6%. Tuy nhiên, với
việc tăng trưởng kinh tế giảm 6,17% trong quý III 2021, dự báo về tăng trưởng kinh tế
của Việt Nam đã bị kéo giảm xuống còn 3,8% (theo số liệu của Ngân hàng phát triển
Châu Á – ADB).


Khi so sánh nền kinh tế Việt Nam với thế giới, chúng ta nên nhìn từ hai khía cạnh.
Một là trong năm 2020, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt mức 2,9%, thấp nhất
trong thập niên 2011 – 2020. Tuy nhiên, nếu nhìn trên bình diện thế giới, con số 2,9% là
con số đáng tự hào, Việt Nam nằm trong số ít những quốc gia có chiến thắng kép, vừa
đẩy lùi đại dịch Covid 19, vừa giữ được mức tăng trưởng kinh tế dương.
Ở khía cạnh thứ hai, thế giới bước vào năm 2021 với những tiến bộ về phát triển
vaccine, tốc độ tiêm chủng ở nhiều quốc gia, tốc độ tăng trưởng tồn cầu đã có dấu hiệu
tích cực, thì tăng trưởng kinh tế Việt Nam lại đang trong tình trạng “hụt hơi”.
Kinh tế Việt Nam vẫn còn rất nhiều tiềm năng phát triển, mục tiêu đưa đất nước
đến năm 2030 trở thành nước có thu nhập trung bình cao là điều có thể đạt được. Tuy

nhiên, nhìn một cách lâu dài về tầm nhìn, vị thế, sức mạnh dân tộc, Việt Nam cần phải
thay đổi rất nhiều, để hoàn thành mục tiêu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu
nhập bình quân đầu người ở mức cao.
2.2 Mơ hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung

Loại mơ hình này sẽ chịu nhiều sự tác động, điều chỉnh của nhà nước trong việc
điều tiết giá cả hay phân phối hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Theo đó trong mơ hình
kinh tế này thì yếu tố cung – cầu không quá được chú trọng và cũng khơng được diễn ra
theo tự nhiên do có sự can thiệp quá nhiều phía nhà nước vào hoạt động kinh tế
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung là một hệ thống kinh tế bao gồm đất đai, nhà
xưởng và những nguồn lực kinh tế khác của quốc gia đều thuộc sở hữu Nhà nước.
Chính phủ thực hiện gần như tất cả các quyết định liên quan tới hệ thống kinh tế
bao gồm: Sản xuất như thế nào, sản xuất ra cái gì, sản xuất cho ai, giá cả của sản phẩm
như thế nào, của bộ phận lao động và bỏ vốn như thế nào?
Trong một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Chính phủ được coi là người ra
quyết định cao nhất và tốt hơn bất kì một nhà kinh doanh, nhà quản lý hay người tiêu
dùng nào trong việc phân bổ các nguồn lực của đất nước.
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung đóng góp quan trọng vào việc cải tạo quan hệ
sản xuất, tập trung tư liệu sản xuất vào trong tay nhà nước. Do đó, có điều kiện tập trung
sức sản xuất để nâng cao năng suất lao động.
Việc tập trung các tư liệu sản xuất và sản xuất có kế hoạch tạo điều kiện tập trung
sức lao động và vốn đầu tư vào những ngành trọng điểm, những cơng trình quan trọng
nhằm đưa đến sự thay đổi cơ bản nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế có kế hoạch và tách xa thị trường nên nền kinh tế tránh được lạm phát,
tránh được các khủng hoảng và các rủi ro của thị trường như trong các nền kinh tế tư bản
chủ nghĩa, giá cả có khi được duy trì cố định trong vài chục năm.


II, Lý thuyết về khía cạnh hiệu quả và chính sách tài chính cơng với mục tiêu hiệu
quả

