Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Multimedia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 84 trang )

CHƯƠNG I
GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong rất nhiều năm, các nhà tiên tri và các nhà tương lai học vẫn
nói rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ có thể truy cập trực tuyến vào tất
cả các nguồn thông tin trên thế giới một cách dễ dàng. Giờ đây, tương lai
đó đã trở thành hiện thực; nó được gọi là Mạng toàn cầu - hoặc Mạng
diện rộng toàn cầu (World Wide Web - WWW hay gọi tắt là Web) và sự
phát triển của nó trong vài năm gần đây thật là khó tin. Web hoàn toàn
đang chứng tỏ cho chúng ta thấy mạng toàn cầu sẽ làm biến đổi nền giáo
dục như thế nào.
Greg Kearsley, 1996
Ngày nay, chúng ta rất may mắn có được mạng toàn cầu như là một
trong những phương tiện dạy và học từ xa kinh tế nhất, dân chủ nhất.
Với sự xuất hiện nhanh chóng của Internet, Web càng ngày càng trở
thành một phương tiện mang tính toàn cầu, mang tính tương tác, đầy
tiềm lực và năng động cho việc chia sẻ thông tin. Web cung cấp cơ hội
phát triển những kiến thức mới cho sinh viên mà trước đây họ không làm
sao có được. Kết quả là sinh viên ở mọi nơi trên thế giới đều có khả năng
khai thác nhiều nguồn kiến thức phong phú có trên Web nếu có thể truy
cập được vào mạng Internet.
Các trường từ phổ thông đến đại học hiện nay đều có những phòng
máy tính tương đối hiện đại, song việc khai thác nó đôi khi lại là một vấn
đề. Đối với các trường đại học, những phòng máy tính này được sử dụng
vào nhiều mục đích khác nhau, song chủ yếu vẫn là để cho giảng viên,
Nguyễn Ích Cường - CT96B
1
sinh viên thực tập, học ngoại ngữ và nghiên cứu khoa học. Đối với các
trường phổ thông, chúng chỉ được sử dụng như là một căn phòng mẫu,
trưng bày để học sinh tham quan và phục vụ cho việc phổ cập tin học
cho học sinh. Giá trị của một phòng máy tính là rất cao song với cách sử


dụng và khai thác như vậy không đem lại hiệu quả như mong muốn.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật và
công nghệ, sản phẩm của công nghệ Multimedia đã và đang xâm nhập
ngày càng sâu, rộng vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Có thể nói các
sản phẩm của công nghệ này có mặt ở khắp mọi nơi, từ công sở đến gia
đình. Nó xuất hiện trong nhiều lĩnh vực từ giáo dục, y tế, đến vui chơi
giải trí, nghiên cứu khoa học v.v...
Sức mạnh của các sản phẩm do công nghệ Multimedia mang lại là
sự đa dạng phong phú của các dạng thông tin. Người ta có thể thu nhận,
sử lý thông tin thông qua thị giác, thính giác nhờ âm thanh, hình ảnh, văn
bản mà công nghệ Multimedia mang lại và điều này làm cho hiệu quả
thu nhận, xử lý thông tin cao hơn so với các nguồn tin chỉ là văn bản.
Với việc áp dụng công nghệ Multimedia trong công tác giáo dục,
Multimedia đã gần gũi với người học hơn thông qua hệ thống âm thanh,
hình ảnh đã làm những bài giảng phong phú hơn, gần gũi hơn khiến cho
người dạy truyền đạt kiến thức đến người học một cách khách quan sinh
động còn người học sẽ dễ hiểu, tiếp thu nhanh bài học hơn thông qua hệ
thống giao diện thân thiện gần gũi mà mạng máy tính với sự hỗ trợ của
Multimedia đem lại.
Với những mục đích trên, nội dung của luận văn được chia làm 6
chương như sau:
Chương I. Giới thiệu chung
Gồm các khía cạnh sau:
• Đặt vấn đề
• Đánh giá các phần mềm dạy học hiện có
Nguyễn Ích Cường - CT96B
2
Chương II. Các khái niệm
Chương này trình bày khái quát về Multimedia như: khái niệm về
đào tạo dựa trên mạng, Multimedia, các đặc điểm của cơ sở dữ liệu

Multimedia, so sánh Multimedia tập trung với Multimedia trên mạng,
mục đích của việc sử dụng Multimedia.
• Đào tạo dựa trên mạng (Web Based Instruction - WBI)
• Công nghệ Internet và mạng máy tính
• Âm thanh số
• Hình ảnh số
• Video số
• CD ROM
Chương III. Lý luận chung về phương pháp dạy học và phần
mềm dạy học Multimedia
Chương này nghiên cứu các khái niệm phương pháp dạy học và
việc xây dựng phần mềm dạy học Multimedia, ưu nhược điểm của
phương pháp dạy học trên mạng với công cụ Multimedia.
• Khái niệm về phương pháp dạy học
• Phương pháp xây dựng phần mềm dạy học Multimedia trên
mạng máy tính
Chương IV. Công cụ xây dựng chương trình Multimedia -
Director 7.0 và Flash 3.0
Chương này đi sâu nghiên cứu khai thác công cụ lập trình
Multimedia - Director 7.0 và Flash 3.0 của Macromedia làm cơ sở cho
Nguyễn Ích Cường - CT96B
3
việc xây dựng chương trình ứng dụng Multimedia trong đào tạo trên
mạng.
• Multimedia và Director
• Giới thiệu về Director 7.0 và Flash 3.0
• Làm việc với Director và Flash
Chương V. Các bước phân tích thiết kế và xây dựng chương
trình
Chương này mô tả các bước phân tích thiết kế và xây dựng chương

