Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Chuyển giao công nghệ Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.68 KB, 25 trang )

Quản lý công nghệ Th.s Nguyễn Thị Thu Hằng
I. Giới thiệu :
Trong vài năm lại đây do thay đổi cơ chế quaœn lý và nền kinh tế đang trên đà phát triển, mặt
khác do sự khắc nghiệt cuœa kinh tế thị trường, nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, buộc
phaœi đổi mới công nghệ và thị trường công nghệ trơœ nên đầy sôi động và mới meœ.
Công nghệ có tác động rất lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Trước đây chúng ta
chấp nhận sử dụng công nghệ lạc hậu trong sản xuất thì ngày hôm nay đã thấy được hậu quả của nó.
Mọi người đều nhìn thấy, ý thức được việc lãng phí, ném tiền qua cửa sổ của ngày hôm qua. Công nghệ
mới giúp tiết kiệm năng lượng và nguyên liệu do giảm phế phẩm. Chỉ cần giảm được 2% phế phẩm là
đã có đủ tiền trả lương cho công nhân một xưởng sản xuất.
Công nghệ tiên tiến có thể tạo ra những sản phẩm đa tiện ích với chất lượng cao đồng thời công
nghệ tiên tiến cũng là một nhân tố quan trọng trong việc ứng dụng các mô thức quản lý hiện đại.Giá cả
của công nghệ cao có thể khá cao, song hiệu quả do nó đem lại rất rõ rệt: sản phẩm làm ra có chất lượng
tốt, giá thành hạ nên sức cạnh tranh lại cao, có thể hòa vốn và có lãi nhanh. Hơn nữa, chắc chắn tránh
được ô nhiễm như công nghệ cũ, lạc hậu.
Các doanh nghiệp đã boœ ra những khoaœn tiền rất lớn để mua sắm máy móc thiết bị, công
nghệ mới cho nên đã tạo ra được nhiều saœn phẩm có tính cạnh tranh và đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, đáp
ứng được thị hiếu người tiêu dùng caœ trong và ngồi nước. Đó chính là động lực thúc đẩy để ngành sản
xuất công nghiệp giữ được nhịp độ tăng trươœng cao. Nhưng nhìn chung tồn cục thì tình trạng máy móc
thiết bị và công nghệ cuœa các cơ sơœ sản xuất công nghiệp còn lạc hậu, chậm đổi mới và chắp vá. Đây
cũng chính là nguyên nhân làm cho ngành saœn xuất cả nước vẫn chưa gia tăng đạt mức yêu cầu đề ra,
hiệu quaœ chưa đạt như mong muốn, số lượng các đơn vị saœn xuất công nghệ thuộc mọi thành phần
không hiệu quaœ và thua lỗ không ít.
II. Thực trạng công nghệ trong các ngành sản xuất công
nghiệp:
Ông Nguyễn Bảo Hùng, Phó vụ trưởng Vụ Đánh giá - Thẩm định và Giám định công nghệ (Bộ
Khoa học và Công nghệ), cho rằng công nghệ ở trong nước hầu hết chỉ ở dạng nghiên cứu, đang trong
quá trình hồn thiện. Muốn đưa vào ứng dụng cần phải có giai đoạn triển khai để hồn thiện nhưng do
kinh phí còn hạn hẹp nên công nghệ khó đi vào thực tế. Đó là chưa kể công nghệ cần phải chứng minh
được khả năng thương mại hóa. Từ những khó khăn đó dẫn đến tình trạng bên mua không thể mua và
bên bán cũng không thể bán một công nghệ hồn chỉnh.


Tính chung, việc đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ cuœa ngành công nghiệp vẫn là khâu
yếu. Tyœ lệ máy móc thiết bị mang tính hiện đại chỉ chiếm 10% tồn ngành, trung bình tiên tiến chiếm
38% và lạc hậu chiếm tới 52%. Đây rõ ràng là nguyên nhân chuœ yếu làm cho saœn xuất công nghiệp
(SXCN) tuy có tăng trươœng trong những năm qua, song thiếu vững chắc, không ổn định và khaœ năng
mơœ rộng thị trường ra nước ngồi còn hạn chế.
ƠŒ khu vực công nghiệp ngồi quốc doanh, các cơ sơœ doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần,
công ty TNHH có tốc độ đầu tư nhanh hơn các doanh nghiệp nhà nước. Khu vực liên doanh với nước
ngồi, máy móc thiết bị chuœ yếu do nước ngồi mua sắm đem vào, phần trong nước không đáng kể (10 -
15% tổng giá trị thiết bị). Bình quân hàng năm giá trị thiết bị mới đưa vào ơœ khu vực này trên dưới 20
triệu USD.
Nhóm 1 1
Quản lý công nghệ Th.s Nguyễn Thị Thu Hằng
Nhìn chung, trình độ công nghệ còn lạc hậu ở hầu hết các ngành sản xuất, tốc độ và tỷ lệ đầu tư
đổi mới công nghệ còn quá thấp (khoảng 10 %/năm). Đây chính là một trong những nguyên nhân làm
cho sự tăng trưởng của các đơn vị thuộc sở thiếu vững chắc. Cụ thể ở một số ngành :
Ngành dệt : phần lớn thiết bị thuộc thế hệ nhập trước giải phóng, dùng công nghệ dệt thoi. Bình
quân tồn ngành gồm 85 % thiết bị lạc hậu và 15 % thiết bị tiên tiến ; trong đó chỉ có Công ty dệt may
Gia Định đạt tỷ lệ 55 % thiết bị lạc hậu và 45 % thiết bị tiên tiến.
Cơ khí và điện : thiết bị lạc hậu 74 %, 15 % trung bình, 11 % tiên tiến ; công nghệ thiếu đồng
bộ và yếu ở các khâu : tạo phôi, nhiệt luyện, gia công chính xác và thiết bị đo lường cao cấp.
Điện tử : công nghệ chủ yếu là lắp ráp dạng CKD các sản phẩm dân dụng ; trình độ tự động
hóa và năng suất còn thấp. Chưa có công nghệ chế tạo linh kiện và các thiết bị chuyên dùng.
Ngành giấy : có 68 % thiết bị lạc hậu, 22 % thiết bị trung bình và 10 % thiết bị tiên tiến.
Ngành may : hầu hết thiết bị đều có công nghệ ở mức độ trung bình (90 %) và khoảng 10 % là
tiên tiến.
Ngành cao su : tính chung, khoảng 70 % thiết bị lạc hậu, 30 % thiết bị tiên tiến, chỉ riêng có
Công ty Rubimex đạt tỷ lệ 20 % lạc hậu và 80 % tiên tiến.
Ngành nhựa : khoảng 40 % thiết bị lạc hậu, 30 % thiết bị trung bình, 30 % thiết bị tiên tiến.
Ngành hóa mỹ phẩm : tính chung, khoảng 70 % thiết bị lạc hậu và 30 % thiết bị tiên tiến.
(Nguồn : Sở Công nghiệp TPHCM)

