Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tài liệu LUẬN VĂN: Quản lý nhà nước vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (311.02 KB, 19 trang )

LUẬN VĂN:

Quản lý nhà nước vừa đảm bảo
định hướng xã hội chủ nghĩa


Lời nói đầu

Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, đất nước ta đã vượt qua một giai
đoạn thử thách gay go. Trong những hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn, nhân dân ta khơng
những đứng vững mà còn vươn lên, đạt những thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. Để có được
những kết quả đó khơng thể khơng kể đến vai trị kinh tế hết sức quan trọng của nhà nước trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực tế đã chứng minh điều
khẳng định trên là hoàn toàn đúng đắn. Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, tình trạng
đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn
định, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân hàng năm thời kỳ 1991-1995 đạt
8,2%, lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7% năm 1986 xuống còn 67,1% năm 1991; 12,7% năm 1995.
Lương thực khơng những đủ ăn mà cịn xuất khẩu được mỗi năm khoảng 2 triệu tấn gạo. Đời
sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận nhân dân được cải thiện. Lòng tin của quần chúng nhân
dân với Đảng được củng cố. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cịn nhiều vấn đề tồn đọng và yếu kém
cần giải quyết: nền kinh tế của đát nước còn nghèo và chậm phát triển, tình hình xã hội cịn nhiều
tiêu cực, quản lý nhà nước cịn nhiều thiếu sót, cồng kềnh.
Tuy vậy, đến nay, thế và lực của nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Đó là do chúng
ta đã vận dụng cơ chế thị trường một cách đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Từ nền kinh tế kế hoạch hố tập trung mang nặng tính hiện
vật, tự cung tự cấp, vận hành theo cơ chế chỉ huy chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, nền kinh tế nước ta
phải trải qua thời kỳ quá độ - đó là thời kỳ cơ chế cũ chưa hoàn toàn mất đi, cơ chế mới chưa
thực sự ra đời. Vì vậy chúng ta phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách. Trong điều
kiện đó, vai trị kinh tế của nhà nước cực kỳ quan trọng. Lý do để nhà nước can thiệp vào nền
kinh tế là do có những trục trặc của thị trường. Đôi khi thị trường không phân bố các nguồn


lực một cách có hiệu quả và sự can thiệp của chính phủ có thể cải thiện các hoạt động kinh tế.
Chính phủ đặt ra các qui định về luật pháp và trong việc đảm bảo tài chính cho mình, thơng
qua đánh thuế và vay mượn, chính phủ gây một ảnh hưởng rất lớn tới giá cả, lãi xuất và sản
xuất. Tuy nhiên, chính phủ cũng khơng thể kiểm sốt nền kinh tế một cách hồn hảo, nhưng
chính phủ có thể kiểm sốt phần lớn tổng chi và lượng tiền trong nền kinh tế do đó chính phủ


sẽ có những quyết định đúng đắn vào những thời điểm cần thiết. Với nước ta, quản lý nhà
nước vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa thiết lập kỷ cương trong các hoạt động
kinh tế, là điều kiện của ổn định và phát triển kinh tế.


nội dung

1.

Tính tất yếu khách quan vai trị quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế
Để tìm hiểu vai trị của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt

Nam hiện nay trước hết chúng ta phảI hiểu kinh tế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế
hàng hoá do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó. Cơ chế đó giải quyết ba vấn
đề cơ bản của tổ chức kinh tế là gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế đó có tác dụng giải phóng
mọi năng lực của xã hội, huy động mọi tiềm năng của ngành và thanh phần kinh tế. Cơ chế
thị trường đã có tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó khơng những
khơng là nhân tố đối lập mà còn là nhân tố khách quan cần thiết cho xây dựng và phát triển đất
nước theo con đường XHCN.
Tuy vậy bản thân nền kinh tế thị trường cũngchứa đựng những khuyết tật. Có những
mục tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trường có hoạt động tốt cũng khơng thể đạt được. Sự tác
động của cơ chế thị trường sẽ dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc, số người thất
nghiệp ngày càng tăng, công bằng xã hội không được đảm bảo. . . như vậy bản thân nền kinh