trình dạy học Multimedia trên mạng má tính.
• Lựa chọn công cụ thực hiện
• Các hướng thiết kế chương trình
• Mô tả chương trình
• Nhận xét, đánh giá và hướng phát triển
Chương VI. Phụ lục
• Tài liệu tham khảo
• Thuật ngữ được sử dụng
• Các công cụ sử dụng thiết kế chương trình
Đề tài của luận văn là vấn đề mới và do những hạn chế nhất định về
thời gian, chắc rằng luận văn không thể tránh khỏi có những thiếu sót.
Rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo và góp ý của các bạn để
em có thể hoàn thiện về mặt kiến thức và tiếp tục nghiên cứu và phát
triển chương trình.
1.2. ĐÁNH GIÁ CÁC PHẦN MỀM DẠY HỌC HIỆN CÓ
Nguyễn Ích Cường - CT96B
4
Nhu cầu về phần mềm dạy học của Việt Nam là rất lớn, đứng trước
điều đó một số công ty trong nước đã tìm cách phát triển và xây dựng
các phần mềm loại này. Song do không có những công cụ đủ mạnh,
không có được sự hỗ trợ của các chuyên gia ngành giáo dục nên đã
không đem lại hiệu quả cao. Một số công ty và cá nhân khác cũng đưa
vào thị trường Việt Nam nhiều phần mềm dạy học của nước ngoài. Các
phần mềm này bao gồm rất nhiều loại, phổ biến nhất là các chương trình
dạy toán cho học sinh tiểu học và trung học cơ sở, các chương trình dạy
vật lý, hoá học, y học, địa lý, sinh học và các chương trình dạy ngoại
ngữ. Một số trong các chương trình này, chủ yếu là chương trình dạy
ngoại ngữ, đã được sử dụng ở nước ta tuy nhiên với mức độ tham khảo
và không rộng rãi. Ví dụ như các chương trình dạy ngoại ngữ: “Let’s
go”, “Dynamic English” của hãng DynEd hay chương trình “Class

Room Studio”, “Learn To Speak English”... Các chương trình do nước
ngoài viết là những chương trình khá công phu, thiết kế có tính sư phạm
và mỹ thuật cao song nó cũng không đáp ứng được nhu cầu của chúng
ta. Do đó dưới đây ta sẽ đánh giá, xem xét các mặt mạnh, yếu của những
chương trình này.
1.2.1. Ưu điểm của các phần mềm dạy học hiện có
Xem xét qua khá nhiều phần mềm dạy học của nước ngoài, như các
chương trình “Learn To Speak English”, “Toefl Dflofr”, “Chemistry”,
“Test your child”... và nhiều chương trình khác nữa ta thấy rằng các
chương trình này được thiết kế có tính sư phạm, mỹ thuật khá cao. Các
sản phẩm của họ thực sự là những sảm phẩm thương mại, hướng tới
người sử dụng. Ngoài những phần dành cho học sinh nâng cao kiến thức,
các chương trình này còn được bổ sung thêm phần kiểm tra, đánh giá
kiến thức của học sinh bằng hình thức trắc nghiệm, phần trợ giúp người
sử dụng với thiết kế đẹp mắt, thuận lợi. Các ví dụ minh hoạ, hình ảnh,
âm thanh được lựa chọn và thiết kế rất công phu.
Một số phần mềm của nước ngoài được làm ra với mục đích dành
cho nhiều đối tượng, nhiều trình độ khác nhau do đó nó cho phép người
sử dụng ở nhiều trình độ đều sử dụng được. Ưu điểm của những bộ phần
Nguyễn Ích Cường - CT96B
5
mềm như vậy là kiến thức tổng quát, phong phú và đầy đủ, ngoài mục
đích dạy học nó còn có thể được sử dụng vào mục đích tra cứu rất tiện
lợi.
Nhiều chương trình dạy học cho trẻ em được tổ chức dưới dạng các
trò chơi, thực hiện theo phương châm “học mà chơi, chơi mà học”. Với
phương pháp này các chương trình được xây dựng rất sống động, làm
cho người sử dụng bị cuốn hút vào cho chơi để thông qua đó cung cấp
kiến thức cho người sử dụng.
1.2.2. Nhược điểm của các phần mềm dạy học hiện có

Nhược điểm lớn nhất của các chương trình này đối với người Việt
Nam là ngôn ngữ sử dụng không phải tiếng Việt (Anh hoặc Pháp), do đó
nó chỉ phục vụ được một số rất ít người dùng. Đối với các chương trình
dành cho tiểu học và trung học cơ sở hay mẫu giáo thì hầu như các
chương trình loại này không thể sử dụng được. Các chương trình dạy
ngoại ngữ cũng rơi vào tình trạng tương tự, do ngôn ngữ sử dụng là
ngoại ngữ nên chỉ những ai thành thạo ngoại ngữ đó mới có khả năng sử
dụng nó vào mục đích học tập.
Nhược điểm thứ hai, cũng đóng một vai trò không kém quan trọng,
là do người nước ngoài thiết kế và được thiết kế cho người nước ngoài
sử dụng nên hầu hết những chương trình đó đều tỏ ra không phù hợp với
người Việt Nam. Một chương trình dạy học của nước ngoài chứa đựng
những kiến thức cơ bản tương đương với một cấp học của ta song thêm
vào đó nó chứa đựng khá nhiều kiến thức mở rộng ở mức độ cao hơn rất
nhiều hoặc những kiến thức đã được đưa vào ở lớp học thấp hơn, so với
bậc học tương ứng của Việt Nam.
Với những nhược điểm như trên ta nhận thấy một điều rằng việc áp
dụng các phần mềm dạy học của nước ngoài vào nước ta là một điều
không nên làm và không thực hiện được. Phát triển và xây dựng những
phần mềm dạy học của Việt Nam và dành cho người Việt Nam mới là
giải pháp tốt nhất đối với chúng ta.
Nguyễn Ích Cường - CT96B
6
CHƯƠNG II
CÁC KHÁI NIỆM
2.1. ĐÀO TẠO DỰA TRÊN MẠNG
Đào tạo dựa trên mạng (Web Based Instruction - WBI) có thể được
xem như một phương thức sáng tạo cung cấp những chỉ dẫn học tập cho
một người học từ xa dùng Web làm phương tiện. Theo Smith và Ragan
(1993), “Dạy học là đưa ra các thông tin và các hoạt động tạo điều kiện