III. Một số quan điểm về đổi mới công nghệ :
Lạc hậu về công nghệ, nhiều sản phẩm của doanh nghiệp trong nước đã không cạnh tranh nỗi
với các sản phẩm nhập khẩu hoặc có vốn đầu tư của nước ngồi. Theo một báo cáo của Sở Công nghiệp
TPHCM, 80% thiết bị, máy móc của các doanh nghiệp ở thành phố cần phải đổi mới, trong đó có 20%
thiết bị đạt trình độ tiến tiến hiện đại. Không làm được việc này thì thành phố không thể đạt được mức
tăng trưởng về công nghiệp từ 17-20%/năm như báo cáo chính trị của Đại hội Đảng bộ TPHCM lần
thứ 6 đã đề ra.
Ông Vũ Viết Ngoạn, Tổng giám đốc Vietcombank, nói. "Không thể không đầu tư cho công
nghệ. Đó là bài học kinh nghiệm của các nước". Muốn nâng cao khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp
cần đầu tư để hiện đại hóa thiết bị và công nghệ sản xuất. Dĩ nhiên đầu tư phải từng bước, có những
bước đầu tư đột phá nhưng không được nóng vội.
Đầu tư công nghệ, đổi mới và nâng cấp trang thiết bị để tiến dần tới hiện đại hóa là nhu cầu
thực tế của các ngành kinh tế VN. Nhưng phải lựa chọn hướng đầu tư như thế nào để vừa có hiệu quả,
vừa phù hợp với điều kiện thực tiễn của VN là chuyện không dễ dàng.
Bài tốn đổi mới công nghệ là bài tốn khó, trước hết là do thiếu vốn. Hiện nay việc đổi mới
công nghệ thiết bị phần lớn do các doanh nghiệp sử dụng vốn vay hoặc vốn tích lũy, vốn ngân sách
chiếm tỷ lệ rất thấp. Mặt khác, từng địa phương, từng ngành chưa khảo sát tồn diện để lượng định số
thiết bị, công nghệ là bao nhiêu. Mặt khác, chọn công nghệ gì, của nước nào để đạt hiệu quả cao trong
sản xuất kinh doanh cũng không phải là vấn đề đơn giản. Đỗi mới công nghệ là bài tốn "hóc búa" đặt ra
đối với cấp quản lý vĩ mô và đang cần lời giải đáp.
Nhóm 1 2
Quản lý công nghệ Th.s Nguyễn Thị Thu Hằng
Nhìn chung, trình độ công nghệ cuœa ngành công nghiệp đã được caœi thiện nhiều và được
phần lớn các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tập trung đầu tư đổi mới từng khâu, từng phần
hoặc tồn bộ ơœ nhiều cung bậc khác nhau, tuy nhiên các mặt hạn chế và các vấn đề đặt ra về đổi mới
công nghệ là sự thách đố và là cơ hội nghiệt ngã .
 Qui mô đổi mới không đều và phần lớn diễn ra ơœ qui mô nhoœ, chênh lệch lớn ơœ các
ngành saœn xuất, giữa các thành phần kinh tế v.v...lại thiếu một giaœi pháp, cơ chế đồng
bộ trong tiếp thu công nghệ ngoại nhập và mua sắm máy móc thiết bị, cho nên trên 90%
máy móc thiết bị mua về là ơœ mức trung bình, hoặc lạc hậu so với trình độ chung cuœa

thế giới, nhiều thiết bị ơœ dạng second hand, thiếu các tổ chức tư vấn thông tin công nghệ
đuœ mạnh và tin cậy, do đó quá trình đổi mới công nghệ thời gian qua chưa đáp ứng được
yêu cầu nóng boœng cuœa việc đổi mới máy móc thiết bị.
 Thực trạng đổi mới công nghệ, mua sắm máy móc thiết bị vừa qua còn nhiều vấn đề cần
xem xét lại nhất là về cơ chế chính sách, cơ chế quaœn lý quá trình chuyển giao công nghệ,
nhất là ơœ khu vực DNNN và liên doanh với nước ngồi. Ở hai khu vực này đã nhập những
công nghệ cũ và lạc hậu đã làm đau đầu các nhà quaœn lý ơœ mọi cấp. Đã lọt lưới quá
nhiều công nghệ cũ lạc hậu, ô nhiễm môi trường, giá quá cao...do đó trong mấy năm tuy có
đổi mới công nghệ ơœ diện rộng song hiệu quaœ chưa cao
 Nếu không có chính sách tài chính, tín dụng hiệu quaœ, chính sách hỗ trợ quốc gia thì việc
tiếp nhận chuyển giao công nghệ gần như bế tắc và có diễn ra thì chỉ ơœ qui mô chấp vá
không thể đồng bộ được vì căn bệnh nan y đó là các DNNN và các thành phần khác đều
thiếu vốn.
 Yếu tố con người từng là mặt mạnh cuœa Việt Nam, song trên thực tế đòi hoœi phaœi
nhanh chóng qui hoạch và qui hoạch lại trên phạm vi caœ nước về qui mô đào tạo giáo dục,
nhất là trong lĩnh vực dạy nghề để có thể tiếp thu, quaœn lý được các luồng công nghệ phục
vụ cho quá trình CNH, HĐH. ƠŒ ta đang tồn tại một nghịch lý so với qui mô đào tạo cuœa
thế giới cứ 1 đại học có 5 trung cấp kỹ thuật và có ít nhất 10 công nhân lành nghề. Điều
này, chứng toœ chúng ta chưa sẵn sàng tiếp nhận và bước vào giai đoạn CNH, HĐH. Trong
thời đại hiện nay, công nghệ phát triển nhanh đã làm cho một số các sản phẩm, quá trình
sản xuất hoặc quy trình nghiệp vụ trở nên lỗi thời chỉ trong một thời gian rất ngắn, có khi
chỉ vài năm. Vì vậy, doanh nghiệp cần có những cán bộ kinh doanh có hiểu biết về kỹ thuật
công nghệ. Giải quyết những mối quan hệ này để có được sản phẩm chất lượng cao, hồn
tồn phụ thuộc vào trình độ nghề nghiệp của kỹ thuật viên, của người thợ. dù cho có thiết bị
và công nghệ cao như thế nào đi chăng nữa thì con người vẫn là yếu tố quyết định. Do đó,
nếu VN không hiện đại hóa con người, dù cho có tiền để nhập khẩu những thiết bị và công
nghệ tốt đi chăng nữa, thì cũng chỉ đi sau người khác.
Để chứng minh cho vai trò của con người trong điều hành sản xuất, ông Trần Mạnh cho biết,
sau hai năm lỗ liên tục, công ty của ông đã thay đổi phương pháp điều hành sản xuất, do vậy nên tuy
cũng thiết bị và công nghệ đó, nhưng hoạt động sản xuất của Pacsimex đã đạt hiệu quả cao hơn và

