Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tài liệu LUẬN VĂN: Kinh tế trang trại - quá trình hình thành và thực trạng hiện nay docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.92 KB, 17 trang )








LUẬN VĂN:

Kinh tế trang trại - quá trình hình thành
và thực trạng hiện nay









A-/ Mở đầu


Đôi nét về vai trò nông nghiệp và kinh tế nông thôn, vấn đề phát triển nông nghiệp và
kinh tế nông thôn là một vấn đề hàng đầu trong các nhiệm vụ và giải pháp chính của nước
ta. Trong Nghị quyết bàn về nhiệm vụ năm 1999 - kỳ họp thứ 4 (12.1998) đã xác định:
"Khuyến khích phát triển hình thức trang trại gia đình, hình thức trang trại quy mô lớn để
khai thác có hiệu quả đất trống đồi trọc, đất hoang hoá".
Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi trọng, tạo điều kiện
cho các hình thức kinh tế mới ở nông thôn phát triển, làm nền tảng cho sự phát triển kinh
tế và ổn định đời sống nhân dân.


Vị trí của nông nghiệp và kinh tế nông thôn trong chính sách phát triển kinh tế xã hội
rất quan trọng, nhằm đảm bảo an ninh lương thực góp phần ổn định kinh tế xã hội, giải
quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, phát huy tiềm năng đất đai trong
nông nghiệp ngày càng hiệu quả hơn.
Sau hơn 10 năm đổi mới chính sách kinh tế và thực thi hàng loạt những chính sách,
cơ chế quản lý trong nông nghiệp, kinh tế nông thôn, bộ mặt nông nghiệp, nông thôn đã và
đang có những bước phát triển, giải quyết được cơ bản vấn đề lương thực, đảm bảo nhu
cầu lương thực trong nông nghiệp, cơ sở hạ tầng ở nông thôn đã và đang được nâng cấp
xây mới, việc trồng rừng, bảo vệ rừng, khai thác đánh bắt thuỷ hải sản đã được đầu tư chú
ý đúng mức, các chương trình xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm cho người lao động, vấn
đề định canh định cư đang được triển khai, tạo đà cho nông nghiệp nông thôn phát triển
và đáp ứng nguyện vọng của đông đảo bà con nông dân.
Tuy nhiên, nông nghiệp và kinh tế nông thôn hiện nay ở nước ta đang là một khu vực
có nhiều vấn đề mới phát sinh: về lực lượng sản xuất có những bất cập so với yêu cầu của
nền kinh tế thị trường với mức độ tập trung sản xuất hàng hoá trên quy mô lớn. Nhìn
chung trong nông nghiệp, năng suất lao động còn thấp do trình độ cơ khí hoá công nghệ
còn yếu kém, bình quân đất đai thực tế canh tác ngày càng giảm, ở mức thấp nhất so với
bình quân chung của thế giới, đất đai còn hoang hoá nhiều nền việc sử dụng đất còn chưa
hợp lý, lãng phí. Số lao động trong nông nghiệp nông thôn thiếu việc làm ngày càng gia


tăng. Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp nảy sinh những vấn đề phức tạp vốn đã có trong
nhiều năm qua và có nhiều vấn đề mới như phong trào hợp tác xã dậm chân tại chỗ hay có
thể nói chưa có dấu hiệu phát triển theo mong muốn. Mô hình hợp tác xã mới đang triển
khai còn gặp nhiều trở ngại, nhiều hợp tác xã chưa phát huy vai trò cơ bản của mình là tổ
chức tự nguyện ở ngoại thương.
Vấn đề bức xúc phát sinh trong quan hệ sản xuất nông nghiệp nông thôn hiện nay
chính là vấn đề hạn điền và kinh tế trang trại. Mặc dù những vấn đề này đã có từ những
năm qua, có thể nói là kinh tế trang trại đã xuất hiện cùng với sự đổi mới chủ trương chính
sách kinh tế của Đảng và Nhà nước ta vào những năm đầu thập niên 90.

