LUẬN VĂN:
Những vấn đề cơ bản của công
nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước
ta từ trước tới nay
Lời Nói Đầu
CNH-HĐH về logic cũng như về lịch sử là một quá trình tất yêu mà mọi quốc gia
trên thế giới đều phải trải qua. CNH-HĐH là điều kiện đầu tiên đối với hầu hết các quốc
gia muốn vươn lên hàng các quốc gia phát triển có thu nhập đầu người cao. Ví dụ: CNH-
HĐH là tiền đề cho quá trình tăng trưởng nhanh ở Singapore từ năm 1974 đến năm 1989,
cho HongKong những thập niên 70 và 80, Cộng hoà Nam Triều Tiên giai đoạn 1972 -
1981. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của KHKT và xu hướng quốc tế hoá ngày càng mở
rộng, đất nước ta đã và đang từng bước CNH-HĐH theo định hướng XHCN
Trải qua mấy năm đổi mới, cục diện đất nước ta đã có nhiều thay đổi, chuyển sang cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước làm cho nền kinh tế trong nước phát triển mang
nhiều dấu hiệu khởi sắc mới. Nền kinh tế hàng hoá tạo ra bề mặt đất nước đa dạng phong
phú hơn, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện. Điều đó thể hiện ở tốc độ GDP tăng
đều qua các năm bình quân 8,2%/năm.
Song thực tế cho thấy nước ta vẫn là một nước nghèo nàn lạc hậu, với một nền kinh
tế còn tồn tại nhiều yếu kém. Theo cách đánh giá của WB, VN có thể giàu có về nhân lực
và lao động có học thức. Nhưng những điều kiện cơ bản thì hiện nay vẫn trong tình trạng
khó khăn. có thể nhận thấy rằng, nếu ta muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh
chóng đạt đến trình độ của mộ nước phát triển thì tất yếu phải đẩy mạnh sự nghiệp CNH-
HĐH như là “Một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực đời sống
xã hội”. Bởi lẽ mục tiêu của CNH-HĐH ở nước ta hiện nay như đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII đã khẳng định: “Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật
chất, kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh
vững chắc, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh”
Trong phạm vi bài viết hạn hẹp em chỉ xin nghiên cứu “Những vấn đề cơ bản của
CNH-HĐH ở nước ta từ trước tới nay”.
Nội DUNG
I - Lý luận chung về CNH-HĐH
1. Các quan niệm và khái niệm về CNH-HĐH
Thực trạng đất nước ta hiện nay với những điều kiện và phương hướng để áp dụng
CNH-HĐH một cách tích cực đem lại hiệu quả kinh tế cao, để đi sâu vào vấn đề này trước
hết chúng ta cần phải hiểu CNH-HĐH là gì ?
Song khi bàn tới CNH-HĐH, chúng ta thường bắt gặp những cách tiếp cận khác nhau
như:
-CNH-HĐH là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế trong đó công
nghiệp và dịch vụ chiếm tỉ trọng ngày càng lớn. Cách tiếp cận này đã lẫn lộn giữa kết quả
và nội dung CNH-HĐH.
-CNH-HĐH là một chiến lược phát triển KT-XH, KH-CN trong một thời gian dài. ở
đây CNH-HĐH được hiểu như một chiến lược phát triển trong đó có phương hướhg mục
tiêu của nền kinh tế mà không nêu được bản chất của quá trình này.
-CNH-HĐH là quá trình cải biến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng
KT-CN tiên tiến để đạt được năng suất lao động xã hội cao. Đây có lẽ là một cách tiếp cận
đúng bởi nó đã đưa ra mục tiêu CNH-HĐH là tăng năng suất lao động xã hội - các quy
định cho sự tồn tại của một chế độ xã hội.
Cách tiếp cận này cũng phù hợp với định nghĩa về CNH-HĐH của hội nghị lần thứ 7
ban chấp hành TW Đảng khoá VII: “ CNH-HĐH là quá trình chuyểh đổi căn bản, toàn
diện các hoạt đọng sản xuất kinh doanh, dịch vụ, quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và sự
tiến bộ KH-CN tạo ra năng suất lao đọng xã hội cao.
Việc cơ khí hoá trang thiết bị công nghệ hiện đại cho các ngành KTQD trong điều
kiện hiện nay phải được tiến hành theo quan điểm xây dựng nền kinh tế mở, đất nước đang
trong quá trình tham gia vào sự phân công lao động và hợp tác quốc tế. Xây dựng cơ sở vật
chất kĩ thuật cho CNXH là từng bước nâng cao và HĐH nền kinh tế trong nước dẫn đến
nhưngx biến đổi to lớn cả về kinh tế và chính trị.
Từ những yêu cầu đặt ra ở trên các nhà kinh tế học trong nước đã đưa ra quan điểm
mới về CNH đó là:”CNH là quá trình trang bị kĩ thuật và công nghệ hiện đại cho tất cả các
ngành của nền KTQD. Cùng quá trình đó hình thành cơ cấu kinh tế mới cho phép khai thác
tốt nguồn lực của đất nước nhờ đó tạo nền tảng cho sự tăng trưởng kinh tế cao lâu bền cho
toàn bộ nền kinh tế và đảm bảo tiến bộ xã hội.
2. Thực chất CNH-HĐH:
Trong điều kiện kinh tế hiện nay, quan niệm về CNH-HĐH dù trên góc độ nào cũng
không đồng nhất với quá trình phát triển công nghiệp. Tuy quá trình CNH có những nét
riêng đối với từng nước nhưng đó chỉ là sự vận dụng một quy trình có tính chất phổ biến
cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước mà thôi. CNH là quá trình rộng lớn, phức
tạp, thực chất của quá trình này bao gồm các mặt:
2.1-CNH là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành
KTQD, đặc biệt là ngành chiếm vị trí trọng yếu.
Thực hiện CNH trong điều kiện cách mạng KH-KT ngày nay, trang bị và trang bị lại
công nghệ cho các ngành phải gắn liền với quá HĐHở cả phần cứng và phần mềm. Điều
đó cũng có nghĩa là xây dựng xã hội công bằng văn minh, cải biến các ngành kinh tế, các
hoạt động theo phong cách của nền công nghiệp lớn hiện đại làm tăng tốc đọ tăng trưởng
KT-XH cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của dân cư.
Xét trên góc độ KT-KT, HĐH là cái đích cần vươn tới trong quá trình CNH. Nhưng
sự vươn lên về trình độ công nghệ lại bị ràng buộc bởi yêu cầu bảo đảm hiệu quả KT-XH.
Nếu xét toàn cục, HĐH chỉ là phương tiện, điều kiện để đạt tới mục tiêu của quá trình
CNH mà thôi.
2.2-Quá trình CNH là quá trình bao trùm tất cã các ngành, các lực lượng hoạt
độngcủa một nước.
Đó là lẽ tất yếu vì nền kinh tế của mỗi nước là một hệ thống thống nhất, các ngành
các lĩnh vực hoạt động có quan hệ tương đối với nhau. Bởi vậy quá trình CNH cũng gắn
liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu nền KTQD và cơ cấu các ngành kinh tế. Xét tổng
thể, cơ cấu kinh tế mỗi nước được cấu thành bởi 3 loại hình tổng hợp: công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ nà sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mỗi nước trong quá trình CNH-HĐH sẽ
trải qua 2 giai đoạn: từ cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ sang cơ cấu công
nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ
2.3- Quá trình CNH trong bất kì giai đoạn nào cũng vừa là quá trình KTKT vừa là
quá trình KT-XH.