2.1 Chính sách tài chính cơng, khía cạnh hiệu quả
Tài chính cơng là tổng thể các hoạt động thu, chi bằng tiền do Nhà nước tiến hành, tài
chính cơng thể hiện các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình tạo lập, sử dụng, quản lý
các quỹ công nhằm phục vụ thực hiện các chức năng của Nhà nước và đáp ứng các nhu
cầu, lợi ích chung của tồn xã hội “.
Sử dụng tài chính cơng hiệu quả là trong cơng tác quản lý, sử dụng tài sản cơng,
Bộ Tài chính kịp thời ban hành văn bản thuộc thẩm quyền của tỉnh về quản lý, sử dụng
tài sản công theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công và văn bản chỉ đạo của
Chính phủ, Bộ Tài chính để sở, ngành, đơn vị, địa phương triển khai quản lý, sử dụng tài
sản công đúng tiêu chuẩn, định mức; tăng cường quản lý chặt chẽ việc mua sắm tài sản
công, gói mua sắm tài sản thực hiện đấu thầu qua mạng theo đúng lộ trình để lựa chọn
nhà thầu đảm bảo đủ năng lực, nâng cao tính minh bạch, tăng tính cạnh tranh cho gói
thầu, tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước. Các đơn vị sự nghiệp công lập quản lý, sử dụng
tài sản cơng vào mục đích kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết đảm bảo tiết kiệm,
hiệu quả, đúng mục đích, cơng năng, đối tượng, tiêu ch̉n, định mức, chế độ theo quy
định…

2.2 Sử dụng tài chính cơng với mục tiêu hiệu quả
Tài chính cơng là cơng cụ đảm bảo ng̀n lực tài chính cho việc tờn tại và hoạt
động có hiệu quả của nhà nước. Tài chính cơng huy động các ng̀n lực từ mọi lĩnh vực,
mọi thành phần kinh tế, địa vị xã hội để hình thành nên ng̀n tài chính cho tồn quốc
gia. Sau khi đã huy động được ng̀n tài chính, thì tài chính cơng đóng vai trò phân phối
ng̀n đó cho từng các chủ thể, đảm bảo sự hoạt đơng của tồn bộ máy nhà nước và thực
hiện các chức năng của nhà nước . Và tài chính cơng thực hiện việc kiểm tra giám sát,
đảm bảo cho các ng̀n tài chính đã phân phối được sử dụng một cách hiệu quả, hợp lý,
đúng mục đích.
Tài chính cơng mà trong đó đặc biệt là Ngân sách nhà nước đóng vai trò chỉ đạo
trong nền kinh tế nhà nước. Tài chính cơng thực hiện thu các khoản thu các chủ thể khác
trong nền kinh tế để tạo lập quỹ tiền tệ chung. Và tài chính cơng cũng thực hiện các hoạt
động đầu tư cho các doanh nghiệp nhà nước, đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đầu tư cho khoa

học công nghệ, trang thiết bị,… tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể trong nền kinh tế
mở rộng, phát triển. Tài chính cơng đóng vai trò định hướng, hướng dẫn cho hoạt động
của các chủ thể trong nền kinh tế như việc hướng dẫn tiêu dùng, đầu tư qua các chính
sách về thuế. Tài chính cơng thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh doanh,
định hướng đầu tư, điều chỉnh cơ cấu của nền kinh tế theo lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh


vực,.. ví dụ như việc miễn giảm thuế tại các khu vực cơng nghiệp, khu vực có điều kiện
khó khăn,… nhằm thu hút đầu tư vào các khu vực này. Tài chính cơng can thiệp, điều tiết
thu nhập xã hội bằng công cụ thuế, để giảm bớt thu nhập cao, nâng dần các thu nhập
thấp, thực hiện các hoạt động về an sinh xã hội, giúp đỡ các trường hợp khó khăn như trẻ
em mờ cơi, người khuyết tật,…
Trong bối cảnh covid như hiện tại, để sử dụng tài chính cơng hiệu quả, Bộ Tài
chính đã chủ động, kịp thời đề xuất, trình cấp có thẩm quyền ban hành và ban hành theo
thẩm quyền các giải pháp về thu, chi ngân sách nhà nước để hỗ trợ người dân và doanh
nghiệp vượt qua khó khăn do tác động của dịch COVID-19. Bằng nhiều biện pháp tài
khóa đờng bộ, quyết liệt, kết quả năm 2021 thu ngân sách nhà nước ước tăng so dự toán,
tỷ lệ động viên vào ngân sách nhà nước vượt kế hoạch đề ra (khoảng 15,5% GDP). Chi
ngân sách nhà nước hoàn thành mục tiêu đề ra, bảo đảm đủ nguồn cho đầu tư phát triển
và đáp ứng kịp thời các nhiệm vụ chi sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh,
quản lý nhà nước.
Cụ thể, năm 2021, về thu ngân sách nhà nước, để hỗ trợ cho doanh nghiệp, người
dân vượt qua khó khăn do dịch COVID-19, BộTài chính đã đề xuất các giải pháp hỗ trợ
về dòng tiền, tăng khả năng thanh khoản cho doanh nghiệp thông qua việc miễn, giảm,
giãn thuế và một số khoản thu ngân sách nhà nước. Qua đó giảm gánh nặng, chi phí đầu
vào, giúp cho người sản xuất – kinh doanh vượt qua khó khăn về tài chính, duy trì sản
xuất và việc làm cho người lao động.
Về điều hành chi ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ, trình
Quốc hội u cầu các Bộ, cơ quan Trung ương, địa phương thực hiện tiết kiệm, cắt giảm
nhiều khoản chi như: Hội nghị, công tác trong và ngồi nước, kinh phí chi thường xun