cho người học đạt được những mục đích cụ thể mà họ mong đợi”, và qua
trung gian là những phương tiện vật lý dùng để truyền đạt những thông
tin hướng dẫn. Việc thiết kế và đưa ra các hướng dẫn trên Web đòi hỏi
phải có các phân tích kỹ càng và nghiên cứu việc sử dụng tiềm năng của
Web như thế nào cho phù hợp với các nguyên tắc xây dựng các chương
trình dạy học. Định nghĩa WBI sau đây thoả mãn được các yêu cầu nêu
trên:
Đào tạo dựa trên mạng (WBI) là một chương trình dạy học dựa trên
một siêu phương tiện có sử dụng các thuộc tính và các nguồn tài liệu của
WWW nhằm tạo ra một môi trường học tập rất có ý nghĩa trong đó việc
học được khuyến khích và trợ giúp.
Một môi trường truyền đạt kiến thức của WBI có thể bao gồm rất
nhiều nguồn tài nguyên, mà Multimedia với các dạng cấu trúc dữ liệu âm
Nguyễn Ích Cường - CT96B
7
thanh, hình ảnh, text của mình đã tạo nên một môi trường học tập hoàn
toàn mới cho mọi người. Tiếp theo đây, chúng ta sẽ tìm hiểu các thành
phần của WBI mà Multimedia là một trong số đó:
2.1.1. Các thành phần của WBI
• Phát triển nội dung
- Các lý thuyết dạy và học.
- Xây dựng thiết kế dạy học.
- Phát triển chương trình giảng dạy.
• Thành phần đa phương tiện
- Văn bản và đồ hoạ.
- Nghe (ví dụ Real Audio).
- Nhìn (ví dụ Quick Time).
- Giao diện người - máy đồ hoạ (GUI) - dùng các biểu tượng, các
hình, các cửa sổ và phương tiện để chỉ thay cho giao diện dạng ký tự đơn
thuần.

- Công nghệ nén (ví dụ Shock Wave).
• Các công cụ Internet
- Các công cụ truyền thông
Không đồng bộ: Thư tín điện tử, listservs, nhóm tin...
Đồng bộ: Các công cụ dựa trên văn bản (text-based, ví dụ Trao
đổi thông tin trên mạng (Chat) ...) và nghe nhìn (audio video, ví dụ
Internet Phone ...), các công cụ hội nghị.
- Các công cụ truy nhập từ xa.
Nguyễn Ích Cường - CT96B
8
Telnet (mạng từ xa), File Transfer Protocol (truyền tệp tin)...
- Các công cụ làm việc trên Internet.
Truy nhập vào các cơ sở dữ liệu và các tài liệu Web ...
- Các công cụ tìm kiếm và các dạng công cụ khác.
Công cụ tìm kiếm trên Web (Search Engines).
Công cụ đếm số lần truy nhập vào trang Web (Counter Tool).
• Máy tính và các thiết bị lưu trữ
- Các hệ máy tính chạy Unix, Dos, Windows, Linux và các hệ
điều hành Macintosh.
- Các máy chủ, các ổ đĩa cứng, CD ROM...
• Kết nối và các nhà cung cấp dịch vụ
- Modems.
- Dịch vụ kết nối qua đường điện thoại (ví dụ đường điện thoại
chuẩn) và các dịch vụ kết nối qua kênh thuê riêng (ví dụ 64Kbps...).
- Nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP)...
• Các chương trình quy tắc
- Các ngôn ngữ lập trình (ví dụ HTML - Hyper Text Markup
Language - Ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản, VRML - Virtual Reality
Modeling Language - Ngôn ngữ tạo mô hình thực tại ảo, ngôn ngữ Java,
Java Scripting...).

- Các công cụ quy tắc (dễ sử dụng hơn các ngôn ngữ lập trình).
- Các công cụ soạn, biên tập và chuyển đổi thành HTML...
• Các máy chủ
Nguyễn Ích Cường - CT96B
9
- Các máy chủ HTML, các trang Web (Web site)...
- Giao diện cổng vào chung (CGI) một cách tương tác với giao
thức truyền siêu văn bản hay các máy chủ mạng. CGI cho phép chạy
những bản đồ hình ảnh và các mẫu phiếu điền.
• Các trình duyệt và các ứng dụng khác
Trình duyệt văn bản, trình duyệt đồ hoạ, trình duyệt VRML...
Các kết nối (ví dụ kết nối siêu văn bản – Hypertext Links, kết nối
siêu phương tiện – Hypermedia Links...).
2.1.2. Các đặc tính của WBI
Một chương trình WBI được xây dựng tốt có thể có rất nhiều các
đặc tính có ích cho việc dạy và học. Những đặc tính này có thể chứa
đựng các vấn đề sư phạm, công nghệ, tổ chức có liên quan tới giáo dục
từ xa trên WWW. Một chương trình WBI càng có nhiều thành phần thì
nó càng có nhiều đặc tính.
Các đặc tính của WBI có thể chia thành 2 loại: (1) các đặc tính chủ
chốt và (2) các đặc tính bổ trợ. Các đặc tính chủ chốt là các đặc tính vốn
có của Web và cần cho việc thiết kế WBI. Chúng có sẵn cho các nhà
thiết kế đưa vào trong các bài học WBI. Ngược lại, các đặc tính bổ trợ
phụ thuộc vào chất lượng và độ phức tạp của chương trình WBI. Hiệu
quả của các đặc tính bổ trợ phụ thuộc nhiều vào việc các đặc tính chủ
chốt được đưa vào chương trình WBI hợp lý tới mức nào. Dưới đây là
các ví dụ về một số đặc tính chủ chốt và các đặc tính bổ trợ.
• Các đặc tính chủ chốt
Tương tác, đa phương tiện, hệ thống mở, tìm kiếm trực tuyến,
không phụ thuộc vào thiết bị, khoảng cách và thời gian, có thể truy

cập từ bất cứ nơi nào trên thế giới, xuất bản điện tử, đồng nhất trên
Nguyễn Ích Cường - CT96B
10
toàn thế giới, các nguồn tài nguyên trực tuyến, phân bố tương tác,
hỗ trợ người học một cách chủ động...
• Các đặc tính bổ trợ
Tiện lợi, dễ sử dụng, trợ giúp trực tuyến, xác thực, an toàn, tiện lợi
về môi trường, chi phí có hiệu quả, dễ dàng duy trì và phát triển các
chương trình học, mang tính hợp tác, các môi trường chính thức và
không chính thức, đánh giá trực tuyến...
Các đặc tính này được bàn luận trong mối liên quan với các thành
phần của chúng và tầm quan trọng của chúng đối với môi trường WBI.
Mỗi một đặc tính cũng được mô tả theo khả năng cũng như các hạn chế
có thể của nó.
Sự phát triển của thời đại thông tin và các tiến bộ kỹ thuật đã khiến
cho các nguồn tài nguyên kiến thức ngày càng dễ tiếp nhận. Web sẽ trở
thành một phương tiện đầy tiềm năng trợ giúp cho việc học tập. WBI có
khả năng cung cấp môi trường học tập rất phong phú theo một cách thức
rộng dãi, dân chủ và tương tác. Việc xây dựng WBI đòi hỏi phải xem xét
kỹ lưỡng tiềm lực của Web trong mối quan hệ với các nguyên tắc thiết
kế chương trình dạy học. Kiến thức hiểu biết về khả năng của các thành
phần và các đặc tính của Web có thể giúp rất nhiều cho việc xây dựng
những môi trường kiến thức có ý nghĩa và các cơ hội học tập thích hợp.
2.1.3. Các đặc tính cơ bản và những thành phần kết hợp với các môi
trường học tập WBI
Dưới đây là các đặc tính cơ bản và những thành phần kết hợp với
các môi trường học tập WBI
o Sinh viên có thể ghi tên vào một khoá WBI từ bất kỳ nơi nào trên
thế giới (không phụ thuộc vào khoảng cách) dùng bất kỳ hệ máy
tính nào (không phụ thuộc vào thiết bị) vào bất kỳ thời gian nào,