Đây là sự xuất hiện trở lại của mô hình kinh tế trang trại nhưng đã tạo ra sự phát triển
đột biến trong nông nghiệp, tạo ra được giá trị hàng hoá vượt trội so với kinh tế hộ nông
dân.
Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn về một số vấn đề liên quan đến kinh tế trang
trại ở nước ta hiện nay.
B-/ Kinh tế trang trại - quá trình hình thành
và thực trạng hiện nay.
ở nước ta, từ sau khi có Nghị quyết 10 (Đại hội VI), Nghị quyết V (Đại hội VII) và
đặc biệt là luật đất đai năm 1993, kinh tế trang trại đã phát triển tới hàng vạn trang trại,
hàng chục vạn lao động, tạo ra khối lượng lớn sản phẩm. Kinh tế trang trại là xu thế, là quá
trình đòi hỏi khách quan, dựa trên cơ sở thành tựu của công cuộc đổi mới. Kinh tế là quá
trình chuyển đổi từ kinh tế hộ nông dân tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hoá qui mô lớn.
Bên cạnh đó trang trại là nơi sản xuất hàng hoá với khối lượng lớn, tập trung nhiều đất đai
và có sự thuê mướn nhân công. Thu nhập của kinh tế trang trại cũng có mức lớn hơn mức
bình quân chung của địa phương.
Chưa có một khái niệm cụ thể rõ ràng nào về kinh tế trang trại ở nước ta hiện nay, do
vậy khi nói về kinh tế trang trại là nói về sự nổi bật khác biệt của nó so với kinh tế hộ nông
dân. Nói về kinh tế trang trại như thế nào là đúng, có nhất thiết phải tập trung nhiều ruộng
đất và phải thuê mướn nhân công thì mới được coi là kinh tế trang trại? Theo số liệu từ
cuộc điều tra ở 113 trang trại tại tỉnh Yên Bái: 29% có thuê mướn nhân công, số còn lại chỉ
dựa vào lao động của gia đình và ngày mùa khi thời vụ căng thẳng, có thuê mướn nhân
công đôi chút. (Tuy vậy, đây là số liệu nhỏ lại ở một địa bàn nên chắc chắn chưa đánh giá


hết được sự tổng quát về thuê mưón nhân công của kinh tế trang trại).
Nói về qui mô, không thể không nhắc lại quan điểm của Lênin khi nghiên cứu các
trang trại ở Mỹ: "ấp trại nhỏ tuy vẫn là nhỏ nếu tính theo diện tích, nhưng lại hoá thành lớn
nếu xét theo qui mô sản xuất". Như vậy, nói về quy mô, có thể hiểu đó là quy mô sản xuất
thể hiện bằng thu nhập.
Kinh tế trang trại từ kinh tế hộ đi lên, đó là một cấp độ của kinh tế hộ từ sản xuất tự

cấp tự túc chuyển sang sản xuất hàng hoá - đó là sự chuyển tiếp chứ không phải là một sự
hình thành "mới toanh".
1-/ Khái quát quá trình hình thành hình thức kinh tế trang trại:
Quá trình hình thành hình thức kinh tế trang trại là một bước đi tất yếu của nền sản
xuất hàng hoá. Từ mô hình tập thể hoá với hình thức chủ yếu trong nông nghiệp nông thôn
trước đây là hợp tác xã, sở hữu về tư liệu sản xuất (bao gồm cả đất đai) và quản lý điều
hành hợp tác xã trong sản xuất noong nghiệp tập trung, phân chia sản phẩm phân phối lưu
thông hàng hoá mang tính tập thể hoá, đến sự hình thành và phát triển hình thức mới
trong nông nghiệp là "khoán 100" năm 1981 tiếp đến là sự hình thành hình thức mới
"khoán 10" năm 1988 và Nghị quyết hội nghị lần thứ 6 ban chấp hành TW khoá VI khẳng
định hình thức mới là hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, thực chất đến những năm gần
đây là hình thức kinh tế trang trại đang phát triển ở các tỉnh trung du, miền núi phía Bắc,
Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long. Thực chất của quá trình
hình thành này là quá trình chuyển đổi hay còn gọi là sự điều chỉnh một bước rất cơ bản và
quan trọng đối với mối quan hệ sở hữu trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Theo thống kê ban đầu, ở nước ta hiện có gần 120.000 trang trại, diện tích bình quân
từ 300 ha đến hàng nghìn ha. Chủ trang trại chủ yếu là nông dân. ở Lâm Đồng: 70% chủ
trang trại là nông dân, hơn 20 là cán bộ công nhân viên hoặc đã về hưu,
ở Bình Dương: 60% chủ trang trại là nông dân, còn cán bộ đương chức và hưu trí
chiếm 38,3%.
Số lượng trang trại phân bố không đồng đều. ở tỉnh Yên Bái có gần 10 ngàn trang
trại. ở Bình Dương đã có trên 1.250 trang trại và ở thành phố Hồ Chí Minh có 374 trang
trại trong khu vực các huyện ngoại thành.
Qui mô diện tích của các trang trại không đồng đều phụ thuộc vào ngành nghề


chuyên canh cây trồng vật nuôi. Có những trang trại lấy chăn nuôi làm nghề chính, chỉ có
diện tích từ 1 đến 2 ha. ở các tỉnh miền núi phía Bắc phát triển mạnh loại hình trang trại
trồng rừng. ở Đồng Bằng sông Cửu Long phát triển các trang trại lấy sản xuất lương thực
làm trọng điểm, kết hợp với trồng cây ăn quả, gắn với những điều kiện thiên nhiên hình