Thực hiện CNH-HĐH có kết quả sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu, thấp kém về kinh tế
đưa đất nước thoát khỏi “vòng luẩn quẩn “đòng thời cũng sẽ thủ tiêu tình trạng lạc hậu về
xã hội, nâng cao dân trí, mức sống của dân cư đưa xã hội đén trình đọ văn minh công
nghiệp.
2.4-Quá trình CNH cũng đồng thời là quá trình mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Trong điều kiện ngày nay, mở rộng phân công lao động quốc tế và quốc tế hoá đời
sống kinh tế trở thành xu thế phát triển ngày càng mạnh mẽ. Việc xây dựng mục tiêu
phương thức CNH ở mỗi nước cần phải phân tích và dự đoán được những biến động kinh
tế xã hội chung của thế giới đặc biệt là các nước trong khu vực. Điều đáng lưu ý ở đây là
thực hiện quá trình CNH phải dựa vào các phải dựa vào các nguồn lực trong nước là chủ
yếu. Song việc khai thác các nguồn lực tự nhiên, phát huy các lợi thế tự nhiên để tham gia
vào các quan hệ kinh tế quốc tế cần kết hợp với việc tái tạo và bảo tồn các nguồn lực ấy
bởi mọi sự lạm dụng “Sức mạnh của con người “để chinh phục tự nhiên theo kiểu bóc lột,
huỷ hoại môi trường, tài nguyên sẽ dẫn con người đến chỗ tàn phá ngay môi trường tồn tại
của chính mình.
2.5- CNH không phải là một mục đích tự thân mà là một phương thức có tính chất
phổ biến để thực hiện mục tiêu của mỗi nước.
Không thể thực hiện có hiệu quả quá trình CNH khi hệ thống chính trị xã hội không
ổn định và không được đổi mới. Ngược lại cũng không thể giữ được ổn định về chính trị
xã hội, chủ quyền của đất nước nếu không thưc hiện có hiệu quả quá trình CNH
Từ toàn bộ những vấn đề đã phân tích trên đây, có thể nói thực chất của CNH là sự
phát triển công nghệ, là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội (công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ) từ trình độ cong nghệ thấp lên trình độ công nghệ hiện đại. Lực lượng lao động sẽ
chuyển dịch thích ứng về cơ cấu ngành nghề, về trình độ tay nghề và học vấn.
3. Một số mô hình chiến lược CNH.
Từ thực tiễn của nhiêu nước đang phát triển, để thực hiện thành công quá trình CNH,
người ta đã khái quát thành 3 loại mô hình chiến lược CNH theo nội dung trọng tâm của
mỗi mô hình.
Chiến lược thay thế nhập khẩu (Hướng nội)
Lịch sử cho thấy chiến lược này đã được các nước đi tiên phong trong CNH thực
hiện từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX thông qua việc lập hàng rào bảo hộ sản xuất
trong nước chống lại sự cạnh tranh hàng ngoại nhập.
Tư tưởng cơ bản của chiến lược này là mỗi nước đang phát triển cần phát triển mạnh mẽ
sản xuất hàng hoá nhất là hàng tiêu dùng để thay thế các hàng hoá phải nhập khẩu từ các nước
tư bản phát triển. Thực hiện có hiệu quả tư tưởng này không những có thể khai thác được
nguồn lực sẵn có đáp ứng các nhu cầu cơ bản, cấp thiết trong nước mà còn mở rộng thị trường
phát triển sản xuất hàng hoá, tạo thêm việc làm, góp phần giải quyết các vấn đề về xã hội, tiết
kiệm ngoại tệ.
Thực hiện nội dung chiến lược này cần chú ý một số điểm cơ bản
+Phải xác định được tổng cầu của mỗi loại hàng hoá trong nước qua phân tích và tính
toán lượng hàng hoá thực tế phải nhập khẩu, tổng số và cơ cấu dân cư
+Khuyến khích các nhà sản xuất trong nước đầu tư để có thể làm chủ kỹ thuật sản
xuất, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia sản xuất hoặc cung cấp công
nghệ, vốn kỹ năng quản lý.
+Lập hàng rào bảo hộ sản xuất trong nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô để
trợ giúp sản xuất trong nước tồn tại và phát triển, kích thích đầu tư vào các ngành thuộc
mục tiêu ưu tiên.
Chiến lược hướng nội lấy trọng tâm là thị trường trong nước để phát triển sản xuất và
lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện mô hình này các quan hệ kinh tế
đối ngoại vẫn được chú ý: nhập khẩu các điều kiện cơ bản để sản xuất hàng thay thế nhập
khẩu, kêu gọi đầu tư nước ngoài vào các mục tiêu thay thế nhập khẩu lấy thị trường quốc
tế làm hướng phấn đấu.
3.2 - Chiến lược hướng về xuất khẩu (hướng nội).
Trong điều kiện thế giới ngày nay, tất cả các nước ở những mức độ khác nhau, đều bị
cuốn hút vào quá trình phân công lao động quốc tế và tham gia vào các hoạt động thương
mại quốc tế. Để thực hiện CNH với quy mô lớn và nhịp độ nhanh nhất thiết phải mở rộng
thị trường ra ngoài nước. Song ở những nước đang phát triển, trình độ kinh tế, kĩ thuật còn
thấp kém, thiếu vốn, thiếu kĩ năng quản lý cũng như kinh ngiệm thương mại quốc tế ít ỏi.
Do đó để thực hiện hướng ngoại, lấy thị trường quốc tế làm trọng tâm, phải phát huy được
lợi thế so sánh của đất nước so với nước bạn.
Tư tưởng cơ bản của chiến lược này là phát triển các ngành sản xuất sản phẩm chủ
yếu phục vụ cho xuất khẩu, trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh của đất nước.
Thời gian đầu các nước phát triển tập trung vào phát triển các ngành khai thác và sản
xuất sản phẩm thô (công nghiệp khai khoáng và nông lâm ngư nghiệp), xuất khẩu sang các
nước công nghiệp phát triển nhằm phát huy lợi thế về tài nguyên phong phú, nguồn nhân
công dồi dào và rẻ. Mặc dù cũng đã tạo được một số điều kiện phát triển kinh tế nhưng
việc tập trung các ngành này lại gặp một số trở ngại: cầu sản phẩm thô trên thị trường quốc
tế tăng chậm, điều kiện mậu dịch bất lợi, sự phát triển các ngành này đôi khi phụ thuộc vào
sự đầu tư của các nước công nghiệp phát triển. Điều đó cho thấy sự thành công của mô
hình chiến lược hướng ngoại phụ thuộc vào một loạt các chính sách kinh tế vĩ mô của
chính phủ:
+ Chính sách tỉ giá hối đoái linh hoạt bám sát sự biến động của tỉ giá trên thị trường
quốc tế và thị trường các nước bạn.
+ Chính sách khuyến khích và trợ giúp xuất khẩu.
+ Chính sách khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài
+ Thành lập và quản lý các khu chế xuất, phát triển tập trung các cơ sở sản xuất, dịch
vụ nhằm phục vụ cho xuất khẩu
Mô hình chiến lược này ngày càng có sức hấp dẫn cao với nhiều nước đang phát
triển.
3.3- Chiến lược hỗn hợp.