ban ngày hay ban đêm (không phụ thuộc thời gian).
Nguyễn Ích Cường - CT96B
11
o Một khoá học có thể được thiết kế cho mọi phương thức học của
sinh viên bằng cách đưa vào các yếu tố đa phương tiện, ví dụ như
văn bản, đồ hoạ, audio, video, hình ảnh động... Tuy nhiên kích
thước tệp và tốc độ truyền là những yếu tố giới hạn. Dải tần hạn
chế đồng nghĩa với chất lượng âm thanh, hình ảnh đồ hoạ kém hơn.
Vấn đề tốc độ có thể làm cho WBI kém năng suất và kém hiệu quả.
o Các sinh viên học theo kiểu WBI có thể tương tác với nhau, với
người hướng dẫn, với các nguồn tài nguyên trực tuyến. Với việc sử
dụng Web và ngôn ngữ HTML, một ngôn ngữ rất linh hoạt và hoạt
động trên mọi hệ máy tính. HTML và cấu trúc địa chỉ URL đã
khiến cho Web duyệt qua dễ dàng hơn cho mọi sinh viên WBI.
Tiêu chuẩn mở này giúp cho mọi người có nhiều khả năng lựa
chọn những khoá học họ muốn. Trước khi theo một khoá WBI,
sinh viên có thể xem xét cả chương trình học và các thông tin của
người dạy (nếu khoá học cung cấp những thông tin này).
o Các sinh viên WBI, những người dạy và các chuyên gia đều có thể
đưa các tư liệu đã viết trước đây thành những tư liệu lưu trữ của
mình trong khoá WBI làm cho chúng có thể được sử dụng rộng rãi
trên thế giới (đặc tính phân bố).
o Ngoài ra WBI còn có các đặc tính dễ sử dụng, có tính xác thực, chi
phí hiệu quả, dễ phát triển và duy trì các chương trình học. Theo
Kearsley điều có ý nghĩa nhất của Web đối với giáo dục ở các cấp
là nó phá vỡ được bức tường nhân tạo giữa phòng học và “thế giới
thực”.
Chính từ những đặc tính đó đã làm cho WBI đã từng bước được
ứng dụng và khẳng định trong hệ thống giáo dục Việt Nam. Bước đầu
bằng việc ứng dụng trong việc học ngoại ngữ, WBI đã khẳng định được

lợi thế của giáo dục trên mạng thông qua lượng thông tin mà WBI cung
cấp cho người học cao hơn hẳn so với giáo dục truyền thống.
2.2. CÔNG NGHỆ INTERNET VÀ MẠNG MÁY TÍNH
Nguyễn Ích Cường - CT96B
12
2.2.1. Lịch sử phát triển
Từ một dự án nghiên cứu, phát triển mạng thông tin máy tính dựa
trên công nghệ chuyển mạch gói phục vụ nghiên cứu, phát triển của Bộ
quốc phòng Mỹ giữa những năm 1960, Internet ngày nay đã trở thành
mạng của các mạng thông tin máy tính toàn cầu, được kết nối với nhau
dựa trên cơ sở bộ giao thức trao đổi dữ liệu TCP/IP, đáp ứng ngày càng
phong phú hầu hết các dịch vụ thông tin liên lạc của xã hội, tiến tới trở
thành hạ tầng thông tin liên lạc duy nhất của xã hội thông tin tương lai.
Hình 1: Mô hình mạng Internet
Sở dĩ Internet được phát triển hết sức mạnh mẽ như vậy chính bởi
kiến trúc đơn giản và linh hoạt của mạng. Với các giao thức hỗ trợ ứng
dụng phổ biến như truy nhập từ xa (Telnet), chuyển tệp (FTP), dịch vụ
World Wide Web (HTTP), thư điện tử (SMTP)...
2.2.2. Bộ giao thức TCP/IP
Chất keo dính kết nối mạng Internet chính là mô hình chuẩn
TCP/IP và các giao thức TCP/IP. Sự ra đời của họ giao thức của Internet
Nguyễn Ích Cường - CT96B
13
Network
Network
R
H
Network
R
Network

R
R
Network
R
R
H
H
H
Internet
Ứng dụng
Bộ định tuyến
TCP/IP
Trạm làm việc
mà tiền thân là mạng ARPAnet do bộ quốc phòng Mỹ tạo ra. Đây là bộ
giao thức được dùng rộng rãi nhất vì tính "mở" của nó. Điều đó có nghĩa
là bất cứ máy nào dùng bộ giao thức TCP/IP đều có thể nối được vào
Internet. Hai giao thức đuợc dùng chủ yếu ở đây là TCP và IP.
- Cấu trúc phân lớp trong TCP/IP
Nếu mô tả TCP/IP theo mô hình các lớp ta có hình vẽ sau
Hình 2: Mô hình TCP/IP
• Lớp truy nhập mạng:
Network Access Layer là lớp thấp nhất trong cấu trúc phân bậc của
TCP/IP. Những giao thức ở lớp này cung cấp cho hệ thống phương
thức để truyền dữ liệu trên các tầng vật lý khác nhau của mạng. Nó
định nghĩa cách thức truyền các khối dữ liệu (datagram) IP. Các
giao thức ở lớp này phải biết chi tiết các phần cấu trúc vật lý mạng
Nguyễn Ích Cường - CT96B
14
Application Layer
Bao gồm các ứng dụng và các tiến trình sử dụng trên mạng