công ty trở thành doanh nghiệp mạnh của ngành bao bì VN.
Còn với Công ty Dệt Việt Thắng, trên những cỗ máy dệt cũ, ông Lê Quốc Ân đã thành công
trong việc đưa năng suất lao động tăng hơn hai lần và chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn cho ngành
may xuất khẩu. Tất cả chỉ nhờ vào nỗ lực đưa công nhân và cán bộ đi đào tạo lại ở Hàn Quốc và trong
các xí nghiệp liên doanh do người nước ngồi quản lý.
 Một trong những lý do hiện đang cản trở quá trình trao đổi sản phẩm trên thị trường công
nghệ là vấn đề chủ sở hữu chưa rỏ ràng. Vì không rõ chủ sở hưũ sản phẩm công nghệ là
Nhà nước, viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu hay cá nhân nên việc mua bán công nghệ
trở nên khó khăn. Do không được cấp quyền hạn nên các trường, các viện nghiên cứu cũng
Nhóm 1 3
Quản lý công nghệ Th.s Nguyễn Thị Thu Hằng
không có tư cách chính thức trong việc mua bán và đôi khi làm lén. Nếu như mua bán,
chuyển giao công nghệ với nước ngồi thì không có vấn đề gì nhưng nếu việc mua bán,
chuyển giao này, diễn ra giữa hai đơn vị trong nước thì không biết phải giải trình số tiền
bán được này như thế nào. Vì vậy cần phải làm rõ phương thức mua bán để tạo thuận lợi
cho các bên tham gia thị trường.
 Thực tế các viện, các trường ở Việt Nam cũng chưa quan tâm đến việc đăng kí ở hữu các
pa-tăng (sáng chế), điều này không những gây khó khăn trong việc xác định sở hữu trong
hợp đồng mua bán mà còn để một số cá nhân “tranh thủ” tự đi đăng kí. Theo Cục Sở hữu
công nghiệp, đa phần các đăng kí sở hữu công nghiệp ở cục hiện nay là do người nước ngồi
ở Việt Nam thực hiện.
 Trong việc mua bán, Nhà nước không nên can thiệp vào việc định giá hay đưa ra giá sàn
mà nên để các bên thoả thuận với nhau tạo điều kiện để các công ty tư vấn trợ giúp quá
trình này. Nhà nước chỉ nên giúp các đơn vị bằng cách xây dựng những nhóm, những đội
ngũ tư vấn viên hay cơ quan tư vấn làm việc một cách khách quan. Ơû Việt Nam hiện nay
vẫn chưa có một hệ thông trung gian, những nhà môi giới và nhà tư vấn hoạt động có chất
lượng và chuyên nghiệp. Do vậy đề án phải đưa ra được những giải pháp để phát triển đội
ngũ trung gian này.
 Chiến lược của chúng ta từ nay đến năm 2000 sẽ thu hút công nghệ nước ngồi theo hướng
tập trung vào những công nghệ của những đại diện hàng đầu thế giới là Mỹ, Nhật và Đức.

Trong quá trình tiếp nhận công nghệ, chúng ta cần phải xây dựng năng lực nội sinh về công
nghệ thông qua việc nghiên cứu, cải tiến và sáng tạo. Sau đó sẽ đến giai đoạn chúng ta
chuyển dần sang việc tự tạo ra công nghệ cho mình.
 Nói một cách khác, có xác định rõ bậc thang trình độ công nghệ mà Việt Nam đang đứng
thì mới có thể xác định đích đến sắp tới là gì và có khả thi hay không. Phải có một công
trình nghiên cứu đánh giá lại tồn diện và đúng đắn những điểm mạnh yếu của khoa học và
công nghệ Việt Nam, từ đó mới có thể hình thành chính sách phát triển công nghệ. Tuy
vậy, nhiều người dễ nhất trí với nhau rằng hiện tại Việt Nam không thể tự tạo ra mọi thứ
công nghệ mà là phải tìm cách học hỏi, tiếp thu từ bên ngồi. Muốn thế, Việt Nam phải có
năng lực nội sinh để đón nhận, chứ không phải đợi nước ngồi đem vào.Về điều này, những
số liệu và sự kiện đưa ra trong các cuộc hội thảo về công nghệ chưa tạo được đầy đủ diện
mạo công nghệ trong xã hội Việt Nam đương đại.
IV. Các giải pháp cho việc đổi mới công nghệ:
1. Hiện đại hóa bằng thiết bị nội địa:
Việc mua các thiết bị công nghệ do trong nước sản xuất mang lại rất nhiều lợi ích: có thể nắm
bắt được thông tin cụ thể về chất lượng, linh kiện sản phẩm và rất thuận lợi trong quá trình sử dụng, bảo
dưỡng và tiết kiệm được giá thành rất nhiều.
Ví dụ: Theo ông Trần Văn Công, giảng viên khoa Cơ khí, Đại học Giao thông Vận tải
TPHCM, mua một cần trục cảng của nước ngồi phải chi đến 1 triệu đô-la Mỹ, nhưng sử dụng sản phẩm
trong nước thì chỉ 300 triệu đồng.
Nhưng thực tế không ít các doanh nghiệp chỉ chú ý đến hàng nhập ngoại hơn là quan tâm đến
thiết bị công nghệ sản xuất trong nước. Do vậy đây là một vấn đề rất quan trọng và khá bức xúc đặt ra
không chỉ riêng cho các doanh nghiệp mà còn của cả chính quyền điaj phương và nhà nước. Và để khắc
phục tình trạng đó, chúng ta có một vài giải pháp được đưa ra:
Nhóm 1 4
Quản lý công nghệ Th.s Nguyễn Thị Thu Hằng
• Thực hiện chính sách: “Hỗ trợ doanh nghiệp hiện đại hóa với chi phí thấp, tạo ưu thế cạnh
tranh tổng hợp và đẩy mạnh xuất khẩu”. Một trong những nội dung quan trọng của kế
hoạch này là tổ chức thiết kế, chế tạo và ứng dụng rộng rãi một số thiết bị có công nghệ
tiên tiến với giá thấp, với sự tham gia của chính quyền địa phương, các trường đại học và