tế thị trường không thể giải quyết đồng thời mục tiêu phát triển và muc tiêu công bằng xã hội.
Vì vậy tất cả các nước mà nền kinh tế do cơ chế thị trường điều tiết đều có sự can thiệp
của nhà nước vào nền kinh tế nhằm phát huy những ưu điểm và khắc phục những khuyết điểm
của nó, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định, hiệu quả và đạt được sự công bằng xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường nhà nước thực hiện sự định hướng, tạo lập các cân đối vĩ mô,
ngăn nhừa những đột biến xấu, điều chỉnh thông qua các cơng cụ chính sách pháp luật đảm
bảo về mặt pháp lý sự bình đẳng đối vơí mọi thành phần kinh tế. Vì vậy sự tác động của nhà
nước- một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan vào nền kinh
tế là một tất yếu của sự phát triển kinh tế và xã hội. Thiếu sự can thiệp của nhà nước vào nền
kinh tế để cho nền kinh tế thị trường tự do hoạt động thì việc điều hành nền kinh tế nước ta sẽ
khơng có hiệu quả.


2.

Nền kinh tế thị trường XHCN và vai trò kinh tế của nhà nước ở Việt Nam.
Sự cần thiết phải chuyển sang nền kinh tế hàng háo nhiều thành phần theo định hướng

XH vận động theo cơ chế thị trường.
Kinh tế hàng hoá ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế - xã hội gắn liền với hai
điều kiện tiền đề là: sự phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư
liệu sản xuất và sản phẩm lao động. ở nước ta, những điều kiện chung của kinh tế hàng hố
vẫn cịn nên sự tồn tại của kinh tế hàng hố là một tất yếu khách quan.
Thứ nhất, phân cơng lao động xã hội chẳng những không mất đi, trái lạI càng phát triển
cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Sự chun mơn hố và hợp tác hố lao động đã vượt ra khỏi
phạm vi quốc gia trở thành phân công lao động trên phạm vi quốc tế.
Thứ hai, nền kinh tế nước ta đang tồn tạI nhiều thành phần kinh tế. Hơn nữa, trình độ
xã hội hố giữa các ngành, các đơn vị sản xuất kinh tế trong cùng một thành phần kinh tế vẫn
chưa đều nhau. Do vậy, việc hạch toán kinh doanh, phân phối và trao đổi sản phẩm lao động
tát yếu phải thơng qua hình thá hàng hoá- tiền tệ để thực hiện các mối quan hệ kinh tế, đảm

bảo lợi ích kinh tế giữa các tổ chức kinh tế với người lao động và giữa các tổ chức kinh tế với
nhau.
Như vậy, nếu xuất phát từ ý muốn chủ quan thu hẹp hay cản trở q triịnh tiền tệ hố
các mối quan hệ kinh tế tring giai đoạn lịch sử hiện nay bằng các hình thức khác nhau (sớm
xoá bỏ hay cản trở sự phát triển các thành phần kinh tế, quản lý bằng kế hoạch tập chung quan
liêu bao cấp. . . ) sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta. Do đó chúng ta cần phải
chủ động có chính sách phù hợp để khuyến khích sự phát triển của các thanh phần kinh tế một
cách đúng đắn, đúng hướng theo nguyên tắc tự nhiên của kinh tế: có nhu cầu xã hội thì tất yếu
có người đáp ứng nhu cầu đó và trong cuộc cạnh tranh vươn tới thoả mãn tốt hơn và tốt nhất
nhu cầu xã hội thì người nđó sẽ tồn tại và phát triển.
Nền kinh tế thị trường theo cơ chế hàng hố có ưu điểm là thúc đẩy q trình xã hội hố
nhanh chóng làm cho sự phân công lao động xã hội, chuyên môn hố sản xuất ngày càng sâu
sắc, hình thành các mối quan hệ kinh tế và phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp và người
sản xuất tạo tiền đề cho sự hợp tác ngày càng chặt chẽ. Nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Dưới tác động của các quy luật kinh tế buộc người sản xuất phải nâng cao năng xuất lao


động, cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao năng xuất lao động, cải tiến chất lượng và hình
thức mẫu mã hàng hoá cho phù hợp với nhu cầu xã hội, tìm mọi cách đưa ra thị trường những
loại hàng hố mới thích hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
Mặt khác, nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường cịn thúc đẩy q trình
tích tụ tập trung sản xuất, mở rộng giao lưu kinh tế giữa các nước và hội nhập vào nền kinh tế
thế giới. Nó giải phóng các mối quan hệ kinh tế ra khỏi sự chói buộc của nền sản xuất tạo
những điều kiện cần thiết cho việc phát triển sản xuất ở trình độ cao.
Vì vậy, ở Việt Nam kinh tế hàng hoá mà đảng ta chủ trương xây dựng và phát triển trong
thời kỳ quá độ lên CNXH là :”nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa vận động theo cơ chế thị trường có sự quản ký của nhà nước”(văn kiện ĐạI hội
VII).
Từ thực tiễn hơn 15 năm đổi mới, ĐạI hội VIII của Đảng đã khẳng định rằng cơ chế thị
trường đã phát huy tác dụng tích cực, to lớn đến sự phát triển kinh tế -xã hội.

* Đặc trưng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Một là, từng bước thực hiện những quá trình mang tính quy luật của bước chuyển từ nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mơ của nhà nước
với tự do hoá giá cả, tự do hoá thương mại là khâu trung tâm đột phá từng bước tiến tới cơ chế
thị trường đích thực. Đặc điểm này phát huy vai trị điều tiết của thị trường, hình thành thị
trường cạnh tranh, làm cho hàng hố được lưu thơng thơng suốt, cung cầu được cân đối, thốt
khỏi tình trạng khủng hoảngthiếu, giá cả ổn định dần, lạm phát được ngăn chặn. Góp phần
giảI phóng lực lượng sản xuất. Phát huy tính tự chủ, sáng tạo của hộ kinh tế và chủ doanh
nghiệp. Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước cũng được giảI phóng khỏi các chỉ tiêu pháp
lệnh để thích ứng theo nhu cầu của thị trường. Cơ chế này cũng thúc đẩy việc phải sử lý
những vấn đề mấu chốt làm đảo lộn cả hệ thống tư duy và quan điểm kinh tế cũ như vấn đề sở
hưu, thừa nhận và đánh giá cao những thành tựu của kinh tế nhiều thành phần, chuyển ntừ
phân biệt đối xử với kinh tế tư nhân sang đối xử bình bẳng, đồng thời cũng xác định những
biện pháp nâng cao hiệu quả khu vực kinh tế tư doanh cho phù hợp với thực tiễn của nước ta.
Cơ chế tài chính tiền tệ, giá cả, tỷ giá được hình thành thơng qua thị trường đã tạo ra bước
ngoặt trong cơ cấu kinh tế.


Hai là, cơ chế thị trường còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát, rối loạn. Đó là
sản phẩm của nền kinh tế sản xuất nhỏ, bộ máy quản lý của nhà nước cịn yếu kém, tình trạng
quan liêu thiếu hiểu biết, thậm chí trì trệ, bảo thủ trước bước ngoặt chuyển đổi kinh tế. Thể
chế thị trường chưa toạ mơi trường ổn địnhvà an tồn cho sản xuất kinh doanh đặc biệt là
những yếu kém trong thể chế tàI chính tiền tệ, tín dụng đang là lực cản của q trình chuyển
đổi. Cơ chế thị trường cịn thiêu đồng bộ. Sự chuyển biến khá mạnh mẽ trên thị trường hàng
hố và dịch vụ trong khi đó lại có sự lạc hậu khá lớn trong thị trường các yếu tố sản xuất. Thị
trường chấp nhận tự do kinh doanh theo luật pháp nhưng lại chưa giải quyết những tiền đề cơ
bản cho sự tự do về sở hữu. Đối với doanh nghiệp nhà nước chưa tính được quyền sở hữu với
quyền sử dụng về vốn,tài sản, lao độngvà sự hình thành và vận động của nền kinh tế thị trường
còn mang nhiều yếu tố tự phát, cơ chế vận hành thô sơ tạo điều kiện cho kiểu làm ăn bất
chính, cơ chế quản ký đổi mới thiếu triệt để, làm phát sinh, phát triển nhiều tệ nạn tham