Trong bối cảnh mới, ngoài hai chiến lược nói trên, trên thực tế đã hình thành chiến
lược hỗn hợp. chiến lược này được xây dựng trên cơ sở kết hợp các yếu tố của chiến lược
hướng nội (coi trọng thị trường trong nước, phát triển sản xuất các sản phẩm mà trong
nước có khả năng và sản xuất có hiệu quả)và các yếu tố của chiến lược hướng ngoại (lấy
yêu cầu của thị trường quốc tế làm hướng phấn đấu trong phát triển các ngành trong nước.
Với mô hình chiến lược này không những khắc phục được yếu điểm của mô hình chiến
lược hướng nội và hướng ngoại mà còn điều chỉnh trọng tâm của hai mô hình chiến lược
đã nêu trên tránh sự cực đoan trong xác định thị trường và phương hướng phát triển các
ngành kinh tế.
II/ CNH-HĐH ở Việt Nam.
1. Sự cần thiết phải CNH-HĐH ở Việt Nam.
1.1-Những đặc điểm chủ yếu nền KT-XH ở Việt Nam
Thực tiễn ở nước ta trong tình hình hiện nay có những vấn đế nổi cộm mà tất yếu
phải thực hiện CNH-HĐH:
Là một nước nghèo, tích luỹ tư bản trong nước còn ít, chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển. Lãi suất vốn vay chính là giá của vốn. Hiện nay ở Việt Nam mức lãi suất tiền
vay hơh 20%/năm cao hơn nhiều so với các nước khác (Đài Loan 9,3%/năm; Cộng Hoà
Triều Tiên 10%/năm; Singapore 5,5%/năm; các nước phát triển từ 3đến 5%/năm) đã nói
lên tình trạng cầu vượt cung về vốn ở nước ta.
Do chịu hậu qủa nặng nề của 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, nền kinh
tế bị tàn phá nghiêm trọng, các trang thiết bị cơ sở hạ tầng, các công trình công cộng cũng
bị phá hoại nặng. Trên thực tế chúng ta vẫn chưa giải quyết dứt điểm những hậu quả ấy:
đườngô tô loại 1 chỉ có 9,5% tổng chiều dài, đường loại xấu chiếm 36,4%, mạng lưới viễn
thông thiếu nghiêm trọng và thiết bị lỗi thời, ở các địa phương vẫn còn những thiết bị
trước năm 1939 với phần lớn thao tác bằng tay
Nền kinh tế nước ta đã trải qua những thăng trầm tưởng chừng không vượt qua nổi.
Thiên tai mất mùa lại thường xuyên xảy ra làm cho đời sống nhân dân thêm khổ cực. Hơn
nữa nước ta lại xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nền kinh tế còn nhiều bấp
bênh, sản xuất nhỏ kiểu phong kiến tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua giai đoạn TBCN nên
không tránh khỏi những trở ngại trong phát triển kinh tế - xã hội.
Trên thế giới, nền kinh tế tư bản đã tạo ra một bước nhảy vọt về KHKT và kinh tế,
tổng khối lượng giá trị sản phẩm trong 200 năm phát triển TBCN bằng tổng khối lượng giá
trị sản phẩm tạo ra trong 1000 năm của xã hội phong kiến, 6000 năm xã hội chiếm hữu nô
lệ và 1 vạn năm của xã hội cộng sản ngyên thuỷ. Đó là một thiệt thòi lớn đối với chúng ta.
Nền kinh tế của chúng ta chậm hơn nền kinh tế của các nước tư bản trên thế giới gần 100
năm. Trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ kết cấu hạ tầng và việc ứng dụng thành tựu mới
của khoa học vào sản xuất dịch vụ còn thấp kém lạc hậu, hầu hết máy móc thuộc thế hệ
50-60. Chúng ta có một lượng lao động dồi dào, giá rẻ, có tỷ lệ dân số biết chữ khá cao
nhưng lại thiếu những nhà kinh tế chuyên sâu, những nhà kinh doanh, những nhà quản lý
giỏi.
Do đó chúng ta chỉ có thể thoát khỏi tình trạng trên bằng cách thực hiện quá trình
CNH mới tránh khỏi lạc hậu, lạc lõng và lạc điệu trước bước tiến như vũ bão của thế giới.
1.2- Thực trạng CNH-HĐH ở nước ta.
Qua mấy chục năm thực hiện CNH chúng ta đã xây dựng được những cơ sở vật chất
kỹ thuật nhất định. Song thực trạng CNH ở nước ta vẫn còn tồn tại một số vấn đề sau:
*Các mặt còn hạn chế:
+ Quá trình CNH diễn ra quá chậm.
+ Năng lực sản xuất công nghiệp còn nhỏ bé chưa đủ sức đầu tư phát triển, tỷ trọng
công nghiệp trong tổng sản phẩm quốc nội còn thấp. Năm 1992 tổng giá trị tài sản cố định
toàn ngành công nghiệp ước khoảng 3,4 tỷ USD chiếm khoảng 25% giá trị tài sản cố định
của toàn bộ nền kinh tế (không kể giá trị đất đai, đường xá), tỷ trọng công nghiệp trong
GDP chỉ chiếm 22,6%, nông nghiệp chiếm 34,5% và dịch vụ chiếm 37,9%. Năm 1993 tỷ
trọng công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ trong GDP tương ứng: 22,7%;30,9%; 40,8%.
+ Ngành công nghiệp vẫn chủ yếu là gia công. Ngoại trừ các sản phẩm tiêu dùng
phục vụ trong nước hầu hết các sản phẩm xuất khẩu đều được thực hiện dưới hình thức gia
công; các ngành công nghiệp mới như chế tạo ô tô, xe máy, điện tử mới chỉ dừng lại ở
trình độ lắp ráp GKD, SKD trong đó các linh kiện đều do nước ngoài cung cấp. Hơn nữa,
ngoài điện, than, xi măng chúng ta vẫn còn phải nhập khẩu 60% sắt thép, 90% hoá chất
(thuốc trừ sâu 100%; phân Kali 100%; phân Đạm 98% ).
+ Trình độ công nghiệp vẫn còn ở mức lạc hậu, chắp vá, thiếu đồng bộ. Hầu hết các
ngành kinh tế - kỹ thật trình độ thiết bị công nghệ lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ so với trình độ
trung bình của thế giới. Đó là hạn chế cơ bản khiến sản xuất công nghiệp của ta tiêu hao
nhiều nguyên vật liệu, năng suất lao động thấp mà chất lượng và khả năng cạnh tranh của
sản phẩm lại không cao. VD: để sản xuất 1kwh điện chạy than các nước khác dùng 1900
kcal, ta tiêu hao 2700 kcal; hiệu suất nhiệt trong các nhà máy nhiệt diện loại này của họ là
35% ta mới đạt 29%; tổn thất điện của họ từ 12-15%, của ta là 22%
+ Chưa hình thành các ngành công nghiệp mũi nhọn. Trong giai đoạn 1991-1995,
hầu hết các ngành công nghiệp đều có mức tăng trưởng khá, đặc biệt là công nghiệp quốc
doanh chiếm 70% giá trị sản lượng công nghiệp. Song trên thực tế, chúng ta vẫn chưa xác
định được các ngành công nghiệp mũi nhọn cần tập trung đầu tư, phát triển, góp phần đẩy
nhanh quá trình phát triển của đất nước.