thành và phát triển nuôi trồng đánh bắt thuỷ hải sản nên có những trang trại có qui mô lớn
lên tới 1.860 ha. ở Tây Nguyên với chủ trương giao đất, nhất là trồng rừng, thực hiện
chương trình phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, đã giúp cho nhiều trang trại phát triển theo
hướng sản xuất hàng hoá làm mục tiêu.
Nhìn chung, các trang trại đã được đầu tư với một lượng vốn lớn (có trang trại đầu tư
ban đầu lên tới gần 16 tỷ đồng), sử dụng hàng ngàn lao động và cung cấp cho xã hội một
lượng hàng hoá nông phẩm lớn góp phần đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu.
Một số điều kiện hình thành hình thức kinh tế trang trại:
(1) Trang trại được đầu tư một lượng vốn lớn đáp ứng yêu cầu mở rộng sản xuất hàng
hoá và tạo ra một lượng hàng hoá dồi dào trên cơ sở hạn điều phù hợp.
(2) Có khả năng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, thực hiện hạch toán kinh tế của
trang trại.
(3) Có khả năng áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cải tạo cây trồng, vật nuôi, xây
dựng và tìm được phương án sử dụng lao động hợp lý, nâng cao chất lượng nông phẩm và
hạ giá thành nông phẩm.
(4) Có khả năng tiếp cận thị trường, đáp ứng yêu cầu của thị trường, từng bước mở
rộng thị trường.
(5) Có đội ngũ lao động, đảm bảo cho sản xuất và phát triển sản xuất trang trại.
2-/ Thực trạng về kinh tế trang trại:
2.1. Các loại hình kinh tế trang trại hiện nay:
Thứ nhất: Trang trại gia đình là loại phổ biến nhất hiện nay. ở đây, trang trại độc lập sản
xuất kinh doanh do chính người chủ hộ hoặc một thành viên trong gia đình ddứng ra quản lý.
Trang trại gia đình dựa vào lao động trong gia đình là chủ yếu, ngày mùa có thể thuê thêm nhân
công ở ngoài vào lúc thời vụ căng thẳng.


Loại thứ hai: Bên cạnh các trang trại gia đình còn có một loại hình trang trại quy mô
lớn hơn, thuê mướn nhiều nhân công hơn. Diện tích từ 2 đến 10 ha thuê từ 3 đến 5 nhân
công thường xuyên, lúc thời vụ có thể thuê 15-20 nhân công thường xuyên. ở riêng tỉnh

Yên Bái có 2 trang trại dưới hình thức tư bản tư nhân: một do người Việt làm chủ và một
trang trại nữa của người nước ngoài đầu tư 100% vốn để sản xuất và chế biến chè công
nghiệp cao.
Trong các loại hình trang trại trên, cần phát triển các trang trại gia đình một cách
rộng rãi, bên cạnh đó có một bộ phận trang trại ngoài lực lượng lao động gia đình có thể
thuê thêm lao động để sản xuất kinh doanh, quy mô diện tích đất canh tác xoay quanh mức
hạn điền ở từng vùng theo quy định của pháp luật. Đối với kinh tế tư bản tư nhân và kinh
tế tư bản nhà nước, "nhà nước khuyến khích tư nhân trong nước và các nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư kinh doanh trong nông nghiệp", nhất là đầu tư vào công nghiệp phục vụ nông
nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng, nhưng cho đến nay hai lĩnh vực này còn ít đối tác đầu
tư.
Một loại hình trang trại nữa là của cán bộ công nhân viên nhà nước. ở Yên Bái, trong
tổng số 113 trang trại có 50 chủ trang trại là cán bộ công nhân viên (14 đang làm việc, 36
đã nghỉ hưu). Bình quân một trang trại có 3,12 ha trong khi bình quân trung bình là 6,13 ha
và 3,5 lao động. Bình quân mỗi trang trại đã đầu tư bằng 1,5 lần mức đầu tư bình quân
chung và thu lợi nhuận cũng nhiều hơn so với mức bình quân chung.
Các trang trại của cán bộ công nhân viên có tác dụng huy động vốn, nhân tài vật lực
của các thành phần phi nông nghiệp, đổi mới nông thôn, tạo việc làm, tăng của cải vật
chất, phủ xanh đất trống đồi núi trọc và cải thiện môi trường sinh thái. Hiện nay nước ta có
hơn 10 triệu ha đất trống đồi núi trọc, nếu không có sức mạnh của kinh tế trang trại, của
các quốc doanh nông lâm nghiệp sự hỗ trợ của các thành phần kinh tế khác và sự chỉ đạo
có hiệu lực của nhà nước thì phủ xanh đất trống đồi núi trọc khó trở thành hiện thực.
Một loại hình trang trại nữa khá phổ biến ở các vùng đô thị, ven đô và những nơi
bình quân ruộng đất thấp ở đồng bằng. Đó là những trang trại "mini" không có đất hoặc ít
đất, quy mô diện tích tuy "mini" nhưng qui mô sản xuất loại "maxi", kinh doanh thường
chuyên môn hoá như nuôi gà, thỏ, lợn, bò sữa, bò thịt (điển hình là ở thành phố Hồ Chí
Minh).
Các loại hình trang trại trước tiên là các trang trại gia đình đều có nhiều biến đổi dưới