khác còn lại của năm; thu hồi các khoản chi thường xuyên chưa thật sự cần thiết, chậm
triển khai để bổ sung dự phòng ngân sách địa phương, tập trung kinh phí cho cơng tác
phòng, chống dịch COVID-19.
Với những giải pháp tích cực nêu trên, đến ngày 31/12/2021, ngân sách nhà nước
đã chi 74.000 tỷ đồng cho công tác phòng, chống dịch và hỗ trợ người dân vượt qua tác
động của đại dịch COVID-19 theo các Nghị quyết của Chính phủ. Bên cạnh đó, đã xuất
cấp gần 158.200 tấn gạo dự trữ quốc gia để cứu trợ, cứu đói cho nhân dân, khắc phục hậu
quả thiên tai, giáp hạt đầu năm và hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng của dịch COVID-19 ở
33 địa phương.
Cả năm, bội chi ngân sách nhà nước thực hiện đạt dưới 4% GDP. Tổng thu ngân
sách nhà nước đến ngày 31/12/2021 đạt 1.563,3 nghìn tỷ đờng, vượt 16,4% so dự toán,
tăng 3,7% so thực hiện năm 2020. Việc thực hiện kế hoạch vay, trả nợ của Chính phủ cho
cân đối ngân sách nhà nước được Bộ Tài chính điều hành, quản lý trong phạm vi dự tốn
được Quốc hội quyết định. Thực hiện hiệu quả cơng tác vay về cho vay lại, bảo lãnh
Chính phủ bảo đảm trong hạn mức đã được Chính phủ phê duyệt.


Một khi hệ thống theo dõi giám sát hoạt động như nêu trên được đưa vào vận
hành, thì Việt Nam sẽ có một sự hiểu biết tốt hơn về mối liên hệ giữa các q trình quản
lý tài chính cơng được tuân thủ như thế nào và các đầu ra quản lý tài chính cơng đạt được
như thế nào, đờng thời cải tiến các quy trình tổ chức dựa trên hiểu biết đó nhằm mục tiêu
đạt được kết quả tốt hơn trong cơng tác quản lý tài chính cơng. Nghiên cứu quản lý tài
chính cơng lý thuyết và thực chứng của quốc tế như được trích dẫn trong phần trên gợi
cho thấy rằng tuân thủ các quá trình như vậy và đạt được các đầu ra như vậy sẽ đưa tới
các tác động đầu ra chính sách được các Chính phủ kỳ vọng, bao gờm việc cung cấp dịch
vụ có tính nhậy bén đáp ứng và trách nhiệm giải trình hơn đối với người nghèo, góp phần
cho tăng trưởng vị người nghèo, giảm nghèo, tăng cường và trao quyền và tham gia xã
hội của người nghèo. Tuy nhiên, những điều này được dựa trên các giả định có tính ch̉n
tắc được rút ra từ những kinh nghiệm tại các nước phát triển, mà không phải lúc nào cũng
áp dụng được cho các nước đang phát triển là những nước mà tại đó các biện pháp thực

hành và các hệ thống chính quy có thể bị phá hỏng bởi các biện pháp thực hành phi chính
quy và có tính cách tân được theo đuổi bởi các bên hoạt động chủ chốt để bảo vệ những
lợi ích của họ.