cơ quan nghiên cứu khoa học.
• Điều đáng mừng là máy móc, thiết bị của Việt Nam chế tạo đang ngày càng được nhiều
doanh nghiệp trong nước tín nhiệm sử dụng. Các doanh nghiệp không quay lưng với thiết
bị, máy móc Việt Nam chế tạo. Nói chung, các đơn vị nghiên cứu rất ủng hộ việc tổ chức
nghiên cứu và ứng dụng một số thiết bị, công nghệ với chi phí thấp, và các doanh nghiệp
cũng sẵn sàng đón nhận thiết bị, máy móc nội địa đáp ứng được yêu cầu của họ.
• Sáu nội dung của chương trình “hỗ trợ doanh nghiệp hiện đại hóa với chi phí thấp, tạo ưu
thế cạnh tranh tổng hợp và đẩy mạnh xuất khẩu” là:
1. Tổ chức các ngày chào hàng thiết bị và công nghệ mới do các đơn vị nghiên cứu khoa học và
doanh nghiệp TPHCM tạo ra trong 10 năm qua.
2. Tổ chức thiết kế, chế tạo và ứng dụng rộng rãi một số thiết bị có công nghệ tiên tiến với chi
phí khoảng một nửa giá nhập.
3. Phát triển sản xuất quạt điện và xe đạp chất lượng cao để xuất khẩu và đáp ứng thị trường
nội địa.
4. Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, như ISO
9000, HACCP, GMP...
5. Chương trình đào tạo doanh nghiệp TPHCM tham gia AFTA năm 2003.
6. Liên kết tiếp thị xuất khẩu cho các doanh nghiệp.
Và để khuyến khích các doanh nghiệp dùng công nghệ và thiết bị nội địa Nhà nước cần có
chính sách:
• Về phía nhà khoa học, điều cần Nhà nước hỗ trợ nhất là bảo vệ bản quyền. Đối với những
thiết bị, công nghệ Việt Nam đủ sức sản xuất đạt chất lượng theo yêu cầu và giá cả cạnh
tranh, không nên khuyến khích nhập khẩu. Ví dụ, thiết bị cho nhà máy đường, nhà máy xi-
măng của Việt Nam chế tạo, chất lượng tốt và giá rẻ, đang được nhiều công ty liên doanh
sử dụng, thì Nhà nước phải bảo hộ, không nên cho nhập tràn lan, nhất là thiết bị và công
nghệ không hơn của Việt Nam...
• Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, Các cơ sở nghiên cứu nên tập trung vào nghiên cứu
ứng dụng những phát minh của thế giới vào sản xuất. Khái quát mà nói, thì nên ứng dụng
cho tốt những gì thế giới đã nghiên cứu ra. Làm như thế vừa rẻ lại hiệu quả, vì Việt Nam
không đủ kinh phí để đi vào nghiên cứu những công trình lớn. Cũng có những lĩnh vực đặc

thù Việt Nam cần tập trung chất xám, như viết chương trình phần mềm, nghiên cứu tạo
giống nông nghiệp, chăn nuôi, công nghệ sinh học...
2. Tạo dựng nên một thị trường công nghệ tại Việt Nam:
Thị trường có nghĩa là ở nơi đó diễn ra hoạt động giao dịch giữa người mua và người bán. Ở
Việt Nam có người mua công nghệ và cũng có người bán, nhưng họ không giao dịch được với nhau, bởi
người bán không biết người mua ở đâu, và người mua cũng không biết người bán là ai và họ có cái gì để
bán.
Để khuyến khích phát triển khoa học và công nghệ, cần thương mại hóa các kết quả nghiên cứu
khoa học để biến nó thành sản phẩm vật chất cho xã hội. Cách để thương mại hóa sản phẩm khoa học
công nghệ là hình thành thị trường công nghệ, nhưng không thể chuyển lập tức từ không có thị trường
thành có thị trường, mà phải làm từng bước. Muốn xây dựng thị trường, điều cốt yếu cần có là vai trò
"bà đỡ" của Nhà nước.
Nhóm 1 5
Quản lý công nghệ Th.s Nguyễn Thị Thu Hằng
Người mua và bán công nghệ chưa gặp nhau vì hai lý do. Về phía người nghiên cứu, có lẽ chưa
quan tâm đến việc chuyển giao công nghệ, hoặc bản thân đề tài chưa có tính thực tế cao, nên không
muốn ứng dụng vào sản xuất. Còn người có nhu cầu ứng dụng, nhiều khi không được thông tin đầy đủ
về giá trị của những đề tài lớn, về chi phí phải chịu nếu họ áp dụng kết quả đó, những lợi ích họ sẽ nhận
được.
Giữa các nhà khoa học, viện nghiên cứu, trường đại học và giới kinh doanh ở Việt Nam dường
như có một bức tường vô hình. Điều này khiến cho họ, một bên là người bán công nghệ còn bên kia là
người có nhu cầu mua, không thể tiến đến với nhau. Phải chăng, muốn dẹp bỏ bức tường vô hình kia,
Việt Nam cần thiết lập "chợ mua bán công nghệ", hay một số giải pháp để có thể giúp cho người mua và
người bán công nghệ có thể gặp nhau. Chúng ta có một vài giải pháp:
• Hình thành phòng giới thiệu sản phẩm và công nghệ mới :
Ví dụ: phòng giới thiệu sản phẩm và công nghệ tại số 79 Trương Định, quận 1.Ở đây, định kỳ
hàng tháng hay hàng quí có triển lãm giới thiệu sản phẩm công nghệ mới cho một chuyên ngành. Mỗi
sáng thứ năm hàng tuần, còn có hội thảo giới thiệu về công nghệ, các kết quả nghiên cứu của các nhà
khoa học, trường đại học... cho các khách hàng tiềm năng.
• Công bố những công nghệ mới, giải pháp hữu ích có triển vọng trên tạp chí