tỏc ng ca kinh t th trng. Chỳng ta th tỡm hiu nhng c im ca trang tri gia
ỡnh c in M cui th k XIX.
- Gia ỡnh hon ton lm ch s hu tt c cỏc t liu sn xut k c t ai.
- Ngi ch trang tri t a ra cỏc quyt nh v k hoch sn xut, mua sm thit
b vt t v t thc hin cỏc quyt nh kinh t.
- Gia ỡnh t lm tt c cỏc cụng vic ng ỏng, ch thuờ mn ngi khỏc khi thi
v cng thng.
- Cỏc thnh viờn trong gia ỡnh sng ngay ti trang tri.
thp k 20, nhng c im trờn ó cú s chuyn bin ln M v cỏc nc
Phng Tõy: M cú khụng ớt trang tri m ngi ch khụng sng ngay ti trang tri m
thuờ ngi qun lý, nhiu trang tri cũn thuờ cỏc t liu sn xut ch yu, gia ỡnh khụng
lm hoc ch lm mt phn cỏc cụng vic ng ỏng cũn phn ln u thuờ nhõn cụng, 47%
trang tri hot ng ch yu ngoi lnh vc nụng nghip.
Nh vy, nc ta hin nay, cú 4 loi hỡnh kinh t trang tri, ú l: kinh t trang tri
gia ỡnh, kinh t trang tri ca cỏn b cụng nhõn viờn nh nc, kinh t trang tri mini
vựng ven ụ, kinh t trang tri di hỡnh thc t bn t nhõn - trong ú kinh t trang tri
gia ỡnh l ph bin.
Xột theo c cu loi hỡnh trang tri, chia ra lm 6 loi hỡnh ch yu:
Trng cõy hng nm, chim 19,3%; trng cõy lõu nm: 57%; chn nuụi: 0,5%; lõm
nghip:10,7%, nuụi trng thu sn: 6,1%, nụng lõm thu sn kt hp: 6,4%.
C cu loi hỡnh kinh t trang tri (%)
Chăn nuôi
0.5%
Lâm nghiệp
10.7%
Trồng cây hàng năm
19.3%
Nông lâm, thuỷ sản kết
hợ p
6.4%

Nuôi trồng hải sản
6.1%
Trồng cây lâu năm
57.0%


Theo: thời báo kinh tế Việt Nam: số 10, ngày 3-2-1999.


2.2. Những mặt đạt được của kinh tế trang trại:
Có thể nói, kinh tế trang trại là một bước phát triển cao của kinh tế hộ gia đình, mặt
đạt được thì nhiều, song chung qui lại, thấy rõ nét ở hai mặt lớn sau:
Thứ nhất: kinh tế trang trại sản xuất với qui mô lớn.
Qui mô sản xuất lớn của kinh tế trang trại được thể hiện ở cả mặt: vốn, lao động và
ruộng đất.
Về mặt ruộng đất: quy mô từ 4,7 ha/trang trại đến 9,4 ha/trang trại, có biệt có trang
trại >100 ha.
Về lao động: một trang trại năm 1998 có 12 lao động, trong đó 10 lao động thuê và 2
lao động của gia đình.
Về mặt vốn: trung bình một trang trại đầu tư 97,7 triệu đồng vốn trong 1 năm, trong
đó 87,4% vốn là tự có, 7% vốn vay ngân hàng và 5,6% là vốn vay từ các nguồn khác.
Một số trang trại đã đầu tư vốn để mua sắm máy móc, thiết bị phục vụ và chế biến
nông, lâm, thuỷ sản. Đến nay bình quân 1.000 trang trại có 3 máy kéo lớn, 3 máy kéo nhỏ,
hơn 8 máy phát điện, 3 ô tô tải, 9 tàu thuyền đánh cá, 27 máy bơm nước,
Mức độ mua sắm và trang bị máy móc thiết bị của các trang trại còn thấp so với quy
mô và tích chất sản xuất hàng hoá, nhưng cao hơn nhiều so với mức trung bình hộ nông
dân trên cùng địa bàn và cùng loại ngành nghề lại có xu hướng tăng nhanh (20%/năm).
Thứ hai: Hiệu quả kinh tế rõ nét:
Trang trại lấy sản xuất hàng hoá làm hướng chính, tỉ suất hàng hoá cao và thu nhập
vượt trội hơn so với kinh tế hộ.