nhũng, các mặt tiêu cực của thị trường.
Ba là, cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế định hướng
XHCN là vấn đề hoàn toàn mới mẻ, chưa có mơ hình vạch sẵn. do vậy khơng thể ngay từ đầu
hình dung ra tồn bộ các chi tiết của mơ hình thị trường, cũng khơng vạch ngay ra một lịch
trình cứng nhắc của bước chuyển đổi mà phải thực hiện cơ chế thị trường vừa tổng kết để tiếp
tục hoàn thiện. Việc chuyển từng bước sang cơ chế thị trường cho phù hợp với hoàn cảnh lịch
sử và các điều kiện, chính trị, kinh tế- xã hội nước ta. Xuất phát từ đặc điểm kinh tế trong
nước và quan điểm, quan hệ kinh tế với bên ngoài, chúng ta đã áp dụng cơ chế thị trường tưng
bước. Đến nay chúng ta đã có những yếu tố cơ bản của cơ chế thị trường dù chưa đầy đủ và
hoàn thiện. Điều quan trọng là cơ chế thị trường đựơc nhân dân đồng tình, ủng hộ và đã phát
huy tác dụng trong mọi mặt của đời sống kinh tế.
Bốn là, chúng ta chủ trương chuyển sang cơ chế thị trường trên cơ sở ổn định chính trị,
lấy ổn định chính trị làm tiền đề và điều kiện cho cải cách kinh tế, mặt khác cũng nhận thức rõ
phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính trên cơ sở đổi mới quản lý của nhà nước,
nâng cao chất lượng, hiệu quả cho phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường tiếp tục ổn dịnh
chính trị đưa cải cách tiến lên những bước phát triển mới. Ngay từ đầu, chúng ta đã khẳng
định định hướng xã hội chủ nghĩa là khơng thay đổi, tuy nhiên đã có những nhận thức mới về
CNXH, khẳng định CNXH có thể sử dụng các công cụ phổ biến mà chủ nghĩa tư bản đã từng
sử dụng như: thị trường, quy luật giá trị, quan hệ hàng tiền. . . Xuất phát từ thực tiễn thị


trường nước ta đang trong bước hình thành và phát triển còn những yếu tố mất ổn định nền
kinh tế nhiều thành phần nên đã không chủ trương tư nhân hoá tràn lan mà trái lại chủ trương
phát triển kinh tế nhiều thành phần và xây dựng kinh tế quốc doanh thành thực lực làm chỗ
dựa của nhà nước ở các khâu và lĩnh vực then chốt để ổn định và định hướng thị trường.
Mặc dù cịn nhiều thiếu sót và yếu kém nhất là trong điều hành kinh tế vĩ mơ và gần đây
có nan tham nhũng khá phổ biến trong bộ máy quản lý nhà nước các cấp nhưng nhìn chung
tính ổn định và hoạt đơng theo đường lối đổi mới tiến tới một nhà nước pháp quyền là nhân tố
quan trọng đảm bảo cho thành công của công cuộc cảI cách. Đảng ta cũng khẳng định vai trị
của nhà nước trong việc đảm bảo các chính sách xã hội, xử lý hàI hoà giữa tăng trưởng kinh tế

và cân bằng, ổn định giữa phát triển kinh tế với thực hiện các chính sách xã hội và cơng bằng
xã hội.
Cơ chế thị trường hướng tới của chúng ta là:" Thể chế kinh tế mà trong đó thị trường và
các quan hệ thị trương ngày càng đóng vai trị quyết định đôi với sản xuất kinh doanh và phân
phối tài nguyên quốc gia dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước, nền kinh tế nhiều thành phần
thông qua cạnh tranh,liên kết, hợp tác có trình độ xã hội hoá cao, thúc đẩy sự vận hành theo
các quy luật kinh tế khách quan và các chính sách kinh tế phù hợp đảm bảo thị trường thống
nhất, mở rộng phục vụ các mục tiêu tăng trưởng hiệu quả, cân bằng và ổn định, nhà nước
dùng luật pháp, kế hoạch định hướng và chính sách kinh tế dẫn dắt thị trường phát triển lành
mạnh, dùng chính sách phân phối và điều tiết để đảm bảo phúc lợi cho toàn đân và thực hiện
công bằng xã hội ( cơ chế thị trường- vat trò kinh tế của nhà nước- NXB Thống kê1994). Đó là thể chế kinh tế của những chủ thể tự chủ, tự do kinh doanh theo pháp luật,
các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa liên kết hợp tác và phát triển đạt trình độ hố
thương mại và canh tranh tự điều chỉnh sản xuất kinh doanh và cung cầu hàng hoá.
Trong điều hành các hoạt động kinh tế cần hạn chế tối đa những mệnh lệnh hành chính
để cho các hoạt động thị trường được diễn ra chủ yếu dựa trên sự hướng dẫn của các quy
luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh đảm bảo nguyên tắc vận hành chủ yếu
của nền kinh tế là nguyên tắc thị trường. Không xem các quan hệ thị trường hoạt động
theo các quy luật khách quan một cách độc lập hoàn toàn, biệt lập với kế hoạch định
hướng và các chính sách kinh tế của nhà nước. Mọi yếu tố sản xuất phảI đi vào thị
trường. Đây là đặc trưng chủ yếu của kinh tế thị trường, đối với nước ta đây còn là điiều
kiện cơ bản để nền kinh tế thị trường vận hành bình thường.