Host to Host Transport Layer
Cung cấp các dịch vụ truyền số liệu liên tục
Internet Layer
Định nghĩa đơn vị truyền và có nhiệm vụ tìm dòng
Network Access Layer
Bao gồm các công việc cần thiết để truy nhập tới mạng
ở dưới nó để định dạng được chính xác các gói dữ liệu sẽ được
truyền trong từng loại mạng cụ thể.
• Lớp liên mạng:
Internet Layer là lớp ở ngay trên lớp Network Access trong cấu trúc
phân lớp của TCP/IP. Internet Protocol là giao thức trung tâm của
TCP/IP và là phần quan trọng nhất của lớp Internet. Tầng Internet
định nghĩa một định dạng gói tin chính thức và một giao thức gọi
lag IP (Internet Protocol - giao thức liên mạng). Nhiệm vụ của tầng
Internet là phân phát các gói tin theo chuẩn IP tới đúng nơi mà
chúng cần đến. Việc dẫn đường cho các gói tin là một vấn đề lớn ở
đây nhất là tránh tình trạng tắc ngẽn.
• Lớp vận chuyển:
Lớp giao thức nằm ngay trên lớp IP lag lớp giao thức vận chuyển.
Hai giao thức quan trọng nhất trong lớp này là TCP (Transmission
Control Protocol) và UDP (User Datagram Protocol).
Giao thức thứ nhất: TCP cung cấp dịch vụ truyền dữ liệu tin cậy
cho phép truyền một dòng byte từ một máy tính tới bất kỳ một máy
nào khác trên mạng đảm bảo không có lỗi. Nó chia nhỏ dòng byte
đó thành các bản tin rời rạc và truyền từng mảnh đó tới tầng
Internet. Tại máy tính đích, TCP nơi nhận sẽ ghép các bản tin đó lại
với nhau để trở thành một dòng byte như ban đầu.
Giao thức thứ hai: UDP là một giao thức kiểu không liên kết với độ
tin cậy thấp dành cho các ứng dụng không muốn sử dụng khả năng
hỗ trợ và điều khiển dòng của TCP mà muốn tự mình làm việc đó

chẳng hạn như việc truyền đi dọng nói hoặc hình ảnh video.
• Lớp ứng dụng:
Lớp ứng dụng là lớp giao thức nằm trên cùng trong cấu trúc phân
lớp của bộ giao thức TCP/IP. Lớp này bao gồm tất cả các tiến trình
Nguyễn Ích Cường - CT96B
15
dùng các giao thức của hệ thống truyền dẫn để truyền dữ liệu. Có
nhiều giao thức hỗ trợ ứng dụng ở lớp này. Các dịch vụ thông dụng
tương ứng trên lớp này là:
• Telnet: cung cấp khả năng truy nhập từ xa,
• FTP: dùng để truyền tệp trên mạng,
• SMTP: truyền th điện tử,
• Các dịch vụ khác nh Gopher, Mosaic, WWW...
2.2.3. Một số dịch vụ trên Internet
2.2.3.1. E-Mail
Dịch vụ thư điện tử hay còn gọi là điện thư (E-Mail). Điện thư giúp
ta gửi thông tin đến mọi người nếu ta có địa chỉ điện thư của họ. Số
lượng người sử dụng điện thư lên tới hàng chục triệu người, do vậy dịch
vụ điện thư đóng một vai trò hết sức quan trọng. Ta có thể chia dịch vụ
thư điện tử thành 2 dịch vụ cơ bản là: a) Danh sách địa chỉ thư (với máy
chủ quản lý danh sách thư) và b) Kho lưu trữ chính (máy chủ thực thi).
Danh sách địa chỉ thư có khả năng đưa ra danh sách địa chỉ điện thư của
mọi người mà bạn có thể gửi thư đến từng địa chỉ đó. Kho lưu trữ chính
cho phép gửi các tệp theo dòng điện thư để đáp ứng yêu cầu của người
dùng đưa ra.
2.2.3.2. FTP
FTP là một dịch vụ tốt và có hiệu quả để lấy tệp từ các máy tính
khác trên mạng. Việc này cũng giống như việc đăng nhập vào một máy
tính nhưng nó giới hạn người sử dụng bằng một số lệnh giới hạn đối với
những người sử dụng nặc danh. Ứng dụng khách FTP đã làm cho máy

tính trở nên hữu ích hơn.
FTP hỗ trợ tất cả các dạng tệp, chính vì vậy mà nó không cần để ý
đến các dạng của tệp. Song điểm yếu của FTP chính là quá trình hiển thị
Nguyễn Ích Cường - CT96B
16
các thư mục và các tệp không thân thiện cụ thể nó không cung cấp giao
diện đồ hoạ và những chỉ dẫn cần thiết về tệp hay thư mục.
2.2.3.3. Telnet và Finger
Telnet và Finger là hai dịch vụ có trong bất cứ hệ điều hành nào do
vậy chúng được sử dụng ngay lúc chúng ra đời. Telnet cho phép bạn
đăng nhập vào hệ thống từ một thiết bị đầu cuối nào trên mạng. Nó sử
dụng để cung cấp các dịch vụ của Internet hoàn toàn giống như bạn quay
số để nối trực tiếp vào Internet bằng modem.
Finger được thiết kế để cung cấp thông tin của người dùng từ một
hệ thống ở xa (như các thông tin về thư điện tử của người sử dụng). Nó
còn được sử dụng để cung cấp các mẩu thông tin như ngoại hối, bản tin
thời tiết...
2.2.3.4. World Wide Web
World Wide Web (WWW hay Web) là một dịch vụ mới nhất và có
hiệu quả nhất trên Internet. WWW với những đặc trưng của riêng nó
cùng với tổ hợp các dịch vụ thông tin đã biến nó trở thành một dịch vụ
rất hữu ích và dễ hiểu. Nếu khi bạn cần FTP thì client FTP sẽ cho phép
bạn có thể truy nhập vào tài nguyên của FTP, Nếu bạn cần WAIS sẽ cho
phép bạn truy nhập vào WAIS server... Còn trình duyệt Web có thể cho
phép bạn truy nhập vào tất cả các dịch vụ trên và còn hơn thế nữa.
Tài liệu WWW được viết bằng ngôn ngữ HTML, dưới dạng nguyên
thuỷ nó giống như một văn bản bình thường nhưng có thêm một số lệnh
định dạng HTML bao gồm nhiều danh sách liên kết với các tài nguyên
FTP, WAIS Server và Web Server. Tài liệu HTML có khả năng cung
cấp các nội dung có giá trị và các thông tin bổ ích, đơn giản chỉ cần một