Công nghệ và Kinh doanh của Sở Khoa học - Công nghệ và Môi trường.
• Thành lập các Website chuyên về mua bán công nghệ.
• “Chợ công nghệ và thiết bị” như là đòn bẩy của nền kinh tế:
Chợ Công nghệ thiết bị (Techmart Vietnam) diễn ra từ 13 đến 15/10 là một ví dụ. Techmart
Vietnam 2003 là chợ công nghệ thiết bị đầu tiên được tổ chức trên quy mô cả nước. Đã có khoảng 350
cơ sở đăng ký tham gia, với khoảng 2000 sản phẩm thuộc nhiều lĩnh vực. Đơn cử như Phòng Kỹ thuật
Laser Y tế (Trung tâm Công nghệ Laser - Bộ KHCN) đăng ký triển lãm 15 sản phẩm mới. Khu hàng rao
bán lớn nhất là của Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia gồm 24 gian trưng bày với hàng
trăm công nghệ chào bán. Một số lĩnh vực được đặc biệt khuyến khích bao gồm: Chế biến nông - lâm -
thủy sản; cơ khí - chế tạo máy; tự động hố bưu chính-viễn thông; điện tử -tin học; dệt - may - da giày;
cao su -nhựa; y tế - dược phẩm; xử lý và bảo vệ môi trường.
Techmart Vietnam gồm chợ thực - các gian hàng triển lãm, và "chợ ảo" trên Internet. Các hợp
đồng về chuyển giao công nghệ, mua bán thiết bị, đặt hàng nghiên cứu... được giao dịch trực tiếp tại
chợ thực, hoặc thông qua gian hàng ảo, giúp những người ở xa cũng có thể tham gia. Công nghệ và thiết
bị được đề nghị giới thiệu, chào bán là những sản phẩm nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ
của các tổ chức khoa học và công nghệ trong nước, đã được kiểm nghiệm, ứng dụng thành công, đã hồn
thiện để chuyển giao. Kế đến, các thiết bị và công nghệ được chào bán phải đạt chất lượng cao và giá rẻ
hơn so với thiết bị và công nghệ ngoại nhập. Cuối cùng, đó là những thiết bị và công nghệ đã được đăng
ký bảo hộ sáng chế độc quyền, bảo hộ độc quyền. Đối với các công nghệ và thiết bị của các đơn vị nước
ngồi, tiêu chí khuyến khích giới thiệu hàng đầu là trình độ công nghệ cao, giá cả hợp lý và mức độ thích
hợp đối với Việt Nam.
Trong quá trình diễn ra Techmart có các hoạt động giao dịch, mua -bán thiết bị, công nghệ,
thương thảo, đàm phán, ký kết văn bản ghi nhớ, hợp đồng chuyển giao công nghệ tổ chức các diễn đàn
giao lưu, hội thảo theo các vấn đề được nhiều người quan tâm như: Hội thảo về sở hữu trí tuệ trên thị
trường công nghệ,đổi mới công nghệ và hội nhập kinh tế giao lưu giữa các địa phương với các nhà khoa
học và công nghệ, cơ chế và chính sách hình thành và phát triển thị trường khoa học và công nghệ.
Hiện nay, sự liên kết giữa cung với cầu còn nhiều hạn chế, nên các tiến bộ khoa học ít được áp
dụng vào thực tiễn. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, 90% đề tài nghiên cứu khoa học những
năm gần đây đều lấy ý tưởng từ nội dung học tập trong thời gian nghiên cứu ở nước ngồi, chứ không
bám vào thực tiễn của đất nước, và không có đề tài nào xuất phát từ một "đơn đặt hàng" của doanh

nghiệp. Do vậy, nhiều thành tựu nghiên cứu chưa phù hợp với trình độ ứng dụng trong nước, chưa kể
việc nghiệm thu đề tài chỉ được tiến hành giữa những người làm nghiên cứu, chứ không có đánh giá
khách quan từ phía người sử dụng. Tình trạng này có thể được khắc phục nhờ Techmart Vietnam, vì qua
đó, các nghiên cứu khoa học sẽ được định hướng bởi cơ chế thị trường.Techmart là cầu nối giữa cung
Nhóm 1 6
Quản lý công nghệ Th.s Nguyễn Thị Thu Hằng
và cầu, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, giúp tìm ra con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất để đưa khoa
học vào cuộc sống.
Điều đáng ghi nhận tại Techmart 2003 là sự phát triển cả về số lượng và chất lượng của các
công nghệ, thiết bị chế tạo trong nước. Trong số gần 2000 công nghệ, thiết bị chào bán tại Chợ, 95% là
công nghệ thiết bị do các nhà khoa học, các đơn vị trong nước thiết kế, chế tạo Có thể nói đây là lần đầu
tiên các sản phẩm nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước đã được trân trọng, tôn vinh ở một hội
chợ có tầm cỡ quốc gia và được xã hội thừa nhận hiệu quả ứng dụng trong thực tế sản xuất.
Theo nhiều chuyên gia marketing, hiệu quả của Techmart phụ thuộc nhiều vào "chợ ảo", vì
đây là sàn giao dịch quanh năm. Nếu tiếp tục duy trì giao diện chợ ảo đầy đủ thông tin, hấp dẫn, tiện lợi
cho người truy cập hai chiều thì thị trường công nghệ, thiết bị sẽ quanh năm nhộn nhịp, chứ không chỉ
trong vài ngày hội chợ. Tại hội chợ ,các đơn vị tham gia có điều kiện giới thiệu chào bán công nghệ và
thiết bị của mình, giới thiệu năng lực phát triển công nghệ, yêu cầu tìm kiếm đối tác chuyển giao công
nghệ. Các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân có nhu cầu công nghệ, thiết bị cũng có thể đưa ra các nhu
cầu công nghệ để tìm kiếm đối tác. Chợ công nghệ ảo Việt Nam là sàn giao dịch điện tử lý tưởng cho
tất cả những ai muốn tham gia thị trường khoa học và công nghệ Việt Nam.
Techmart Vietnam 2003 là sự thể hiện sinh động của thị trường khoa học và công nghệ Việt
Nam trên bước đường hình thành và phát triển. Mục tiêu tổng quát của Techmart Vietnam là thúc đẩy
hình thành và phát triển thị trường khoa học và công nghệ ở nước ta; đẩy mạnh sự gắn kết giữa nghiên
cứu khoa học và phát triển công nghệ với kinh tế, sản xuất - kinh doanh và đời sống xã hội.
Chợ công nghệ và thiết bị đầu tiên này khẳng định một hướng phát triển mới cho khoa học
công nghệ Việt Nam. Đó là các đề tài nghiên cứu sẽ không chỉ để bày trong bảo tàng hay là một thứ
trang trí cho các nhà khoa học như trước đây mà sẽ được gắn với hiệu quả ứng dụng trong thực tiễn sản
xuất.
3. Đẩy mạnh việc nhập khẩu và chuyển giao công nghệä:

a. Những vấn đề còn tồn tại trong quá trình nhập khẩu và chuyển giao công
nghệ:
Nhập khẩu công nghệ:
Quá trình nhập khẩu công nghệ ở nước ta đang tồn tại một số vấn đề sau:
• Nhập công nghệ, thiết bị cũ, giá lại vượt cao.
Cho đến nay, lượng công nghệ, thiết bị nhập vào Việt Nam qua các đơn vị có vốn đầu tư
nước ngồi đã đạt một con số đáng kể. Uớc tính từ năm 1991 đến nay, khoảng 40-60 % vốn đầu tư được
đưa vào thực hiện ở các dự án đã dành cho công nghệ, thiết bị với tổng giá trị thiết bị du nhập qua con
đường này vào khoảng 4 tỉ USD. Như vậy, giá trị công nghệ thiết bị nhập về trong thời gian qua lớn hơn
cả giá trị thiết bị hiện đang hoạt động trong nước từ trước đến nay (vào khoảng 3,5 tỉ USD).
Một số lĩnh vực đã tiếp nhận được công nghệ khá tiên tiến và hiện đại cuả thế giới như : tìm
kiếm khai thác dầu khí, viễn thông... Tuy nhiên, trong không ít lĩnh vực (cơ khí, luyện kim, hóa chất,
chế biến thực phẩm...) nhiều đơn vị đã tiếp nhận thiết bị cũ, hư hoang, hoặc tính năng công nghệ không
cao, có tác động xấu đến môi trường. Qua kiểm tra cuả các cơ quan chức năng ở 727 thiết bị, 3 dây
chuyền sản xuất cuả 42 cơ sở, có tới 60-70 % là thiết bị cũ, tân trang. Thậm chí có thiết bị sản xuất từ
năm 1929 !
Theo đánh giá chung, thiết bị được nhập vào các đơn vị có vốn đầu tư nước ngồi thời gian qua
phổ biến thuộc trình độ công nghệ cuả những năm 1960-1970 và có độ lệch từ hai đến ba thế hệ so với
trình độ thế giới. Thế nhưng, điều đáng nói, theo các chuyên gia cuả Bộ Kế hoạch và đầu tư và Bộ
Thương mại, nhìn chung giá mua thiết bị vượt cao hơn giá thị trường thế giới từ 10-15 %. Vừa qua,
công ty giám định quốc tế SGS cuả Thụy Sĩ sau khi thẩm định sáu dự án, đã đánh giá giá mua thiết bị
vượt đến trên 40 % so với thị trường thế giới.
Nhóm 1 7
Quản lý công nghệ Th.s Nguyễn Thị Thu Hằng
Chuyển giao công nghệ:
• Ở Việt Nam đang tồn tại một số yếu kém trong quá chuyển giao công nghệ:
- Thiếu kỹ năng trong đàm phán thương lượng chuyển giao công nghệ nên dẫn đến sự ràng
buộc và lúng túng khi thực hiện hợp đồng chuyển giao.
- Thiếu thông tin về đối tác chuyển giao và công nghệ chuyển giao cũng là nguyên nhân dẫn
đến sự thụ động của đối tác Việt Nam khi đàm phán.

- Sự thiếu vốn mặc dù có nhu cầu cao về nhận chuyển giao công nghệ. Từ yếu tố ấy, bên nhận
chuyển giao thường dễ dàng phải chấp nhận những điều khoản bất lợi cho mình.
- Các đối tác Việt Nam không chỉ yếu kém ở giai đoạn trước và ngay khi nhận chuyển giao
công nghệ, mà còn xem nhẹ việc đánh giá kết quả của chuyển giao, đánh giá chất lượng sản phẩm do
công nghệ chuyển giao sản xuất ra.
- Do chủ quan. Đó là hệ quả tổng hợp của nhiều cái thiếu : chuyên viên đánh giá công nghệ,
cán bộ đàm phán, nhà quản lý và người sử dụng ...
- Bên chuyển giao công nghệ (nước ngồi) đã không chuyển giao hết phương thức, còn bên tiếp
nhận công nghệ (Việt Nam) thì chưa đủ trình độ, kinh nghiệm trong thương thảo và giám định công
nghệ mua vào, và trong một số trường hợp là thiếu công tâm Vấn đề chuyển giao công nghệ (CGCN).,.
• Chính những lý do trên đã khiến cho trong quá trình chuyển giao công nghệ, các doanh
nghiệp của nước ta gặp không ít khó khăn và bất lợi:
 Có một thực tế là hầu hết các hợp đồng chuyển giao công nghệ thường do bên nước ngồi
lập, sau đó dịch ra tiếng Việt. Bên Việt Nam do những nguyên nhân khác nhau, thường
chấp nhận những nội dung do bên nước ngồi đưa ra, mà không có sự trao đổi, đàm phán để
đảm bảo lợi ích của hai phía và hiệu quả của việc chuyển giao công nghệ.
Nội dung công nghệ được chuyển giao là phần rất quan trọng của một hợp đồng chuyển giao
công nghệ(xem phần phụ lục). Theo quy định, phải xác định rõ đối tượng chuyển giao công nghệ; tên
công nghệ, mô tả chi tiết những nội dung chủ yếu của hoạt động chuyển giao công nghệ, giá trị kinh tế
và kỹ thuật của mỗi nội dung công nghệ được chuyển giao, kết quả dự kiến sẽ đạt được sau khi thực
hiện chuyển giao công nghệ (về mặt kinh tế, kỹ thuật, xã hội). Nhưng trong các hợp đồng đã trình
duyệt, phần lớn các nội dung này đều không được làm rõ, do đó không đủ điều kiện để xem xét đánh giá
công nghệ.
 Chi phí cho chuyển giao công nghệ thường tính rất cao : theo quy định, đối với công nghệ
tiên tiến, tổng chi phí cho chuyển giao công nghệ không quá 5% giá bán tịnh (bao gồm cả
chuyển giao bí quyết, dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật và chi phí sử dụng nhãn hiệu hàng hóa).
Nhưng nhiều trường hợp, phía nước ngồi đòi chi phí CGCN cao hơn 5% doanh thu bán
hàng (mà doanh thu bán hàng lớn hơn giá bán tịnh rất nhiều). Do không có đủ các thông tin
cần thiết về công nghệ cần nhập, thiếu các chuyên gia am hiểu về công nghệ nên phía Việt
Nam trong liên doanh thường dễ dàng chấp nhận mức chi phí về công nghệ do bên nước