Thực hiện thành cơng những biện pháp tăng cường và nâng cao nền hành chính
cơng và tài chính cơng sẽ giúp cải thiện các năng lực điều phối, để đảm bảo rằng các chi
phí của khu vực cơng có thể chấp nhận được, và để xây dựng một nền tảng hành chính
vững chắc để Việt nam có thể trở thành một nước có mức thu nhập bậc trung và có khả
năng duy trì được điều đó trong những thập niên tới
III, Lý thuyết về khía cạnh cơng bằng và chính sách tài chính cơng với mục tiêu
cơng bằng
3.1 Chính sách tài chính cơng
Tài chính công là tổng hợp tất cả các hoạt động thu chi được sử dụng bằng tiền do
nhà nước tiến hành. Tài chính cơng phản ánh hệ thống các quan hệ kinh tế nảy sinh trong
quá trình tạo lập cũng như sử dụng các quỹ cơng. Mục đích là nhằm phục vụ cho thực
hiện các chức năng của nhà nước. Đồng thời đáp ứng các nhu cầu và lợi ích chung của
toàn thể xã hội.
Ngân sách nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong Tài chính cơng. Thu của Ngân sách
nhà nước được lấy từ mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội khác nhau, trong đó thuế là ng̀n thu
chủ yếu. Chi tiêu của Ngấn sách nhà nước nhằm duy trì sự tồn tại hoạt động của bộ máy
nhà nước và phụ vụ thực hiện các chức năng của nhà nước
3.2 Chính sách tài chính cơng với mục tiêu cơng bằng


Điều kiện đầu tiên ở Việt Nam là các nhà hoạch định chính sách/ cơng dân lại
khơng có được sự tiếp cận đối với thông tin tổng hợp, dễ dàng và kịp thời, khiến cho khó
có thể có được vốn kiến thức sáng suốt về tình hình cải cách hành chính của đất nước.
Cần phải có những cơng cụ giúp cung cấp một hình ảnh chi tiết về quá trình cải cách
hành chính và diễn biến của q trình đó, nhất là khi xét tới thực tế rằng cải cách hành
chính tại Việt Nam đã đem lại những kết quả pha trộn và chứng tỏ là một quá trình đầy sự

căng thẳng. Nó đã cho thấy là một chương trình tham vọng về cải cách Chính phủ, một
chiến lược chính trị của các cán bộ Đảng và Nhà nước và một lĩnh vực then chốt rủi ro
cao tất yếu đối với hỗ trợ của nhà tài trợ. Một chương trình tham vọng như vậy đòi hỏi
phải có sự theo dõi giám sát và đánh giá sâu rộng để đảm bảo được triển khai đúng
hướng. Điều này đặc biệt đúng là trường hợp xảy ra bởi vì nghiên cứu quốc tế cho thấy
rằng phần nhiều cải cách quản lý tài chính công đang diễn ra chủ yếu là dựa trên cơ sở
của ý thức hệ, với ít thực chứng làm nền tảng cho nhiều trụ cột then chốt. Để tránh điều
này tại Việt Nam, cần thiết phải nâng cao vốn hiểu biết sâu rộng về những nguyên nhân
của những thách thức quản lý tài chính cơng, những biện pháp khuyến khích và những
đường hướng chính sách hướng tới sự cải tiến, đồng thời cần nhằm xử lý những thách tức
về mặt tổ chức từ đó vốn hiểu biết này có thể được vận dụng để cải thiện các quy trình
quản lý tài chính cơng.
Những yếu kém về chất lượng và mức độ sẵn có của số liệu tại Việt Nam đã hạn
chế nghiêm trọng năng lực của nước này trong việc biết được liệu những cải cách có đi
đúng hướng hay khơng. Ví dụ, các l̀ng thơng tin thì bị lệch pha, theo đó, Tổng cục
Thống kê gửi các số liệu của mình cho các Sở kế hoạch và Đầu tư trong tháng 12, trong
khi đó giai đoạn then chốt cho việc lập kế hoạch lại là tháng 7 và tháng 8; để đối phó với
tình hình này, các Sở Kế hoạch và Đầu tư phải dựa vào những dự tính của mình và các
báo cáo từ các sở ban ngành, chứ không phải là những số liệu đáng tin cậy từ phía Tổng
cục Thống kê. Đờng thời cũng khơng có một khuôn khổ phù hợp cho việc theo dõi giám
sát và đánh giá tại các cấp chính quyền địa phương. Các kế hoạch được xây dựng mà
không được cấu trúc sao cho có thể đánh giá được – bao gờm các mục tiêu, các đầu ra,
các hoạt động và các đầu vào thường bị lẫn lộn, khiến cho hầu như không thể nào xác
định được làm thế nào để việc thực hiện kế hoạch đạt được các mục tiêu đặt ra, hoặc liệu
việc thực hiện kế hoạch có đạt được các chỉ tiêu đã đề ra hay không. Các tỉnh đã không
được cung cấp những quy định hướng dẫn chặt chẽ khúc triết về cách thức làm thế nào để
thiết lập được các hệ thống theo dõi giám sát và đánh giá (M&E) đối với việc dõi theo hạ
tầng cơ sở và cung cấp dịch vụ - và khi thiếu vắng những báo cáo như vậy thì đã khơng
thiết lập được các cách thức để theo dõi các hoạt động của mình, chứ chưa nói tới các kết
quả đầu ra (Cơ quan Hợp tác Kỹ thuật Bỉ, 2007).