Tổng thu bình quân một trang trại năm 1997 là 31 triệu đồng/năm, giá trị sản phẩm
hàng hoá đã bán là 41,5 triệu đồng.
Thu nhập vượt trội so với hộ nông dân và ngày càng tăng nhanh, hiệu quả kinh tế rõ
nét, thu nhập thuần tuý: 23 triệu đồng, bình quân 1 nhân khẩu: 4,1 triệu đồng, 1 lao động:
9,3 triệu đồng.
Kết quả và hiệu quả kinh tế - xã hội rõ nét nhất: các chủ trang trại đã biến những vùng
đất hoang, khô cằn hoặc úng ngập quanh năm thành những vùng kinh tế trù phú, mang đậm
tính chất sản xuất hàng hoá quy mô lớn, đầu tư cao, tạo thêm nhiều việc làm, tăng của cải


vật chất cho xã hội, tăng thu nhập và cải thiện đời sống vật chất tinh thần cho các hộ nông
dân trong vùng, trước hết là biến các hộ nông dân bình thường thành các chủ trang trại giàu
có, thu nhập tăng nhanh.
Các trang trại chủ yếu được hình thành trên các vùng đất hoang hoá hoặc khô cằn,
chủ trang trại phải đầu tư vốn và lao động lớn để tạo đất, xây dựng cơ sở hạ tầng và lấy
trồng cây lâu năm, sản xuất nông lâm kết hợp làm hướng chính, nên phần đóng góp của
kinh tế trang trại vào ngân sách nhà nước còn hạn chế.
Bên cạnh lợi ích về kinh tế nhà nước và cộng đồng còn thu được lợi ích về tài nguyên
thiên nhiên, môi trường. Do phần lớn trang trại trồng cây lâu năm, và trồng chăm sóc rừng nên
tốc độ phủ xanh đất trống đồi núi trọc, bãi bồi ven biển nhanh hơn, rừng và đất rừng được bảo
vệ và quản lý tốt hơn. Đóng góp của trang trại về bảo vệ đất đai, tài nguyên rừng, biển và môi
trường là vô giá, rất đáng trân trọng.
Bên cạnh những mặt đạt được thì kinh tế trang trại cũng gặp không ít những khó
khăn cần tháo gỡ.
2.3. Những khó khăn lớn trang trại thường gặp phải:
Những khó khăn lớn mà kinh tế trang trại nước ta hiện nay gặp phải thì có nhiều, bởi
nhiều nguyên nhân khác nhau, song chung quy lại, có ba khó khăn lớn đó là các vấn đề:
quan hệ đất đai, vốn tín dụng trong quá trình hình thành và phát triển và việc tiêu thụ sản
phẩm khi trang trại đã có sản phẩm.
a. Quan hệ đất đai:

Trong nền kinh tế thị trường, đất đai tuy là hàng hoá nhưng là một loại hàng hoá đặc
biệt, có thể mua bán, thuê mướn, đổi chác. Nơi này thì quyền sở hữu gắn liền với quyền sử
dụng, nơi kia thì quyền sử dụng tách khỏi quyền sở hữu, do đó xử lý vấn đề đất đai không
đơn thuần về mặt kinh tế cũng như về mặt pháp lý. Nhưng điều quan trọng là: sở hữu tư
liệu sản xuất trong đó có đất đai không phải là yếu tố chủ yếu quyết định sự hình thành
một trang trại. Không ít trang trại phải đi thuê tư liệu sản xuất nhưng vẫn thu lợi nhuận cao
không kém những trang trại có chủ sở hữu tư liệu sản xuất.
ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước quản lý, nhưng hộ nông dân
được nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp.
Nhờ 5 quyền năng đó nên từ khi Luật đất đai được ban hành (năm 1993) việc chuyển dịch