+ Mức độ cơ khí hoá thấp, tỷ lệ lao động sử dụng máy móc chiếm 10%, lao động thủ
công chiếm 90%. Lực lượng ngành cơ khí còn nhỏ bé, nhiều năm qua chỉ có khả năng đáp
ứng từ 20-30% nhu cầu trong nước, chủ yếu các loại công cụ máy móc ít phức tạp, chất
lượng không cao.
*Bên cạnh những mặt hạn chế đó chúng ta cũng đã có được những thuận lợi cũng
như những thành công trước mắt: Trong vòng 10 năm, đặc biệt là giai đoạn 1991-1995
ngành công nghiệp của chúng ta đẵ có nhiều cố gắng, đạt được những tiến bộ đáng tự hào
và ngày càng khẳng định vị trí của mình trong sự phát triển kinh tế đất nước. Điều đó thể
hiện ở tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của toàn ngành đạt 13,7%, trong đó công
nghiệp TW đạt 16,13%. Một số ngành có mức tăng tưởng bình quân cao: thép 25,83%, hoá
chất-phân bón 20,1%, dệt may 26,2%, da giầy 22,1%. Ngành cơ khí tuy gặp nhièu khó
khăn cũng đạt mức tăng bình quân 16,3%
Thêm vào đó ở nước ta hiện nay, tình hình KT-XH đã ổn định một buớc rất quan
trọng. Vấn đề lương thực được giải quyết tương đối vững chắc, năng lực cung cấp nguyên
liệu cho công nghiệp chế biến tăng thêm. Một số cơ sở công nghiệp cơ bản và kết cấu hạ
tầng KT-XH đã được xây dựng. Nguồn “chất xám ’’ tăng và công nhân lành nghề tăng.
Công nghiệp quốc doanh đang tiếp tục sắp xếp lại và một số đã đi vào hoạt động có hiệu
quả. Thị trường mở rộng, nền kinh tế đã có những tích luỹ nội bộ. Thu hút vốn đầu tư nước
ngoài.
Trong những năm đầu của quá trình đổi mới, CNH đã mang sắc thái mới, đã có sự
điều chỉnh mục tiêu, nội dung, bước đầu đồng bộ hoá, cụ thể hoá bằng các cơ chế và chính
sách. Do vậy CNH đã được tiến hành phù hợp hơn với hoàn cảnh quốc tế và điều kiện, khả
năng trong nước, các tiềm năng nguồn lực của đất nước, bước đầu được khơi dậy, kinh tế
phát triển thực chất hơn.
1.3- Tính tất yếu CNH-HĐH ở nước ta.
CNH là cả một giai đoạn biến đổi cả về kinh tế -kỹ thuật và kinh tế -xã hội dựa trên
cơ sở thay thế lao độnh thủ công bằng máy móc nhằm mục đích nâng cao hiệu suất lao
động của toàn xã hội. Đó là một giai đoạn phát triển mà mọi quốc gia đều phải trải qua đặc
biệt là đối với các nước đang phát triển như nước ta, muốn từ một nền nông nghiệp lạc hậu
tiến lên thành một nước công nghiệp tiên tiến.
Để đưa đất nước phát triển thì tất nhiên phải xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền
sản xuất lớn hiện đại và có quy mô để tạo ra thế mạnh và sử dụng chúng một cách có hiệu
quả, đồng thời chúng ta cũng cần có một đội ngũ công nhân trí thức và đông đảo. Đó chính
là nền tảng chủ yếu để tạo ra tiềm lực về kinh tế, đất nước trong thời kì quá độ. Do đó
CNH là quá trình mang tính quy luật để tạo cơ sở vật chất cho nền sản xuất lớn hiện đại.
Từ nền sản xuất nhỏ cũ kĩ lạc hậu tiến lên nền sản xuất lớn đòi hỏi phải có sự thay
đổi về trình độ trang bị kĩ thuật. Vậy CNH là cuộc cách mạng về lực lượng sản xuất, tăng
năng suất lao động, tạo ra tiền đề cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao
góp phần vào ổn định, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
Thực hiện CNH-HĐH là ngày càng nâng cao vai trò quản lý của nhà nước trong nền
kinh tế thị trường, đồng thời ngày càng đẩy mạnh và phát huy nhân tố con người, phát huy
những kinh nghiệm, thành tựu KH-KT hiện đại trong sản xuất. CNH-HĐH đã và đang tạo
điều kiện vật chất cho việc củng cố và tăng tiềm lực kinh tế.
Dù một số mô hình chiến lược tỏ ra không thành công thì CNH-HĐH vẫn là “chìa
khoá của sự phát triển ”;gắn với sự tăng trưởng về CNH-HĐH chẳng là cái gì ngoài một
phương tiện manh mẽ để tăng năng suất của con người, qua đó tăng số lượng sản phẩm,
tính đa dạng và cả chất lượng sản phẩm nữa. Các nước phát triển khác hẳn các nước khác
ở chỗ đã CNH-HĐH.
2. Nội dung cơ bản của CNH-HĐH ở Việt Nam.
2.1- CNH-XHCN là quá trình trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho nền kinh tế
cơ khí hoá, nền sản xuất xã hội trên cơ sở áp dụng những thành tựu của cuộc cách mạng
KHKT và chuyển giao công nghệ hiện đại.
Trong điều kiện nước ta hiện nay do nền sản xuất nhỏ lao động thủ công còn rất phổ
biến, tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN thì CNH và cách mạng KHKT
Trước hết sự bùng nổ của cuộc cách mạng KHKT trên thế giới nắm bắt được thời cơ
nàychúng ta lợi dụng các phát minh sáng chế đem ứng dụng vào trong nền sản xuất tạo ra
thế mạnh cho nền sản xuất đáp ứng nhu cầu trong nước và thế giới.
Quá trình CNH cũng nhằm mục đích cơ khí hoá tất cả các ngành kinh tế quốc dân
bao gồm: công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng cơ bản. Cơ khí hoá toàn
bộ các ngành sản xuất, tư liệu sản xuất, nhất là các ngành công nghiệp nặng như khai thác,
luyện kim, chế tạo cơ khí, hoá chất.
Các ngành này đóng vai trò rất to lớn, nó là ngành công nghiệp mũi nhọn chủ chốt
đóng vai trò là tiền đề, là động lực cho sự phát triển kinh tế góp phần tạo ra sản phẩm phục
vụ phần lớn nhu cầu của nhân dân, đồng thời các ngành này cũng thu hút một phần lớn số
lao động, giải quyết công ăn việc làm, tạo đà phát triển một số ngành khác.
Cơ khí hoá các ngành công nghiệp, thực phẩm, nông nghiệp đóng vai trò rất cao vì
khi lao động trong các ngành này được cơ giới hoá càng cao thì năng suất lao động càng
tăng lên, tạo ra nhiều sản phẩm góp phần vào tăng của cải và thu nhập bình quân đầu
người hàng năm.
Việc cơ khí hoá các ngành công nghiệp, nông nghiệp đòi hỏi phải cơ khí hoá tương
ứng đồng bộ các ngành giao thông vận tải, xây dựng cơ bản kết cấu hạ tầng và tất cả các
ngành kinh tế khác. Bảo đảm tính tương ứng và đồng bộ trong việc cơ khí hoá các ngành,
các khâu và là điều kiện cho nền sản xuất xã hội phát triển thuận lợi với tốc độ nhanh,
đồng thời mới phát huy được hiệu quả của quá trình cơ khí hóa.
Quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ khí hoá phải được thực hiện lâu dài
từng bước, có trọng tâm, trọng điểm.