lần kích chuột ta có thể truy nhập vào các Server thông tin ở bất cứ đâu.
2.2.3.5. WAIS
WAIS làm nhiệm vụ tìm kiếm dữ liệu. Nó thường xuyên bắt đầu
việc tìm kiếm dữ liệu tại thư mục của máy chủ nơi chứa toàn bộ danh
Nguyễn Ích Cường - CT96B
17
mục của các máy chủ khác. Sau đó nó tìm kiếm tại máy chủ thích hợp
nhất.
WAIS sẽ tìm kiếm tài liệu trong danh sách trên server bởi một hay
vài từ và sau đó thông báo kết quả phù hợp với những tài liệu để ta có
thể quyết định. WAIS có thể thực hiện công việc của mình với rất nhiều
loại dữ liệu khác nhau như văn bản ASCII, tệp GIF và TIFF, thư điện tử,
tài nguyên Netnews trên Internet.
2.3. ÂM THANH SỐ
2.3.1. Các khái niệm về âm thanh số
Với sự ra đời của đĩa CD âm thanh và sự phát triển nhanh chóng
của các vỉ mạch âm thanh cho các máy PC, các kỹ thuật xử lý tín hiệu
mới nhất được áp dụng với âm thanh số. Với một khái niệm đơn giản là
sự số hoá các tín hiệu tương tự, ví dụ như âm thanh đã có một loạt các
vấn đề đặt ra cần phải giải quyết.
Âm thanh số có nhiều điểm thuận lợi hơn so với âm thanh tương tự:
• Khi ghi âm thanh dưới dạng số, các giá trị không bị thay đổi khi
sao chép hoặc khi ghi lại. Mỗi bản sao của nó là một bản chính
xác hoàn toàn với bản gốc vì các thông tin số có thể đem so sánh
với bản sao và từ đó có thể phát hiện ra các lỗi, và có khả năng
sửa được các lỗi.
• Phép ghi độc lập với phương tiện ghi. Âm thanh số là một dòng
bít từ CD-ROM hay đĩa cứng cũng đều giống nhau vì dòng bít
này là các bản sao chính xác của nhau. Điều này không đúng với
âm thanh tương tự, vì đặc tính của phương tiện ghi có thể làm

thay đổi đặc tính của âm thanh.
• Âm thanh số dễ dàng xử lý vì xử lý tín hiệu số có thể thực hiện
được bằng các thuật toán toán học. Các hiệu ứng khác nhau như
Nguyễn Ích Cường - CT96B
18
hiệu ứng về pha, tạo tiếng vang ... cũng có thể được sinh ra bằng
các phép tính toán toán học trên tín hiệu âm thanh số. Các phép
xử lý đó còn có thể cho phép ta lọc nhiễu hoặc sửa lỗi ...
Tuy thế âm thanh số cũng có nhiều điểm bất lợi so với âm thanh
tương tự:
• Nó yêu cầu hai lần chuyển đổi tín hiệu, một lần từ dạng tín hiệu
tương tự sang dạng tín hiệu số (AD - Analog to Digital), một lần
từ dạng tín hiệu số sang tín hiệu tương tự (DA - Digital to
Analog).
• Các phép chuyển đổi trên có thể sinh ra méo và mất mát thông
tin.
• Dữ liệu số yêu cầu mật độ lưu trữ cao hơn so với dữ liệu tương
tự. Một hệ thống ghi dạng tương tự như máy ghi âm cassette
không thể lưu trữ được dữ liệu số để có được âm thanh chất
lượng như lưu trữ dưới dạng tương tự.
• Các hiệu ứng đơn giản có thể sinh ra bằng cách sử dụng các
thuật toán, chúng yêu cầu một bộ xử lý cực nhanh chính vì thế
nó đắt hơn so với các thiết bị tương tự mặc dù chúng kém linh
hoạt hơn ...
2.3.1.1. Kỹ thuật chuyển đổi tương tự - số
Nguyên lý cơ bản để chuyển đổi tín hiệu tương tự - số đơn giản là:
Tín hiệu tương tự được lấy mẫu sau các khoảng thời gian bằng nhau, và
mỗi mẫu được lượng tử và lấy xấp xỉ với giá trị số tương ứng. Giá trị này
là tín hiệu số tương ứng với tín hiệu tương tự.
2.3.1.2. Các lỗi lượng tử hoá

Hiện tượng các giá trị tín hiệu sau khi lượng tử hoá không đúng với
giá trị của tín hiệu tương tự trong quá trình chuyển đổi AD được gọi là
lỗi lượng tử hoá (Quantisation Errors). Các tín hiệu tương tự có khoảng
Nguyễn Ích Cường - CT96B
19
giá trị không xác định, sự khác nhau giữa giá trị tương tự và giá trị số mà
quá trình chuyển đổi gây nên chính là lỗi lượng tử hoá.
Kích thước của lỗi lượng tử hoá phụ thuộc vào số các bít sử dụng
để biểu diễn giá trị tương tự. Vì vậy nếu sử dụng độ phân giải cao hay
nói cách khác sử dụng nhiều bit để biểu diễn giá trị số thì lỗi lượng tử sẽ
nhỏ hơn nhưng chính vì thế mà kích thước cần thiết để lưu trữ âm thanh
số đó cũng tăng lên. Giả sử tần số lấy mẫu là 44.1 KHz - tần số tương
ứng với đĩa CD âm thanh. Để lưu trữ 5 phút âm thanh 16 bit thì phải cần
16Mbyte bộ nhớ. Với tín hiệu stereo thì phải cần kích thước lưu trữ gấp
đôi.
2.3.1.3. Các tần số lấy mẫu và kích thước
Một tham số quan trọng khác có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
của âm thanh là tần số lấy mẫu. Tần số lấy mẫu là tần số mà ta lấy từ tín
hiệu tương tự trong một đơn vị thời gian, thông thường là một giây, và
thường đo bằng Hz, giống như đơn vị đo các tần số khác. Tần số lấy mẫu
xác định nhiều khía cạnh trong quá trình chuyển đổi:
• Nó tự xác định tốc độ của thiết bị chuyển đổi. Tất cả các thiết bị
chuyển đổi đều cần một khoảng thời gian để chuyển đổi và
chính thời gian này xác định tần số lớn nhất mà ta có thể dùng
thiết bị đó lấy mẫu (CD-ROM 44KHz, băng cassette 22KHz và
Radio 11KHz).
• Tần số lấy mẫu xác định tần số lớn nhất của tín hiệu có thể được
chuyển đổi. Điều này sẽ giải thích ở phần sau về định lý
Nyquist.
• Quá trình lấy mẫu phải được thực hiện theo cách thông thường