ngồi đưa ra. Do đó, khi xem xét, phê duyệt, các cơ quan nhà nước thường phải yêu cầu họ
sửa đổi, điều chỉnh lại, dẫn tới việc kéo dài thời gian thẩm định.
 Thời gian của hợp đồng CGCN theo quy định là bảy năm, nhưng một số hợp đồng xin thời
hạn 10 năm hoặc lớn hơn (bằng thời hạn của dự án đầu tư, thường là 20-30 năm).
 Trong hợp đồng CGCN, phía nước ngồi thường đưa ra những điều khoản ràng buộc về
trách nhiệm của bên nhận công nghệ, trong khi trách nhiệm của bên giao công nghệ lại
không rõ ràng. Ở một số hợp đồng, luật áp dụng lại là luật của nước ngồi chứ không phải
luật pháp Việt Nam (bản thân bên Việt Nam cũng không tìm hiểu xem luật nước ngồi dẫn
chiếu trong hợp đồng quy định những nội dung gì, khi xảy ra tranh chấp sẽ xử lý ra sao).
 Sự mất cân đối trong việc tiếp nhận công nghệ giữa các ngành nghề.
Ví dụ: 10 năm qua ở Việt Nam có các lĩnh vực dịch vụ như viễn thông, ngân hàng tiếp
nhận được nhiều công nghệ mới nhất. Trong khi đó, trong các lĩnh vực công nghiệp, các loại công nghệ
mới đưa vào thông qua nhập khẩu và đầu tư nước ngồi chưa nhiều lắm.
Nhóm 1 8
Quản lý công nghệ Th.s Nguyễn Thị Thu Hằng
 Việt Nam đã nhận rất nhiều công nghệ trên nhiều lĩnh vực nhưng số công nghệ được sử
dụng như mong muốn còn rất ít. Việc sử dụng không hiệu quả này, là do trình độ tiếp nhận
- quản lý công nghệ của đối tác Việt Nam yếu kém, không hiểu hết giá trị sử dụng của
công nghệ đang có trong tay.
 Mắc nhiều sai phạm trong việc chuyển giao công nghệ, không sử dụng công nghệ được
chuyển giao, gây lãng phí.
b. Giải pháp:
Nhập khẩu công nghệ:
Về nhà nước:
Để nhanh chóng tiếp thu các công nghệ tiên tiến trên thế giới, đẩy nhanh quá trình công nghiệp
hóa, phát triển kinh tế, cần thực hiện một số biện pháp sau :
- Xây dựng và ban hành chính sách công nghệ quốc gia, xác định các hướng công nghệ cần ưu
tiên nhập trong thời gian từ nay tới năm 2010 và sau năm 2010 để làm căn cứ cho việc lựa chọn và đánh
giá công nghệ nhập.
- Xây dựng hệ thống thông tin công nghệ và đảm bảo cập nhật kịp thời để phục vụ cho việc thẩm

định, đánh giá công nghệ, cũng như lựa chọn công nghệ thiết bị.
- Khẩn trương xây dựng chương trình đào tạo cán bộ quản lý công nghệ cho các cơ quan Nhà
nước, các doanh nghiệp để nâng cao năng lực trong việc lựa chọn, đàm phán và ký kết hợp đồng chuyển
giao công nghệ.
- Việc nhập công nghệ cần đi thẳng vào công nghệ hiện đại có chọn lọc ở các lĩnh vực cần
thiết. Ưu tiên các công nghệ nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, hiệu quả của sản xuất và khai thác
hợp lý tài nguyên, các công nghệ sạch, ít gây ô nhiễm môi trường.
- Cần tăng cường và nâng cao trình độ kiến thức về luật pháp, công nghệ cho một số công ty tư
vấn trong nước để họ có đủ khả năng tư vấn giúp các đơn vị Việt Nam trong quá trình đàm phán và xây
dựng hợp đồng CGCN. Đồng thời cần tranh thủ sự giúp đỡ và hỗ trợ của các công ty tư vấn nước ngồi
có chuyên môn sâu trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ.
Chúng ta không nên đặt vấn đề công nghệ mới hay cũ mà chỉ có vấn đề công nghệ phù hợp hay
không. Cho nên, đối với nước ta hiện nay, vấn đề quan trọng không phải là thiết bị công nghệ nào đó còn
mới hay đã sử dụng rồi, có tiên tiến hay không mà quan trọng là ở chỗ thiết bị đó có phù hợp với việc sản
xuất một sản phẩm cụ thể, trong điều kiện cụ thể, ở Việt Nam hay không ? Thời gian qua, có nhiều nhà
máy liên doanh sử dụng các công nghệ rất tiên tiến nhưng lại không phát huy hiệu quả do trình độ khoa
học, công nghệ, lao động của tồn xã hội chưa phát triển đồng bộ.
Hiện nay, nền khoa học (KH) của chúng ta còn thấp, kinh tế kém phát triển nhưng so với các
nước ở cùng trình độ kinh tế thì trình độ dân trí nước ta cũng tương đối khá, đặc biệt là khả năng tiếp
thu các thành tựu khoa học - công nghệ mới khá nhanh. Thực tế chứng minh, chúng ta đi sau, nhưng nếu
biết chọn lựa, biết tổ chức, biết tranh thủ hợp tác với nước ngồi thì có thể đi thẳng vào những công nghệ
mới nhất và làm thành công.
Về doanh nghiệp
Có lẽ vấn đề quan trọng nhất đặt ra trước các doanh nghiệp là làm thế nào để đảm bảo cho các
công nghệ, thiết bị đã nhập được lắp đặt và vận hành ổn định, phát huy hiệu quả cao. Ngồi ra, vấn đề cơ
bản và lâu dài là nhanh chóng làm chủ được công nghệ, thiết bị mới. Hiện nay, do phần lớn máy móc
nhập vào thuộc công nghệ thông thường đang sử dụng phổ biến trên thế giới nên các dự án, hợp đồng có
riêng nội dung này không nhiều.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nhìn xa trông rộng để hôm nay không làm những điều gì
sẽ gây ra các khó khăn cho tương lai. Bên cạnh đó, còn phải chủ động tìm kiếm đối tác nước ngồi,