Bên cạnh đó, cũng như trong nhiều hệ thống tư pháp khác, những thay đổi về tổ
chức là cần thiết để nâng cao chất lượng dữ liệu và phân tích chính sách, làm cơ sở cho
các cơ quan, ban ngành thực hiện các chính sách một cách hiệu quả. Đờng thời cũng cần


có những đổi mới về cơ cấu tổ chức và cách thức làm việc, văn hoá thong tin mới, các
quy trình trao đổi và sử dụng thơng tin. Hay nói cách khác, đây là sự kết hợp giữa nâng
cao chất lượng và ng̀n tiếp cận thơng tin, trong đó có việc cải thiện tính năng động về
tổ chức và năng lực giao tiếp trong sử dụng thong tin, cũng như niềm tin của tổ chức và
cá nhân về thông tin, từ đó hướng tới nâng cao hiệu quả thực hiện
Để xác định vị thế của Việt Nam xét về phương diện ba kết quả đầu ra lý tưởng
trong quản lý tài chính cơng , cần thiết phải có một sự đánh giá có tính hệ thống dựa trên
các ch̉n mực quốc tế. Quyết định của Bộ Tài chính tiếp tục với một cơng trình đánh giá
hoạt động chi tiêu cơng và trách nhiệm giải trình tài chính (PEFA) trong năm 2010, và
một lần nữa trong các năm 2012-13, được hoan nghênh trong bối cảnh này. Công cụ đánh
giá này hiện đang được thực hiện thông qua một quan hệ đối tác gồm 8 đối tác phát triển
hợp tác. 40 nước đã hồn thành. Khn khổ PEFA bao gờm một bộ 28 chỉ số đối với việc
đo lường hoạt động, và một khuôn khổ đối với báo cáo. Xây dựng trên ba kết quả đầu ra
về ngân sách như được bàn đến ở trên, các chỉ số đo lường sáu phương diện: sự tín nhiệm
ngân sách, tính tồn diện và tính minh bạch, đờng bộ với chính sách, tính khả đốn và sự
kiểm soát, kế toán và báo cáo, và giám sát và kiểm tốn của bên ngồi. Mặc dù khơng có
một chỉ số PEFA đối với tham nhũng, nhưng những cải tiến trong 28 lĩnh vực có thể giúp
giảm bớt các cơ hội cho tham nhũng. PEFA và các chỉ số liên quan khác là hữu ích vì
chúng đo lường thực hành đích thực, chứ khơng phải là cảm nhận hoặc uy tín, và chúng
xem xét tới hành động có thể trở thành các mục tiêu trực tiếp của cải cách (Wescott,
2008). Các báo cáo đánh giá chi tiêu trung hạn PER và các đánh giá tín dụng và trách
nhiệm giải trình quốc gia và các cơng cụ khác bao quát một số trong những phương diện
này, chứ không bao gồm tất cả, và không theo một cách thức cho phép Việt Nam theo dõi
một cách có ý nghĩa hoạt động quản lý tài chính cơng liên quan tới các nước so sánh
được.