với các khoảng thời gian bằng nhau một cách chính xác giữa các
lần lấy mẫu. Điều này rất quan trọng khi loại bỏ các lỗi của quá
trình chuyển đổi dựa trên các mẫu không bình thường.
Nguyễn Ích Cường - CT96B
20
2.3.1.4. Các lỗi lấy mẫu không đúng quy cách
Các lỗi lấy mẫu không đúng quy cách là do thời điểm lấy mẫu
không phù hợp hay không chính xác như vậy sẽ làm cho các mẫu không
đúng với giá trị của tín hiệu tương tự tương ứng. Các nguyên nhân chính
có thể là:
• Nếu như lấy mẫu sớm hơn so với quy định, giá trị được chuyển
đổi sẽ nhỏ hơn giá trị thật. Khi đó sẽ xảy ra lỗi lượng tử hoá.
• Nếu lấy mẫu muộn hơn quy định, giá trị được chuyển đổi sẽ lớn
hơn giá trị thật. Nếu như toàn bộ hoặc một phần của tín hiệu
trước đó mà lấy mẫu muộn thì hình dạng của tín hiệu sinh ra sẽ
không đổi nhưng với biên độ nhỏ hơn. Một điểm quan trọng là
đường cong lấy mẫu sẽ không phản ánh được đường cong gốc.
• Nếu như lỗi thời gian ngẫu nhiên xảy ra, thường gọi là hiện
tượng Jitter, khi đó đường cong kết quả sẽ méo đi rất nhiều.
Các lỗi về tần số lấy mẫu khác có thể xảy ra nếu khi lấy mẫu có trễ.
Nếu độ trễ là hằng số, đặc tính của đường cong vẫn giữ nguyên nhưng sẽ
lệch pha. Một điều rất thú vị là bộ chuyển đổi luôn sinh ra lỗi pha do thời
gian chuyển đổi của thiết bị. Thời gian chuyển đổi làm trễ tại đầu ra và
vì thế sinh ra lỗi pha, nhưng thường là rất nhỏ và ta có thể bỏ qua.
Vì các lý do này, nhiều bộ vi xử lý thực hiện lấy mẫu bằng cách dựa
trên kỹ thuật ngắt và bộ định thời. Bộ định thời được thiết lập để sinh ra
các ngắt có tốc độ bằng tần số lấp mẫu đối với bộ xử lý. Mỗi khi ngắt
xuất hiện, thường trình phục vụ ngắt đọc giá trị tại bộ chuyển đổi, ra lệnh
cho nó bắt đầu thực hiện quá trình chuyển đổi mới trước khi nó tiếp tục
thực hiện bình thường. Các câu lệnh này luôn chiếm những khoảng thời

gian như nhau vì vậy quá trình lấy mẫu toàn vẹn được duy trì.
Định lý Nyquist
Tần số lấy mẫu phải được chọn cẩn thận để chuyển đổi được tín
hiệu tương tự có tần số lớn nhất theo mong muốn. Định lý Nyquist chỉ ra
rằng tần số lấy mẫu nhỏ nhất phải gấp đôi tần số lớn nhất của tín hiệu
Nguyễn Ích Cường - CT96B
21
tương tự thì mới có khả năng khôi phục lại được tín hiệu tương tự từ các
mẫu. Ví dụ, một tín hiệu tương tự có tần số 4KHz phải được lấy mẫu với
tần số nhỏ nhất là gấp đôi - 8KHz để chuyển đổi nó thành tín hiệu số.
Hay đối với âm thanh Hi-Fi với tần số trong khoảng 20Hz đến 20KHz
phải được lấy mẫu với tần số nhỏ nhất là 40KHz.
Các tần số cao có thể được lọc bởi các bộ lọc tương tự trước khi
đưa vào chuyển đổi.
2.3.2. Các phương pháp mã hoá âm thanh số
2.3.2.1. Mã hoá và giải mã
Khi một bộ chuyển đổi có cả hai chức năng AD và DA, chúng được
gọi là các bộ mã hoá và giải mã (Codec). Các tín hiệu số sau khi chuyển
đổi có thể được mã hoá bằng nhiều công nghệ khác nhau, vì thế Codec
chỉ là bước mã ban đầu.
2.3.2.2 Mã hoá tuyến tính
Bộ mã hoá và giải mã tuyến tính (linear coding) là một bộ mã mã
hoá và giải mã chuẩn giống như ta đã mô tả ở phần trên. Quan hệ giữa
tín hiệu vào tương tự và tín hiệu số ra là quan hệ tuyến tính. Các thay đổi
về giá trị của tín hiệu tương tự cũng tương ứng với các thay đổi giá trị
của tín hiệu số, không phụ thuộc đó là tín hiệu số hay tương tự. Mã hoá
và giải mã tuyến tính thường được sử dụng trong các tín hiệu âm thanh.
2.3.3. Các kỹ thuật nén âm thanh số
Âm thanh số yêu cầu rất nhiều không gian lưu trữ - đặc biệt là khi
sử dụng tần số lấy mẫu cao và kích thước mẫu lớn. Để giảm yâu cầu này,