cơ cấu kinh tế kinh tế và hàng hoá thành các trang trại được tiến hành thuận lợi.
ở huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái phần lớn đất đai đều thuộc quyền sử dụng của các nông
trường và lâm trường quốc doanh. Cuộc điều tra 113 trang trại cho thấy:
- Đất do nhà nước cấp, các nông trường khoán cho công nhân và nông dân chiếm tỷ
lệ 98% với hai phương thức:
+ Huyện cấp trực tiếp cho hộ nông dân, chủ yếu là đất đai của các nông lâm trường,
mỗi hộ được nhận từ 3 đến 10 ha.
+ Các nông lâm trường giao khoán cho một số hộ nông dân trong lâm trường phần
sau khi đã giao cho hộ công nhân.
- Thực hiện sang nhượng đất đai làm kinh tế trang trại chỉ chiếm 1,28%.
- Thuê: 0,08%.
- Tự khai phá: 0,10%.
ở hai tỉnh Bình Dương, Bình Phước, nhiều trang trại mua bán sang nhượng đất đai,
phá rừng lập vường nhiều khi trái phép, đến nay các loại cây trồng đã 2-3 năm tuổi nhưng
vẫn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng chiếm đến 52% diệc tích đất canh tác.
ở các tỉnh khác, tình hình trên cũng diễn ra nhưng ở mức độ ít hơn.
Có thể rút ra kết luận: việc giao đất cần kèm theo việc kiểm tra, kiểm soát có đúng
quy định của pháp luật hay không.

Để tăng cường hiệu lực của luật đất đai, cần có những thể chế bổ sung, chẳng hạn về
mức hạn điền. Đối với diện tích vượt mức hạn điền thì áp dụng chế độ cho thuê phần đất
đã vượt.
b-/ Vốn tín dụng:
Vốn là một yêu cầu bức thiết của các trang trại theo ước tính, để thoả mãn nhu cầu
vay của các trang trại hiện có với mức cho vay tối thiểu 3 triệu đồng cho 1 ha đất cây công
nghiệp, phải có vốn cho vay dài hạn 55 tỷ đồng, nhưng thực tế chỉ đáp ứng được 10% nhu
cầu. Để đổi mới lĩnh vực đầu tư, cần nắm được đặc trưng quan hệ tín dụng của trang trại.
Những năm qua hệ thống Ngân hàng thương mại và Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn chưa có những thể thức tín dụng thích hợp với chu kỳ sinh trưởng của cây trồng
và vật nuôi, vì vậy sắp tới cần đáp ứng yêu cầu của các trang trại là vay trung hạn và dài


hạn, vay đầu tư theo dự án (trồng rừng, cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi gia súc
lớn, ).
Đương nhiên, cần có quá trình chuẩn bị vì hiện nay phần lớn các trang trại chưa đủ
trình độ lập dự án, và bản thân công tác đầu tư theo dự án cũng đang gặp khó khăn.
Cần đa dạng hoá các hình thức huy động vốn cho nông nghiệp và nông thôn không
thể chỉ sử dụng phương thức vay thương mại mà cần có cả phương thức gọi vốn nước
ngoài qua FDI, qua phát hành trái phiếu ở trong nước và ngoài nước cho chương trình dự
án về nông nghiệp để giảm bớt lãi suất đầu vào và có điều kiện hạ thấp lãi suất đầu ra. Các
kênh đầu tư vốn của nhà nước cho nông nghiệp và nông thôn nên theo hướng thươg mại
hoá các nguồn vốn.
c-/ Tiêu thụ sản phẩm:
Nước ta hiện nay mới có khoảng 12 vạn trang trại trong đó một phần đã có sản phẩm
hàng hoá. Những năm tới, số trang trại sẽ lên tới hàng triệu, tiêu thụ sản phẩm lúc bấy giờ
sẽ trở thành một vấn đề lớn của trang trại. Nếu không giải quyết được thì xu hướng trọng
cung sẽ xuất hiện, ảnh hưởng không ít tới tương lai của các trang trại.
Cần mạnh dạn khuyến khích sự phát triển của các loại chợ ở nông thôn, chợ phiên,
chợ sớm, chợ chiều, chợ khu vực, chờ miền núi, chợ đồng bằng, chợ trên sông. Mỗi loại

chợ không chỉ nhằm tiêu thụ sản phẩm mà còn để nắm bắt được thông tin thị trường.
Để hỗ trợ cho việc tiêu thụ sản phẩm, người tiêu nông có một ít sản phẩm hàng hoá
cũng như các trang trại cùng khu vực có thể thành lập tổ chức hợp tác tiêu thụ để đầu tư
chống lại nạn ép giá, ép cấp của tư thương. Hàng ngày trên báo chí, đài phát thanh truyền
hình còn có thông tin giá cả kèm theo đó công tác marketing, các chính sách trợ giá,
khuyến mãi, việc kí kết hợp đồng giữa các công ty với các hợp tác xã và các trang trại làm
cho thông tin luôn luôn thông suốt giữa người bán và người mua thông qua các tổ chức
môi giới, làm như vậy những khó khăn về tiêu thụ sản phẩm sẽ dần dần được khắc phục.
Bên cạnh đó, nhà nước cũng nên đầu tư xây thêm những nhà máy chế biến, và có
những biện pháp mở đường thúc đẩy việc xuất khẩu nông sản trực tiếp ra thị trường nước
ngoài,
c-/ Một số biện pháp khuyến khích phát triển kinh tế trang trại:
Trang trại là một hình thức tổ chức sản xuất cao hơn kinh tế hộ gia đình và chủ yếu