Trên đây là những đặc trưng cơ bản nhất của kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở nước ta hiện tạI và trong tương lai. Những đặc trưng này kích thích hoạt động của các
chủ thể kinh tế, tạo đIũu kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ làm cho nền kinh
tế phát triển năng động, huy động được nguồn lực xã hội. Cạnh tranh buộc những người
sản xuất giảm hao phí lao động cá biệt xuống mức thấp nhất bằng cách áp dụng kỹ thuật
và công nghệ mới vào sản xuất, thúc đẩy lực lơựng ản xuất phát triển, nâng cao năng
xuất lao động, chất lượng hàng hoá. Hơn nữa cơ chế thị trường mềm dẻo hơn. Nhà nước

có khả năng thích nghi cao hơn khi những điều kiện kinh tế thay đổi, thích ứng kịp thời
giữa sản xuất với nhu cầu xã hội. Bên cạnh đó cơ chế thị trường cũng có nhiều khuyết
tật. Nó chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm sốt của cạnh tranh hồn hảo. Các doanh
nghiệp có thể vì lợi nhuận mà lạm dụng tài nguyên của xã hội gây ô nhiễm môi trường. Sự
tác động của cơ chế thị trường dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo, lạm phát, bùng nổ dân số, thất
nghiệp gia tăng.
* Vai trò kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Trong lĩnh vực kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ sở hữu đối với tài sản quốc gia.
Các doanh nghiệp quốc doanh nhà nước giao quyền sử dụng lâu dài các tư liệu sản xuất
cho tập thể lao động cá nhân theo chính sách và pháp luật. Các nguồn vốn ngân sách dự
chữ quốc gia, các tổ chức kinh tế quan trọng ở phần vĩ mô thuộc phần quản lý của nhà
nước. Như vậy nhà nước vừa nắm quyền lực về chính trị vừa nắm quyền lực về kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước sử dụng quyền lực kinh tế - chính trị của mình để
tự do hoá giá cả, tự do hoá thương mại nền kinh tế. Xố bỏ tình trạng độc quyền và xây
dựng các đạo luật chống độc quyền bằng cách tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các
doanh nghiệp. Nhà nước là người đảm nhiệm và duy trì vai trị thiết lập và duy trì vai trị
quyền sở hữa các quen lực kinh tế theo hướng xác định rõ quyền sở hữu đích thực của
cơng dân, doanh nghiệp, tập thể, tư nhân và nhà nước. Nhà nước có nhiệm vụ phát huy ưu
đIúm và khắc phục những khuyết điểm của cơ chế thị trường.
Với nước ta, quản lý nhà nước vừa đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa vừa là
điều kiên ổn định để phát triển kinh tế- xã hội. Điều đó địi hỏi nhà nước ta phải đổi mới
hơn nữa, nhận thức rõ vai trị của mình trong điều kiện mới, đặc biệt thay đổi chất lượng,


tác phong chỉ huy mệnh lệnh sang hỗ trợ, tạo điều kiện cho thị trường phát triển, đưa bộ
máy thoát khỏi tình trạng"cửa quan” và nạn tham nhũng.
Điều đó nói lên tầm quan trọng của nhà nước XHCN trong hoạt động thị trường ở
nước ta.
3.