không chỉ đơn giản bằng cách quảng cáo trên báo chí ngồi nước. Tích cực tìm kiếm đối tác thích hợp có
Nhóm 1 9
Quản lý công nghệ Th.s Nguyễn Thị Thu Hằng
ý nghĩa rất khác với việc đăng báo. Cụ thể hơn, công ty Việt Nam cần phải hiểu rõ về bốn vấn đề: mình
có gì để cung cấp; mình tìm kiếm cái gì nơi đối tác nước ngồi; tiềm năng của đối tác; và đối tác đang
muốn tìm kiếm những gì.
Ngồi việc chiếm lĩnh công nghệ mới và kỹ năng mới, thành công của công ty nước chủ nhà còn
là phát triển quản lý và thâm nhập được vào các thị trường mới.
Chuyển giao công nghệ:
Về nhà nước:
Muốn thúc đẩy đối tác nước ngồi chuyển giao công nghệ, trước hết, chính phủ cần ra tay hỗ trợ
cho các công ty địa phương trong liên doanh.
Ví dụ: hãng xe hơi Nhật Mitsubishi, đối tác trong liên doanh sản xuất xe hơi hiệu
Proton ở Malaysia viện cớ người Malaysia không đủ khả năng tiếp nhận công nghệ mới để trì
hỗn việc chuyển giao, đích thân Thủ tướng Mahathir Mohamad đã lên đài truyền hình tuyên bố
ông sẽ tìm đối tác khác và có thể Malaysia không cần đến Mitsubishi nữa. Tiếp đó, ông đi Đức
để thương lượng với Wolsvagen, và khi trở về, thông báo rằng ông đã thảo luận rất thú vị với
công ty xe hơi này. Chỉ hai tuần sau chuyến đi của ông Mahathir, chính chủ tịch Mitsubishi đã
quyết định chuyển giao công nghệ cho đối tác Malaysia trong liên doanh Proton.
Cần có một chiến lược công nghệ:
Việc lựa chọn được công nghệ thích hợp mới là điều quan trọng, chứ không nhất thiết phải là
công nghệ tiên tiến, hiện đại nhưng lại không thích hợp với trình độ nơi tiếp nhận, chưa kể phải tốn
nhiều ngoại tệ để trang bị. Công nghệ thích hợp là loại công nghệ có tính khả thi về mặt kỹ thuật, khả
năng thương mại nhằm đạt tới lợi ích tối đa và có khả năng đóng góp vào các mục tiêu phát triển kinh tế
quốc gia. Công nghệ thích hợp, là hệ quả của việc nhận thức về công nghệ của bên nhận chuyển giao.
Như vậy, bên nhận chuyển giao phải xác định rõ nhận chuyển giao công nghệ là nhận cái gì trước khi
nói đến công nghệ thích hợp. Và cũng không được quên rằng tính thích hợp của công nghệ phụ thuộc
vào mỗi giai đoạn phát triển của bên nhận chuyển giao và chiến lược phát triển của quốc gia đó.
Về doanh nghiệp
Khi các công ty chủ nhà trong liên doanh không được chuyển giao công nghệ vì bản thân họ

chưa biết cách thương lượng cũng như vì phía đối tác nước ngồi không tin vào khả năng tiếp nhận công
nghệ của các công ty này. Để giải quyết vướng mắc , các doanh nghiệp muốn lập liên doanh với nước
ngồi cần phải lên trước một chương trình về công nghệ, trong đó đề ra tốc độ chuyển giao, cách thức
tiếp thu và sử dụng công nghệ.
• Để khắc phục, doanh nghiệp chúng ta cần có nhiều thông tin hơn về đối tác. Việc gia nhập
Internet là một hướng mở cho vấn đề này.
• Trong tương lai cần có thêm nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng về kỹ năng, kỹ thuật trong đàm
phán, thương thảo.
• Nói cho cùng, cuộc thương thảo chuyển giao công nghệ chỉ thành công khi doanh nghiệp
tìm ra lời đáp thỏa đáng cho hai câu hỏi : cách thức chế tạo công nghệ ra sao, và làm thế
nào để vận hành tốt công nghệ đó.
• Cần có kỹ năng trong đàm phán
Các giải pháp cho việc đổi mới công nghệ không phải là ít, tuy vậy các doanh nhiệp của chúng
ta vẫn gặp rất nhiều lỗi trong quá trình đổi mới công nghệ bởi một lý do rất đơn giản: họ qúa tin tưởng
vào khả năng của chính bản thân mình, không chịu tham khảo ý kiến của các công ty tư vấn về công
nghệ. Chính vì vậy đã khiến cho thị ttrường tư vấn chuyển giao công nghệ ở Việt Nam cũng còn nhiều
bất cập
Nhóm 1 10

×