cũng là trang trại gia đình, với những người chủ có vốn tích luỹ nhất định, có kiến thức và
chí làm giàu mãnh liệt, từ lao động bản thân và gia đình là chính, góp phần giải quyết lao
động dư thừa ở nông thôn.
Hình thức kinh tế trang trại ở nước ta vẫn còn là sơ khai, bởi đi kèm với nó là các
ngành nghề chưa phát triển, hệ thống dịch vụ chưa hình thành nhất là còn "bí đầu ra". Khi
hình thức này phát triển một cách toàn diện thì nhu cầu hợp tác đặt ra như nhu cầu tự thân,
bởi mỗi trang trại không thể phát triển vững mạnh nếu không gắn kết với công nghệ,
thương mại và dịch vụ.
Chính vị sự non trẻ này của kinh tế trang trại, mà cần có một số biện pháp, chủ
trương rõ ràng của nhà nước về loại mô hình này. Trong điều kiện hiện nay, để khuyến
khích phát triển hình thức kinh tế trang trại cần tập trung vào một số giải pháp sau:
* Nhà nước tăng cường đầu tư ngân sách để xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn,
nghiên cứu khoa học công nghệ nông nghiệp, thực hiện tốt các chính sách khuyến nông,
khuyến lâm, khuyến ngư ở cơ sở, cần thực hiện tốt và duy trì cánh kéo cơ lợi cho nông
thôn nông dân.

* Trong từng thời kỳ quy định mức hạn điền cho một trang trại theo từng vùng, từng
loại đất phù hợp với khả năng sản xuất tập trung, với một quy mô hợp lý cho việc mở rộng
sản xuất hàng hoá nông sản. Điều chỉnh các chính sách ruộng đất theo hướng làm rõ quyền
và nghĩa vụ của người sử dụng đất và phù hợp với từng vùng lãnh thổ. ở miền núi và Tây
Nguyên trong giai đoạn hiện nay nên nới chính sách hạn điều: đất trồng cây công nghiệp
từ 30 ha đến 50 ha.
* Chính sách phát triển kinh tế vừa phải đảm bảo cho trang trại phát triển, vừa đảm
bảo không để tích tụ đất đai quá lớn dẫn đến bóc lột địa tô, vừa đảm bảo cho người lao
động trong nông nghiệp có đất đai để sản xuất, sinh sống.
* Từng bước hình thành và phát triển các ngành nghề sản xuất, kinh doanh, dịch vụ
trong nông nghiệp nông thôn để giải quyết việc làm và ổn định thu nhập cho người lao
động.
* Cần xây dựng khuôn khổ pháp lý đồng bộ để khuyến khích và đảm bảo an toàn đầu
tư vốn cho sản xuáat nông nghiệp, nhất là đầu tư cho cây công nghiệp, các vùng sản xuất
hàng hoá lớn như: thừa nhận các thành phần kinh tế khác ngoài nông dân, kể cả cán bộ


đảng viên được làm kinh tế trang trại, thủ tục cấp quyền sử dụng đất, quyền được mua bán,
sang nhượng, thừa kế, thế chấp, đối với tài sản đã được đầu tư.
* Xác định mô hình và từng bước hoạch định cơ chế chính sách để nhanh chóng
chuyển dịch cây trồng, vật nuôi, phát huy thế mạnh của từng vùng, từng địa phương, đảm
bảo sự hài hoà trong tổng thể: nâng cao sức cạnh tranhg của hàng hoá nông phẩm trên thị
trường trong và ngoài nước. Đầu tư xây dựng nâng cấp các nhà máy chế biến, bảo quản và
vận chuyển nông phẩm đến nơi tiêu thụ, giảm bớt tới mức thấp nhất tiêu hao lãng phí.
* Khuyến khích các doanh nghiệp quốc doanh có qui mô sản xuất lớn tận dụng ưu
thế của người sản xuất nhỏ, chủ động hợp tác, liên doanh liên kết trong sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm, kể cả vốn đầu tư.
* Mạnh dạn và thường xuyên quan tâm củng cố cải thiện mối quan hệ sản xuất mới
trong nông nghiệp nông thôn, củng cố mô hình hợp tác xã mới, phát huy hình thức hộ gia
đình và mô hình kinh tế liên kết đa thành phần giữa quốc doanh, hợp tác xã và hộ nông