IV, Chính sách tài chính phản chu kỳ các nước phát triển và các nước đang phát
triển. Hàm ý chính sách cho Việt Nam
4.1 Chính sách tài chính phản chu kì
Chính sách tài khóa ngược chu kỳ là khi chính phủ giảm chi tiêu và tăng thuế khi
nền kinh tế đang ở trạng thái tốt, hay tăng chi tiêu và giảm thuế khi nền kinh tế đang ở
trạng thái suy yếu. Chính sách tài khóa ngược chu kỳ là cần thiết để đưa nền kinh tế ra
khỏi tình trạng suy thối hoặc lạm phát.
Các nước phát triển có thể thực hiện chính sách tài khóa ngược chu kỳ thơng qua
các cơng cụ bình ổn tự động. Gọi là cơng cụ bình ổn tự động bởi vì chính cơ chế vận
hành của các công cụ này “tự động” đảm bảo chính sách tài khóa ngược chu kỳ. Chẳng
hạn, khi suy thoái, thất nghiệp tăng lên, khiến bảo hiểm thất nghiệp và các khoản chuyển
nhượng xã hội tăng lên theo. Để giúp đỡ người dân, chính phủ tăng các khoản trợ cấp,
bảo hiểm, hỗ trợ người nghèo. Có nghĩa là chi tiêu chính phủ đã tăng trong thời kỳ suy


thối, giúp kích thích nền kinh tế. Tương tự, chính sách thuế cũng có thể ngược chu kỳ,
chẳng hạn khi suy thoái thu nhập cá nhân giảm làm doanh số thu được từ thuế của chính
phủ cũng giảm theo.
Tuy nhiên, các nước đang phát triển thường khơng có các cơng cụ bình ổn tự
động. Bởi vì hiếm có các khoản bảo hiểm thất nghiệp. Các khoản chuyển nhượng chỉ
chiếm một phần nhỏ trong ngân sách. Chi tiêu của chính phủ và tiền lương chiếm phần
lớn chi tiêu trong một nước đang phát triển. Thuế trong các nước đang phát triển cũng
thường là thuế gián thu (thuế thương mại và thuế tiêu dùng) thay vì thuế trực thu (thuế
thu nhập). Chẳng hạn ở nước Mỹ, hầu hết mọi người phải trả thuế thu nhập. Giả sử nếu
thu nhập là $60,000, thuế là 28%, khi thu nhập chỉ còn là $0, thuế cũng bằng 0. Khi đó
doanh thu thuế của chính phủ tự động giảm khi có suy thối.
Chính sách tài khóa phản chu kỳ là chính sách tài khóa (CSTK) được chính phủ
các nước thực hiện thắt chặt (giảm chi tiêu, tăng thuế) khi nền kinh tế ở thời kỳ thuận lợi,
và thực hiện mở rộng (tăng chi tiêu, giảm thuế) khi nền kinh tế ở thời kỳ khó khăn. Các
bằng chứng thực nghiệm cũng cho thấy CSTK tại các nước đang phát triển thường là

đồng chu kỳ. Điều này đặt ra vấn đề về khả năng của việc sử dụng chính sách tài khóa để
thúc đẩy tăng trưởng trong các giai đoạn suy thối. Có thể thấy rằng tác động của điều
chỉnh CSTK sẽ phụ thuộc vào bối cảnh của các quốc gia nên cần có sự phân tích cụ thể
đối với trường hợp của từng nước.
Hiện tại, nước ta đang trong thời kì covid bùng nổ, để ứng phó với đại dịch covid
19, chính phủ các nước đã sử dụng chính sách tài khóa nghịch chu kỳ nhằm chống lại suy
thoái kinh tế, an sinh xã hội và tạo việc làm cho người dân. Điều đó thể hiện thơng qua
các gói hỗ trợ và các việc làm sau:
Quy mơ các gói hỗ trợ tài khóa trong khu vực có sự phân biệt do tiềm lực kinh tế
và không gian tài khóa của mỗi quốc gia cũng như mức độ ảnh hưởng của dịch bệnh.
Việc thực hiện các gói kích thích kinh tế đã khiến các nước đối mặt với bội chi và ngân
sách tăng cao.
Đối tượng trọng tâm của các gói hỗ trợ hầu hết được các nước ưu tiên tập trung
cho hỗ trợ hệ thống y tế; bảo đảm an sinh xã hội; hỗ trợ thu nhập cho người lao động; hỗ
trợ doanh nghiệp duy trì hoạt động và phục hồi; tăng đầu tư công; xây dựng các chương
trình kích cầu tiêu dùng và du lịch nội địa... Trong đó, các khoản chi dành cho lĩnh vực y
tế, sức khỏe và hỗ trợ thu nhập chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị của gói kích thích tài
khóa.
Hầu hết các nước đều tăng cường chi ngân sách hỗ trợ (16/16 nước thống kê), kết
hợp miễn, giảm, hoãn, gia hạn nộp thuế, phí các loại (15/16 nước thống kê), nhiều nước