Chủ trương kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những
cơ hội đi tiếp nhận những công nghệ mới hiện đại có thể áp dụng được vào trong tình hình
nước ta phát triển chúng thành mũi nhọn tạo đà phát triển cho các ngành khác trong điều
kiện nước ta hiện nay tiến hành trang bị lại những cơ sở vật chất kỹ thuật và cơ khí hóa
phải dựa vào yêu cầu và khả năng của từng thời kỳ mà lựa chọn.
Tích cực ứng dụng các công nghệ hiện đại, các thành tựu của KHKT trên thế giới vào
quá trình sản xuất làm cho chúng ngày càng hiện đại. Đồng thời cải tiến các trang thiết bị
công nghệ máy móc hiẹn có khai thác tối đa năng lực sản xuất và công nghệ hiện có, tranh
thủ đổi mới để ngày càng nâng cấp và hoàn thiện các công nghệ hiện có. Nâng cao chất
lượng sản phẩmhàng hoá bán ra. Kết hợp chặt chẽ công nghệ truyền thống với công nghệ
hiện đại ưu tiên công nghệ tốn ít vốn, nhanh tạo nhiều việc làm, ưu tiên ứng dụng và phát
triển các công nghệ tiên tiến như công nghệ thông tin, sinh học, chế tạo, gia công vật liệu.
Quan hệ phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu, bảo đảm vừa mở
rộng xây dựng cơ sở mới cần thiết nâng cao và hiện đại hoá các cơ sở hiện có xây dựng
các quy mô mô hình, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ thu hồi vốn nhanh.
Việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật mới, thực hiện cơ khí hoá các ngành của nền
kinh tế quốc dân phải giải quyết vấn đề: xây dựng phải đi đôi với quản lý kết hợp chặt chẽ
tổ chức lại sản xuất với phân công lại lao động trong từng đơn vị kinh tế trên phạm vi toàn
xã hội, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh và cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ
cao đủ khả năng đáp ứng của nền sản xuất hiện đại.
2.2-Hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với tổ chức và phân công lại lao
động xã hội và điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư.
Sự phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật trong tiến trình CNH-HĐH gắn liền một
cách hữu cơ với quá trình phân công lao động xã hội giữa các ngành, các vùng, các thành
phần kinh tế tồn tại và vận động trong một tổng thể nền kinh tế thống nhất. Chúng có cùng
mối liên hệ tất yếu khách quan dưới những hình thức tổ chức sản xuất nhất định, hình
thành cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đất nước ta bước vào thời kỳ CNH và
HĐH thì tất yếu phải đổi mới cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế là tổng thể các cơ cấu ngành
vùng và các thành phần kinh tế.
Trong thời kỳ công nghiệp hoá hiện nay thì việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải bảo
đảm tính hiệu quả của kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn cơ bản, Nhà nước đứng trên phương
diện quản lý vĩ mô nền kinh tế lấy mục tiêu chính là hiệu quả kinh tế, gắn một cách hữu cơ
giữa xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá với phát
triển mô hình kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là phải bảo đảm phù hợp với mục tiêu phát triển của các
vấn đề kinh tế cơ bản cuả một nền kinh tế lựa chọn, nó làm cơ sở cho việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.
Bước vào nền kinh tế thị trường phải luôn lấy hiệu quả kinh tế làm đầu, các doanh
nghiệp các xí nghiệp Nhà nước bước vào thương trương kinh doanh phải xác định cho
mình sản xuất loại hàng hoá nào đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất, số lượng là bao nhiêu,
sản xuất bằng phương thức gìlà thích hợp và sản phẩm làm ra phải đáp ứng được nhu cầu
của người tiêu dùng. Lấy hiệu quả kinh tế làm chuẩn mực cơ bản cho công việc đầu tư
kinh doanh. Các vấn đề trên được thực hiện và phản ánh trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế.
Phải bảo đảm phát huy được sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, Nhà
nước chú trọng vào phát triển các thành phần kinh tế mũi nhọn chủ lực những ngành kinh
tế góp phần vào giải quýt các vấn đề xã hội cùng an ninh quốc phòng bảo đảm những cân
đối lớn của Nhà nước là chỗ dựa cuả Nhà nước.
Nhà nước xây dựng hệ thống kinh tế gồm các thành phần kinh tế và lấy kinh tế quốc
doanh làm chủ lực. Nhưng đồng thời cũng phải quan tâm đúng mức và tạo điều kiện thuận
lợi cho các thành phần kinh tế khác phát triển vì chúng rất cần thiết có khả năng đóng góp
lớn cho sự phát triển của nền kinh tế nhất là ở các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, công
nghiệp nhẹ và dịch vụ
Cơ cấu kinh tế phải chuyển dịch đúng hướng không chỉ có kinh tế quốc doanh, kinh
tế tập thể mà còn phải có kinh tế tư nhân tư bản.
Phải đảm bảo khai thác triệt để khả năng và thế mạnh các vùng kinh tế trong cả nước,
do điều kiện tự nhiên nước ta là nước nhiệt đới gió mùa và nguồn tài nguyên phong phú,
đa dạng, có lao động dồi dào chia làm ba miền mỗi miền có đặc điểm tự nhiên khác nhau
do đó cơ cáu kinh tế phaỉ được thể hiện ở việc khai thác thế mạnh của các vùng kinh tế và
phối hợp trên toàn lãnh thổ đất nước ta. Trong điều kiện hiện nay nguồn vốn có hạn, do đó
cần lựa chọn các vùng kinh tế trọng điểm đầu tư phát triển xây dựng thành các khu công
nghiệp, các đặc khu kinh tế đem lại hiệu quả kinh tế cao, tạo thế mạnh phát triển các vùng
khác.
Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế mới phải phù hợp với khả nâưng cung ứng của nền
kinh tế và sự phát triển cuả các quan hệ hợp tác quốc tế. Nhu cầu tối ưu mà khả năng của
nền kinh tế có thể đáp ứng được cần phải thể hiện đầy đủ trong cơ cấu kinh tế của mỗi
nước, với tình hình nước ta trước mắt phải phát triển tư liệu sản xuất, phát triển các ngành
công nghiệp nhẹ, công nghiệp hàng tiêu dùng, lương thực, thực phẩm, các hàng xuát khẩu,
đồng thời chú ý thoả đáng đến xây dựng một số ngành mũi nhọn, coi trọng các ngành có
khả năng đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật, quan tâm đúng mức đến kết cấu hạ tầng cần
thiết để phát triển nền kinh tế hàng hoá, phát triển các ngành dịch vụ, chú ý đến quan hệ
hợp tác đa phương, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Khai thác khả năng hợp tác quốc tế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chúng
ta phải phát triển mạnh xuất khẩu hàng hoá nông sản phảm, công nghiệp nhẹ nhập từ kỹ
thuật công nghệ mới, công nghệ thích hợp phát triển sản xuất gia công hàng hoá.
Bảo đảm kết hợp chặt chẽ quy mô vừa và nhỏ làm chính giữa ứng dụng khoa học kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến với khai thác và phát huy những kinh nghiệm truyền thống và
công cụ cải tiến.
Đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ tiên tiến đồng thời cải tiến và phát triển các công
nghệ hiện có và phát triển các ngành sản xuất những mặt hàng cổ truyền.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH đòi hỏi phải kết hợp sự phát triển tuần
tự thủ công nửa cơ khí, cơ khí hoá, tự động hoá, điện khí hóa làm cho tỷ trọng hàng hóa
dịch vụ được sản xuất bằng phương pháp công nhệ hiện đại trong các ngành kinh tế quốc
dân tăng, cơ cấu kinh tế mới phải đẩm bảo thực hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa mục tiêu
kinh tế, quốc phòng an ninh và sự ổn định chính trị xã hội, chúng có quan hệ với nhau tạo
điều kiện và tiền đề cho nhau cùng phát triển.
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế mới cũng phải kết hợp chặt chẽ giữa CNH và
HĐH do hiện nay cuộc cách mạng KHKT hiện đại đang đưa tới sự thay đổi tiền đề về chất,
kỹ thuật và công nghệ sản xuất mới. Bởi vậy quá trình CNH ở nước ta khác với CNH ở
nước khác.
Chúng ta không thể thực hiện xong xuôi quá trình CNH với nội dung căn bản là cơ
khí hoá các ngành của nền kinh tế quốc dân rồi mới thực hiện HĐH vả lại khi thực hiện cơ
khí hoá không thể sử dụng máy móc lạc hậu được sản xuất trước đây mà phải sử dụng máy
móc công nghệ tiên tién hiện nay. Do đó CNH trong điều kiện hiện nay bao hàm những
yếu tố của HĐH, CNH phải đi liền với HĐH.
Quá trình xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế thì cần gắn liền với sự phát triển
của công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ với các cơ cấu kinh tế mở để phát huy tính năng
động sáng tạo, tăng cường liên doanh, liên kết hợp tác củng cố giữa các ngành địa phương
trên cơ sở đã phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
3- Những điều kiện kiện cần thiết để thực hiện CNH-HĐH ở nước ta.
3.1-Tạo nguồn vốn.
GNP bình quân tính theo đầu người ở nước ta hiện nay vẫn thuộc nhóm thấp nhất
nhất thế giơí (200 USD/người) và mức tích luỹ mới đạt 8% GNP còn đầu tư so với
GNPchỉ hơn 10%.
Trong khi đó các nhà kinh tế tính toán rằng: yêu cầu tích luỹ đầu tư dể CNH phải đạt
20% GNP. Do vậy việc hình thành một chiến lược tổng thể để tăng tích luỹ đầu tưvà huy
động vốn có ý nghĩa quyết định đối với quá trình CNH-HĐH đất nước. Đặc biệt là vai trò
huy động vốn và đầu tư nhà nước từ ngân sách để vừa kích thích đầu tư trong nước và từ
nước ngoài vừa tạo ra môi trường kinh doanh của các thành phần kinh tế.
3.2- Đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học -kỹ thuật, cong nhân lành nghề và cán bộ sản
xuất kinh doanh.
Sự nghiệp CNH là sự nghiệp cách mạng của toàn thể nhân dân lao động, trong đó lực
lượng cán bộ khoa học-kỹ thuật, quản lý sản xuất kinh doanh và công nhân lành nghề đóng
vai trò đặc biệt quan trọng. Trong quá trình CNH, con người với tư cách là yếu tố chủ thể
của lực lượng sản xuất xã hội đang trở nên có tầm quan trọng vượt bậc với trình độ khoa
học-kỹ thuật ngày càng cao.
Tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia chỉ có thể đạt được tốc độ
cao khi chúng ta giải quyết tốt và thực hiện đồng bộ cả hai nhân tố của quá trình sản xuất
là tư liệu sản xuất hiện đại và con người hiện đại - chủ thể của quá trình sản xuất đó.
Hiện nay khoa học-kỹ thuật-công nghệ ngày càng phát triển, tư liệu sản xuất ngày
càng phức tạp trong khi yếu tố con người ở Việt Nam lai chịu ảnh hưởng lâu ngày của cơ
chế tập chung quan liêu bao cấp. Điều đó tất yếu đòi hỏi phải không ngừng được đào tạo
và đào tạo lại để nâng cao trình độ kĩ năng, kĩ sảo nhằm nắm bắt và sử dụng cho được
thành tựu đó vào quá trình sản xuất, thônh qua đó nhằm phục vụ cho chính cuộc sống của
chúng ta.
3.3- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học-kỹ thuật và ứng dụng công nghệ mới.
Phải đảm bảo cơ sở khoa học cho các quyết định quan trọng của các cấp lãnh đạo
hình thành những ngành mới với kỹ thuật cao.
3.4 - Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
Ngày nay công cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật hiện đại và có xu hướng quốc tế
hoá đời sống kinh tế ngày càng sâu rộng đa dạng, tạo ra mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các nền kinh tế dân tộc. Đồng thời cũng tạo ra khả năng và điều kiện để các
nước tham gia vào phân công hợp tác quốc tế. Nước ta kinh tế phát triển chậm, do đó mở
rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài để tranh thủ vốn, kinh tế, kinh nghiệm tổ chức quản lý
đào tạo cán bộ công nhân thông qua đa phương hoá các quan hệ và hình thức hoạt động
kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
Khai thác và sử dụng khéo léo các nguồn lực bên ngoài để huy động tối đa mọi
nguồn lực bên trong sẽ tạo ra tiền đề cần thiết cũng như cấc điều kiện có liên quan để đẩy
nhanh quá trình CNH-HĐH đất nước.
3.5 - Tăng cường và cải tiến chế độ quản lý kinh tế của nhà nước.
Việc này nhằm tạo môi trường thuận lợi cho quá trình CNH-HĐH nền kinh tế, giữ
vững sự phát triển kinh tế cao, đưa nền kinh tế phát triển đúng hướng. Theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ngày càng nâng cao và phát huy vai trò quản lý kinh tế của nhà nước trong
nền kinh tế thị trường, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước thành công
vững mạnh.
III/ CNH-HĐH-Kinh nghiệm thế giới.
Trước đây nước Anh thực hiện CNH-HĐH đất nước mất hai thế kỉ, Mĩ mất một thế
kỉ, Nhật mất nửa thế kỉ, các nước Nics Đông álà 30 năm, các nứoc ASEAN còn lại 20
năm. những bí quyết nào giúp các nước này rút ngắn thời gian CNH-HĐH như vậy ?
*Các nước ASEAN:
+Thứ nhất, các nước này đã đẩy mạnh chiến lược CNH-HĐH hướng về xuát khẩu.
Kinh tế các nước ASEANbắt đầu khởi sắc từ đầu thập kỉ 70, bằng chiến lược hướng về
xuất khẩu. Các nước ASEAN đã ban hành các chính sách kinh tế có hiệu quả kết hợp tạo
ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, thiết lập được môi trường đầu tư và thương mại quốc tê thông
qua luật thu hút và đầu tư tư nhân trực tiếp nước ngoài cùng các chính sách xuất khẩu. Mặt
khác, các nước ASEAN còn đưa ra các chính sách bảo hiểm, bảo hộ thị trường nội địa,
thực hiện chính sách hai luồng thị trường: Thị trường quốc tế và thị trường nội địa nhằm
phục vụ có hiệu quả xuất khẩu.
+Thứ ha, các nước này cũng đã đa dạng hoá cơ cấu kinh tế gắn liền với những cú sốc
đột biến. Chuỷen dịch cơ cấu thích ứng là một giải pháp tạo nên thành công của quá trình
CNH. Tỉ lệ nông nghiệp chiếm 20% GDP, trong khi đó, tỉ lệ công nghiệp và dịch vụ chiếm
80% GDP. Công nghiệp chế biến xuất khẩu chiếm 65% sản lượng công nghiệp.