các kỹ thuật nén được sử dụng làm giảm số lượng dữ liệu cần thiết để mã
hoá âm thanh.
2.3.3.1. Mã RLL và Huffman
Các dòng dữ liệu âm thanh số hoá giống như bất cứ dữ liệu số nào
và có thể được nén bằng các kỹ thuật nén dữ liệu khác như nén dữ liệu
Nguyễn Ích Cường - CT96B
22
đồ hoạ, nén dữ liệu văn bản. Nhưng hiệu quả của các thuật nén này phụ
thuộc nhiều vào nội dung của dữ liệu, đối với âm thanh thường có nhiều
khoảng lặng - vì vậy nhiều mẫu liên tục có giá trị giống nhau nên nó sẽ
được nén tốt hơn so với những đoạn âm có ít hoặc không có các khoảng
lặng.
2.3.3.2. Mã GSM toàn phần và bán phần
Các thuật toán nén âm thanh được sử dụng cho các máy điện thoại
di động trong mạng GSM có những thành công đáng kể khi nén dữ liệu.
Nó sinh ra dữ liệu nén bằng cách chuyển đổi tiếng nói thành một dãy các
hệ số, các hệ số này được đưa vào bộ dẫn âm mô phỏng bộ dẫn âm của
con người. Những hệ số này được bên nhận sử dụng trong bộ tổng hợp
tiếng nói, hoàn thiện với âm chuẩn và ngữ điệu. Kết quả là kênh tiếng
nói điện thoại thông thường có thể được nén từ 64Kbit/s theo PCM yêu
cầu giảm xuống 16Kbit/s khi mã toàn phần và 8Knit/s khi mã bán phần.
2.4. HÌNH ẢNH SỐ
Cũng tương tự như âm thanh số, ảnh số được tạo ra từ ảnh tương tự
bằng cách lấy mẫu trong không gian ảnh, sau đó lượng tử hoá các mẫu.
Khác với âm thanh số, việc lấy ảnh phải được thực hiện trong không
gian hai chiều: chiều rộng và chiều cao, các giá trị mẫu là giá trị về độ
sáng hay màu của ảnh. Sau khi lấy mẫu, ta được ma trận các mẫu của
ảnh. Lượng tử hoá ma trận này ta được ảnh số. Trong chương này, chúng
ta xem xét về các phương pháp nén ảnh số khác nhau.
2.4.1. Nén ảnh số - các khái niệm, nguyên lý

Khi nói đến Multimedia, ta chú ý đến chất lượng hình ảnh của phim
trên PC và các công nghệ kèm theo để cung cấp các phương tiện điện tử
và các phương tiện viễn thông. Vấn đề cơ bản là rất nhiều dữ liệu được
chuyển tải trên một dải thông hẹp do sự giới hạn về chất lượng đường
truyền trên mạng. Vì vậy, khả năng nén một ảnh sốlà bước cơ sở để tạo
ra các hình ảnh chuyển động. Các kỹ thuật nén được sử dụng để nén một
Nguyễn Ích Cường - CT96B
23
ảnh màu cũng làm cơ sở để nén phim. Phần này sẽ giới thiệu các kỹ
thuật cơ bản để nén một ảnh số đơn.
2.4.1.1. Nén dữ liệu thông qua mã hoá
Ngoài cách sử dụng các ký hiệu để biểu diễn dữ liệu nén, ta còn có
cách khác để nén dữ liệu, đó là việc xem xét nội dung của dữ liệu và
thay đổi mã của nó để làm giảm khoảng không gian lưu trữ cần thiết. Ví
dụ với các số như trên hình
(0011001100220120012000000000222222222). Nó chứa nhiều số khác
nhau nhưng một số số được lặp lại, chúng có thể được mã hoá khác nhau
để cho số xuất hiện một lần và tiếp theo là số lần được lặp lại. Để đánh
dấu là dạng mã này được sử dụng, một ký tự đặc biệt được sử dụng,
trong trường hợp này là *, chỉ ra rằng số tiếp theo nó là số được lặp lại
và số sau đó nữa là số lần lặp lại của số. Theo cách này, 00 thành *02 và
làm tăng kích thước của mã. Tuy nhiên, 000000 trở thành *06 sẽ làm
giảm dữ liệu.
Với ví dụ trên 0011001100220120012000000000222222222
*02*12*02*12*02*22012*0012*09*29
0011001100220120012*09*29
Kiểu này chỉ phù hợp cho chuỗi có đến 9 ký tự hoặc 10 ký tự nếu
sử dụng số 0 cho các giá trị lặp và nó nó có thể được mở rộng khi cần
thiết. Kỹ thuật này được gọi là mã chuỗi, thường được sử dụng để nén
dữ liệu mà nó có số lượng lặp lại nhiều.

2.4.1.2. Sử dụng các đặc tính đáp ứng của mắt người
Một thuận lợi lớn nhất đối với mắt người so với màn hình máy tính
hay camera điện tử là phổ của màu đáp ứng có giới hạn. Không giống
như các màn hình PC - sử dụng số các bit RGB như nhau trên ảnh, sự
cảm nhận của mắt có trọng lượng khác nhau với các màu khác nhau và
Nguyễn Ích Cường - CT96B
24
vì thế nó trở nên khó cho việc phân biệt giữa các màu mà máy tính có
thể biểu diễn. Nếu như mắt không thể phân biệt được tất cả các màu, dữ
liệu có thể được lưu trữ theo các luật nhân tạo mà máy tính hiển thị. Hay
nói cách khác, nếu mắt người không thể phân biệt được 16 hay 24 bit đối
với một điểm ảnh, vậy thì tại sao ta phải lãng phí dải thông đó để truyền
dữ liệu ?
2.4.1.3. Mô hình không gian màu RGB
Như đã nêu ở phần trên, các thiết bị thu thập và hiển thị của máy
tính đều sử dụng mô hình không gian màu RGB mà mỗi màu của một
điểm ảnh được biểu diễn bằng một số bit nào đó. Với điểm ảnh được
biểu diễn bởi 24 bit, mỗi màu được phân chia là 8 bit. Tuy nhiên, nếu số
bit để biểu diễn điểm ảnh không phân chia đều được cho ba màu thì ảnh
có xu hướng bị lệch về một màu nào đó. Độ lệch này phụ thuộc vào cách
phân chia các bit cho các màu.
2.4.1.4. Cách biểu diễn Luma/Chroma
Ta sẽ xem xét cách chuyển một điểm ảnh RGB sang các thành phần
Luma và Chroma. Luma (γ) là độ sáng cảm nhận được của ảnh từ biên
độ của RGB và nó được sinh theo công thức sau:
γ = 0.299R + 0.587G + 0.114B
Chroma là màu cảm nhận được của ảnh và có ba thành phần được
tính như sau:
R - γ = -1.72(G-γ) - 0.678(B-γ)
B - γ = -2.53(G-γ) - 1.47(R-γ)

G - γ = -0.581(R-γ) - 0.394(B-γ)
Nguyễn Ích Cường - CT96B
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×