cũng có hỗ trợ gián tiếp thơng qua các biện pháp hỗ trợ lãi vay, thanh khoản, bảo lãnh
(trên dưới 10 nước/16 nước thống kê).
Hỗ trợ cho khu vực doanh nghiệp cũng rất đa dạng, từ trợ cấp, hỗ trợ thanh khoản
(bơm vốn, bảo lãnh tín dụng; kéo dài thời gian áp dụng bảo lãnh….); đến miễn giảm, cho
phép giãn, hoãn khai, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuế đất, thuê đất, các khoản
đóng góp an sinh xã hội; không phạt các khoản nộp trả chậm; nhiều nước giảm phí nhiên
liệu bay, phí sân bay, bến cảng, nhà ga…
Các nước đều có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa và tiền tệ trong

ứng phó với những tác động bất lợi từ đại dịch Covid-19. Để tạo ng̀n tài chính rẻ hơn
cho các biện pháp cứu trợ Covid-19 của Chính phủ, một số nước như Hàn Quốc,
Indonesia, Philippines cho phép Ngân hàng Trung ương mua trái phiếu Chính phủ từ thị
trường sơ cấp/ thứ cấp. Ở chiều ngược lại, một số nước thông qua Ngân hàng Trung ương
hỗ trợ ng̀n tài chính với lãi suất ưu đãi cho các tổ chức tín dụng để thực hiện cơng cụ
tài chính chuyển nhượng và thỏa thuận mua lại tài sản.
Sự phối hợp chính sách còn được thể hiện rõ nét hơn trong việc hỗ trợ khu vực
doanh nghiệp tiếp cận dòng vốn tín dụng thơng qua cơ chế bảo lãnh của chính phủ (Trung
Quốc, Hàn Quốc, Singapore…). Trong bối cảnh dư địa của chính sách tiền tệ dần bị thu
hẹp khi lãi suất đã ở mức rất thấp, áp lực lạm phát và nợ xấu gia tăng thì vai trò của chính
sách tài khóa càng được gia tăng, trong khi chính sách tiền tệ đóng vai trò hỗ trợ.
4.2 Hàm ý chính sách cho Việt Nam
Do khủng hoảng kinh tế - xã hội lần này xuất phát từ dịch bệnh Covid-19 mà
không phải xuất phát từ khủng hoảng kinh tế - tài chính nên về phương diện lý luận cũng
như thực tiễn thì để xử lý triệt để thì các giải pháp chuyên môn về y tế vẫn mang tính chất
quyết định và chủ yếu, còn chính sách kinh tế vĩ mơ là các cơng cụ mang tính hỗ trợ.
Trong bối cảnh dịch bệnh vẫn còn tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; dư địa
tài khóa được củng cố trong các năm gần đây, an tồn nợ cơng vẫn được đảm bảo, trong
ngắn hạn Việt Nam có thể chấp nhận mức bội cao hơn và nợ công tăng trong giai đoạn
2021-2023 để hỗ trợ nền kinh tế.
Các gói hỗ trợ tài khóa là hết sức cần thiết trong giai đoạn nền kinh tế bị ảnh
hưởng bởi đại dịch và cũng không kém phần quan trọng khi nền kinh tế bước sang giai
đoạn chuyển tiếp hướng tới phục hồi.
Trong ngắn hạn, mục tiêu của gói hỗ trợ tài khóa là kiềm chế đại dịch, giảm thiểu
tác động về y tế và kinh tế nên sẽ cần dành ưu tiên cho chi tiêu y tế, đảm bảo an sinh xã
hội đối với người dân và người lao động (đặc biệt là lao động tự do, lao động khơng
chính thức), hỗ trợ cho khu vực doanh nghiệp hướng vào các ngành lan tỏa và các doanh


nghiệp có khả năng phục hời nhanh sau đại dịch; các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó

các khoản trợ cấp trực tiếp vẫn đóng vai trò quan trọng.
Về dài hạn với mục tiêu hỗ trợ phục hồi nền kinh tế, các biện pháp tài khóa trong
giai đoạn này cần chuyển dần từ hỗ trợ trực tiếp sang hỗ trợ gián tiếp, từ hỗ trợ về tài
chính sang hỗ trợ về cơ chế, từ hỗ trợ số nhiều sang số ít các đối tượng còn chịu ảnh
hưởng lâu dài của đại dịch, hướng tới thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và tăng
trưởng xanh, bền vững...



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×