Các nước ASEAN còn tập trung đầu tư trong các ngành công nghiệp chế tạo, hoá
chất cơ bản có chính sách ưu tiên trồng cây lương thực và tập trung đầu tư cho các sản
phẩm công nghiệp có khả năng xuất khẩu cao.
+Thứ ba, các nước ASEAN biết gắn liền thu hút vốn và đầu tư nước ngoài với kĩ
thuật công nghệ tiên tiến. Từ thập niên 70, các nước ASEAN đã thu hút một khối lượng
lớn nguồn FDI thông qua các chính sách đầu tư thông thoáng.Các nước ASEAN còn tận
dụng các nguồn vốn tài trợ khác của ngân hàng quốc tế với lãi suất ưu đãi đầu tư trọng
điúm vào các ngành kinh tế hiệu quả nâng cao nghiệp vụ quản lý và kinh ngiệm sản xuất.
Chi phí hàng năm cho khoa học cơ bản và ứng dụng chiếm 5% ngân sách.
+Thứ tư, vai trò vai trò điều tiết của chính phủ thật sự năng động trong đó chính sách
thuế và giao thuế có vị trí quan trọng hàng đầu. Hệ thống thuế ở các nước ASEAN được
diều chỉnh liên tục không chỉ làm chức năng ngân sách cho nhà nước mà còn là công cụ
điều tiết các hoạt động kinh tế, kể cả các công ty liên doanh và các công ty tư bản nước
ngoài. Tỷ lệ vốn trong nước của ASEAN từ 20%năm 1970 lên 36% năm 1980 và 44%năm
1990 so với vốn đầu tư.
*Các nước Nics Đông á:
Các nước này thực hiện quá trình CNH gồm 7 giai đoạn:
+Nhập công nghệ từ nước ngoài, không quan tâm đến tính thích hợp với các điều
kiện trong nước.
+Tổ chức cơ sơ hạ tầng một cách giản đơn để hỗ trợ cho các công nghệ nhập từ nước
ngoài.
+Nhập linh kiện, thiết bị, hạ tầng,nhà máy từ nước ngoài tiến hành lắp ráp trong
nước.
+Mua bằng sáng chế về công nghệ nước ngoài và chế tạo công nghệ trong nước.
+Sử dụng năng lực nghiên cứu và triển khai nhằm tạo lập năng lực nội sinh, thích
nghi công nghệ nhập với hoàn cảnh địa phương. Lúc này quốc gia bắt đầu kiểm soát số
phận công nghệ của mình.
+Sử dụng phát triển mạnh mẽ khả năng nghiên cứu và triển khai quốc gia để đổi mới
công nghệ. Sản xuất công nghẹ cho thị trường nội địa và xây dựng tiềm lực xuất khẩu công
nghệ.
+Phát triển mạnh mẽ năng lực đổi mới công nghệ với nhịp độ liên tục xuất hiện các
sản phẩm mới.
Cũng có thể tóm tắt chiến lược CNH của các nước Nics Đông á như sau:
Bước một, sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thay thế nhập khẩu, trong khi vẫn nhập
khẩu các sản phẩm, các thành phẩm và công nghiệp nặng khác.
Bước hai, xuất khẩu các mặt hàng tiêu dùng và phát triển công nghiệp nặng cần nhiều
vốn nhằn sản xuất các sản phẩm trung gian, thiết bị máy móc.
Bước ba, chuyển giao công nghệ, công nghiệp hàng tiêu dùng cần nhièu lao động,
đẩy mạnh công nghiệp có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao để xuất khẩu.
Theo đánh giá của bộ KH-CN & môi trường thì nuớc ta đang ở giai đoạn 1 và 2.
Song từ những năm 80 trở lại đây, các nước Nics Đông á gặp khó khăn lớn về giá công
nhân cao, lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm công nghiệp sử dụng nhiều lao động đã hết. Vì
vậy các nước này đã và đang đưa những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động sang
các nước giá công nhân thấp. Âu rằng đây cũng là cơ hội để Việt Nam có thể thu hút vốn
đầu tư từ những nước này, làm tiền đề cho quá trình CNH- HĐH đất nước.
IV/ Những biện pháp cơ bản để CNH - HĐH ở nước ta.
1. Giải quyết vấn đề sở hữu:
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng lên xã hội chủ nghĩa của nước ta
phải được dựa trên nền tảng chủ yếu là sở hữu nhà nước và sở hữu hỗn hợp.
Linh hoạt và đa dạng hoá các loại hình tổ chức sản xuất - kinh doanh nhằm nâng cao
hiệu quả kinh tế - xã hội của sự phát triển, đẩy nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ, sử dụng tốt các nguồn lực, tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển.
Khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, chú trọng phát triển các công ty cổ phần, xi
nghiệp liên doanh đưa chúng trở thành các loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh chủ yếu.
Sắp xếp các xí nghiệp quốc doanh theo hướng tinh, đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu
quả và làm cho xí nghiệp quốc doanh có tác dụng như là công cụ quản lý vĩ mô của nhà
nước.
2. Huy động vốn và sử dụng vốn thì sử dụng vốn có hiệu quả.
Vốn là một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuát xã hội. Trong
quá trình CNH - HĐH của chúng ta hiện nay vốn càng có vai trò quan trọng hơn lúc nào
hết, trong đó nguồn vốn trong nước là cơ bản, nguồn vốn. Một số biện pháp chủ yếu là:
- Giải quyết tốt quan hệ phát triển với đầu tư, tiết kiệm và tiêu dùng. Tăng tỉ lệ đầu tư
trong GDP lên tới trên 20% chủ yếu bằng chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần,
tăng nhanh và nhiều phần đầu tư từ tư nhân và từ các doanh nghiệp.
Khơi đọng mọi nguồn vốn trong nước, đồng thời thu hút nhiều vốn đầu tư từ nước
ngoài thông qua các hình thức: liên doanh, hợp tác kinh doanh
-Quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trong tất cả các khâu:Bố trí cơ cấu đầu
tư, cấp phát và cho vay vốn, xây dựng cơ bản, sử dụng vốn và tài sản.
-Nâng cao hiệu quả sử vốn sản xuất -kinh doanh.
-Thực hiện tiêt kiệm, phải coi tiết kiệm là quốc sách trong các hoạt động kinh tế - xã
hội.
3. Thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất và đời
sống.
Mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp cần lựa chọn cho mình phương hướng, nội dung, bước
đĩ, biện pháp ứng dụnh tiến bộ KH-CN vào sản xuất và đời sống cho thích hợp
Phát triển sâu rộng quan hệ liên kết kinh tế giữa khoa học với sản xuát, đào tạo với
nghiên cứu khoa học và sản xuát thong qua các hình thức đa dạng và có hiệu quả.
Tổ chức lại các viện nghiên cứu và các trường đại học theo hướng tập trung và kết
hợp có hiệu quả các nguồn lực, gắn nghiên cứu khoa học với đào tạo.
4. Trên cơ sở quán triệt quan điểm chiến lược con người, cần có hệ thống biện
pháp đồng bộ về phân bố, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng con người.
Sử dụng lao động xã hội phải trên cơ sở phân bố lao động hợp lý giữa các ngành và
các vùng. Muốn sử dụng và phân bố lao động hợp lý, phải đào tạo và bồi dưỡng. Đồng
thời phải đào tạo và bồi dưỡng cũng phải gắn với phân bố sử dụng.
5. Phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế -xã hội của liên kết kinh tế
Đây là sự liên kết giữa các ngành, các lĩnh vực của nền KTQD mà biểu hiện trực tiếp
của nó là liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, các ngành
khác nhau, các lĩnh vực khác nhau dựa trên nguyên tắc tự nguyện cùng có lợi tuân theo
luật pháp nhằm thực hiện quá trình tái sản xuất kinh doanh mở rộng của từng doanh nghiệp
và toàn bộ nền KTQD đạt hiệu quả KT-XH cao hơn.
Thông qua các biện pháp kinh tế, tổ chức sản xuát là chủ yếu để phát huy vai trò của
các doanh nghiệp trong mối liên hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau.
6. Đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao vai trò của nhà nước đối với sự nghiệp CNH
nhanh và có hiệu qủa.
Đảm bảo quyền tự do kinh doanh trong phạm vi pháp luật cho các doanh nghiệp và
hộ kinh tế gia đình.
Phát huy vai trò của quản lý nhà nước trong: Định hướng, điều tiết, tao môi trường,
điều kiện cho sản xuát - kinh doanh, kiểm tra, kiểm soát thông qua sử dụng có hiệu quả và
hiệu lực các cômg cụ và phương pháp quản lý nhà nước như: xây dựng, thực hiện chiến
lược và kế hoạch hoá định hướng, thuế, tiền tệ, tín dụng (thông tin, dự trữ, bộ máy quản lý
nhà nước);cần có chiến lược phát triển kinh tế -xã hội cho cả nước, chiến lược phát triển
cho từng vùng, từng ngành, quy hoạch xây dựng cho từng vùng từng địa phương. Chú ý
các chính sách như: chính sách cơ cấu, chính sách mở cửa và bảo hộ sản xuát trong nước ở
mức cần thiết, đảm bảo nguyên cho sản xuát, bảo vệ môi trường và tài nguyên, lao động,
việc làm, tiền công và bảo hiểm; thuế, tiền tệ tín dụng; chuyển giao công nghệ, khuyến
khích nghiên cứu, ứng dụng KH-KT và công nghiệp vào sản xuất; duy trì, phát triển các
tinh hoa, bản sắc tốt đẹp của dân tộc và đất nước trên các lĩnh vực:văn hoá, nghệ thuật, lối
sống, kinh tế.
Đổi mới một cách căn bản hệ thống bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế. Xoá sự
phân chia nền kinh tế thành kinh tế TW và kinh tế địa phương tách quyền quản lý vói
quyền sử dụng và quyền kinh doanh trong các doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước TW xây
dựng chiến lược quy hoạch phát triển các ngành. Địa phương cùng với nhà nước quản lý
và đảm bảo vấn đề xã hội, môi trường và kết cấu hạ tầng cho các doanh nghiệp hoạt động
sản xuát kinh doanh có hiệu quả.
KếT LUậN
Có thể nói rằng, CNH - HĐH là một vấn đề hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển kinh tế –xã hội trong giai đoạn trước và hiện nay thì càng trở nên không thể
thiếu. Thực tế đã khẳng định rằng: Bất cứ một nước chậm phát triển nào, muốn đạt được
trình độ của một nước phát triển đều phải trải một nấc thang có tính tất yếu lịch sử là CNH
- HĐH.
Lựa chọn mục tiêu CNH - HĐH đúng đắn là một bước cơ bản bảo đảm sự tăng
trưởng được thực hiện đúng hướng. Những khả năng bền vững của quá trình này cho lâu
dài đạt được đến đâu, phụ thuộc vào việc sử dụng chất xám và hệ thống kinh tế một cách
tối ưu nhất. CNH - HĐH ở Việt nam trong thập niên 90 do vậy phải tập trung vào nông
nghiệp, công nghiệp nhẹ, sản xuất hàng tiêu dùng dựa trên cơ sở của sự xây dựng và cải
tạo thích đáng cơ sở hạ tầng cứng và mềm một cách căn bản và lâu dài. Xuất phát từ nhận
thức về vai trò và tầm quan trọng của CNH - HĐH đến sự phát triền kinh tế -xã hội của đất
nước, tôi nhận thấy rằng: yếu tố quyết định thắng lợi CNH - HĐH là yếu tố con người, là
mặt bằng dân trí, là đỉnh cao của trí tuệ; CNH - HĐH là sự nghiệp của toàn xã hội chúng
ta. Vì vậy, chính sách phát triển nguồn nhân lực trong quá trình CNH - HĐH phải được
thực hiện trên ba mặt: giáo dục, đào tạo, sử dụng và tạo việc làm. Chắc hẳn ai cũng biết
một chân lý: "Đầu tư cho người đàn ông, ta được ông bố tốt. Đầu tư cho người đàn bà, ta
được một gia đình tốt. Đầu tư cho một thầy giáo ta được một thế hệ tốt”. Đi đôi với phát
triển giáo dục là phát huy truyền thống văn hoá kết hợp với tinh thần, trí tuệ của cả một
dân tộc với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Đồng thời phát triển công
nghiệp bằng HĐH sâu trong nông nghiệp theo hướng xuất khẩu sản phẩm đã chế biến các
mặt hàng thế mạnh của đất nước.
Đất nước ta đang bước vào những kĩ nguyên mới xoá bỏ nghèo nàn lạc hậu đưa đất
nước đi lên. Cũng chính thời kì này sự CNH - HĐH được đặt lên là vấn đề hàng đầu mà
mỗi chúng ta, những con người Việt Nam đang dầy công vun đắp đẩy nhanh tiến trình
CNH - HĐH đất nước, đưa đất nước bước sang một thời kì mới, một trang sử mới vẻ vang
hơn. Xoá bỏ nghèo nàn lạc hậu, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, xây dựng
cơ sở vật chất hiện đại cho nền kinh tế đó là nhiệm vụ của chúng ta phải thực hiện được,
Mỗi người hãy đóng góp một phần trách nhiệm của mình để xây dựng đất nước đi lên, đẩy
nhanh sự nghiệp CNH - HĐH đất nước, đưa đất nước tiến lên XHCN một cách vững
mạnh.
mục lục
Lời Nói ĐầU 2
Nội DUNG 3
I - Lý luận chung về CNH-HĐH 3
1. Các quan niệm và khái niệm về CNH-HĐH 3
2. Thực chất CNH-HĐH: 4
3. Một số mô hình chiến lược CNH 6
II/ CNH-HĐH ở Việt Nam 8
1. Sự cần thiết phải CNH-HĐH ở Việt Nam. 8
2. Nội dung cơ bản của CNH-HĐH ở Việt Nam. 12
3- Những điều kiện kiện cần thiết để thực hiện CNH-HĐH ở nước ta. 16
III/ CNH-HĐH-Kinh nghiệm thế giới. 18
IV/ Những biện pháp cơ bản để CNH - HĐH ở nước ta. 20
1. Giải quyết vấn đề sở hữu: 20
2. Huy động vốn và sử dụng vốn thì sử dụng vốn có hiệu quả 20
3. Thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất
và đời sống. 21
4. Trên cơ sở quán triệt quan điểm chiến lược con người, cần có hệ thống
biện pháp đồng bộ về phân bố, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng con người. 21
5. Phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế -xã hội của liên kết kinh tế 21
6. Đổi mới cơ chế quản lý và nâng cao vai trò của nhà nước đối với sự nghiệp
CNH nhanh và có hiệu qủa. 21