dân, trong đó quốc doanh làm vai trò chủ đạo (mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ, ).
* Tạo điều kiện cho các trang trại vay vốn, phát triển quy mô sản xuất với lãi suất ưu
đãi và thời hạn đảm bảo chu kỳ sản xuất.
* Trợ cấp cho nông dân khai hoang, đào tạo ngành nghề cho người lao động ở nông
thôn để có cơ hội tham gia sản xuất kinh doanh đảm bảo đời sống.
* Hoạch định chính sách đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực một cách tích cực chủ
động cho nông dân, nông thôn mà nòng cốt chủ yếu là đội ngũ cán bộ xã, huyện gồm cả về
quản lý hành chính, kinh tế và kỹ thuật.
* Để hạn chế việc tiêu cực phát sinh từ việc phân hoá xã hội. Nhà nước cần có chính
sách hỗ trợ nông dân không có đất hoặc thiếu đất được lập nghiệp ở các vùng kinh tế mới
hoặc tạo lập nghề mới tại chỗ. Đặc biệt chú ý những hộ chính sách, những hộ có công với
cách mạng (theo khả năng thực có của mình).



c-/ Kết luận


Kinh tế trang trại là bước đột phá quan trọng để phát triển nông thôn, nông
nghiệp, là quá trình chuyển đổi từ kinh tế hộ nông dân tự cấp tự túc sang sản xuất
hàng hoá qui mô lớn. Chỉ khi nào các bài toán về vốn, lao động, khoa học công nghệ
thị trường được nhà nước quan tâm đúng mức hình thành mối quan hệ hợp tác bền
vững, để phát triển kinh tế trang trại phát triển mạnh mẽ, tạo cú kích cần thiết kết
hợp nông nghiệp, công nghiệp và khoa học, kinh tế trang trại mới thực sự tạo nguồn
động lực mạnh, thúc đẩy công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn.
Thay lời kết, xin trích dẫn lời Tổng bí thư Lê Khả Phiêu tại Hội nghị đại biểu
nông dân sản xuất - kinh doanh giỏi:
"Việc xây dựng nông thôn mới chủ yếu dựa vào sức dân, nhưng nhất thiết
không thể thiếu được vai trò to lớn của nhà nước trong việc đầu tư và thông qua các
chủ trương chính sách và cơ chế.

Để đạt được điều đó, vấn đề quan trọng là tiếp tục đổi mới và hoàn thiện chính
sách trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Trong quá trình quốc tế thì nguồn động
lực quan trọng trước hết vẫn là những lợi ích chính đáng của nông dân được bảo vệ
bằng các chính sách đã ban hành, đồng thời tiếp tục hoàn thiện, xây dựng các chính
sách mới. Đó là những quy định của pháp luật về chính sách ruộng đất: chứng nhận
quyền sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài cho hộ nông dân, những chính sách khuyến
khích nông dân làm giàu chính đáng".


Tài liệu tham khảo
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ
VIII.
2. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
3. Nghị quyết số 06 ngày 10/11/1998 của Bộ Chính trị.
4. Nghị định số 51/1999/ND-CP của Chính phủ.
5. Nghị định số 30/1998/ND-CP sửa đổi.
6. Nghị quyết số 03/2000/NQ-CP của Chính phủ.
7. Báo cáo về đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện bảo đảm ổn định xã
hội, phát triển kinh tế bền vững, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước của Ban cán sự Chính phủ ngày 7/10/1998.
8. Giáo trình kinh tế nông nghiệp và quản trị doanh nghiệp nông nghiệp của
Trường ĐH KTQD.
9. Tạp chí kinh tế nông nghiệp số 4/2000.
10. Xu thế phát triển nông nghiệp thế giới và Việt Nam đầu thế kỷ XXI.
11. Kinh tế trang trại gia đình Việt Nam và thế giới của Trần Đức.
12. Nghiên cứu kinh tế số 248. Tháng 1/1999
13. Thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kỳ CNH -
HĐH ở Việt Nam - GS.TS Nguyễn Đình Hưng chủ biên.
14. Tạp chí nông thôn mới - Số 1, 2 năm 2000




Mục lục

Lời mở đầu 1
A-/ Kinh tế trang trại - quá trình hình thành và thực trạng hiện nay 2
1-/ Khái quát quá trình hình thành hình thức kinh tế trang trại 3
2-/ Thực trạng về kinh tế trang trại 4
2.1. Các loại hình kinh tế trang trại hiện nay: 4
2.2. Những mặt đạt được của kinh tế trang trại: 6
2.3. Những khó khăn lớn trang trại thường gặp phải: 8
a-/ Quan hệ đất đai: 8
b-/ Vốn tín dụng: 9
c-/ Tiêu thụ sản phẩm: 10
2.4. Một số biện pháp khuyến khích phát triển
kinh tế trang trại: 10

B-/ Kết luận 13
Tài liệu tham khảo 14


×