Mục tiêu, chức năng và công cụ quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước.
* Mục tiêu quản lý kinh tế của nhà nước là nhằm ổn định và phát triển kinh tế, phát huy

ưu thế, khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường, can thiệp, điều tiết nền kinh tế thị trường
để ổn định và tăng trưởng giúp cho nền kinh tế thị trường đi theo đúng định hướng xã hội chủ
nghĩa- con đường mà Đảng và Nhà nước ta đã sáng suốt lựa chọn.
* Chức năng quản lý kinh tế của nhà nước.
Vai trò của nhà nước ta trong quản lý kinh tế thị trường rất quan trọng. Vai trị đó được
thực hiện qua các chức năng kinh tế của nó.
Thứ nhất, nhà nứơc phải đảm bảo ổn định chính tri, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật
pháp để tạo ra những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế, nhà nước tạo ra hành lang luật
pháp cho hoạt độngkinh tế bằng cách đặt ra những điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và
hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ luật pháp mà mà nước thiết lập vó tác dụng sâu
sắc tới các hành vi kinh tế của con người và cả bản thân chính phủ.
Thứ hai, là điều tiết kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển ổn định.
Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi bị chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế mà đều
phảI trải qua các chu kỳ kinh doanh, tức là các giao động lên xuống về mức độ thất ngiệp và
lạm phát. nhà nước cần cố gắng làm dịu những giao động lên xuống chu kỳ kinh doanh thơng
qua chương trình hố kinh tế, chính sách kinh tế và chính sách tiền tệ. Chẳng hạn nhà nước có
thể giảm thiểu trong cơn suy thối để tăng chi tiêu dân chủ nhờ đó sẽ nâng GDP. Ngân hàng
trung ương có thể" nới lỏng tiền tệ”. Vì vậy thơng qua chính sách tài chính và chính sách tiền
tệ, nhà nước cố gắng ổn định nền kinh tế, duy trì nền kinh tế càng sát càng tốt đối với tình
trạng đầy đủ việc làm và lạm phát thấp. Nhà nước khơng thể kiểm sốt nền kinh tế một cách
hồn hảo - đó là điều tất yếu, nếu khơng thì chúng ta khơng phải chứng kiến những suy thoái
với lạm phát.


Thứ ba, là đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các tác động bên ngồi là
một trong những nguyên nhân dẫn đến tính kém hiệu quả của hoạt động thị trường. Các tổ
chức kinh tế đặt lợi nhuận lên hàng đầu, vì thế mà họ có thể lạm dụng tàI nguên xã hội, gây ô

nhiễm môI trường, để lạI những hậu quả nặng nề cho xãhội. Khi đó chính phủ co thể buộc
các doanh nghiệp bồi thường thiẹt hạI do họ gây ra cho môI trường sống của con người. Sự
can thiệp của chính phủ nhằm ngăn chặn những tác động của con người nhằm nâng cao hiệu
quả. Một nguyên nhân khác làm giảm tính hiệu quả là sự tác động của độc quyền. Các tổ
chức độc quyền tìm mọi cách để tăng giá, nhờ đó tăng lợi nhuận. Vì vậy với họ lợi nhuận là
trên hết. Do dó nên họ cố gắng để đạt lợi nhuận cao nhất. Nền kinh tế được thúc đẩy bới cạnh
tranh hoàn hảo sẽ đạt được hiệu quả cao, nhưng cạnh tranh sẽ làm hạn chế khả năng đạt lợi
nhuận độc quyền nên các doanh nghiệp thường cố gắng làm giảm cạnh tranh. Vì vậy nhà
nước có nhiệm vụ rất cơ bản là bảo vệ cạnh tranh và hống độc quyền để nâng cao tính hiệu
quả của hoạt động thị trường.
Cuối cùng, để đảm bảo tính hiệu quả thì nhà nước phải sản xuất ra hàng hố cơng cộng,
đảm bảo xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, thực hiện công bằng xã hội. Chúng ta biết
rằng, cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất để điều tiết nền kinh tế một cách hiệu quả song hoạt
động của cơ chế thị trường khơng tính đến yếu tố nhân đạo và xã hội. không giải quyết được
đồng thời mục tiêu phát triển kinh tế và mục tiêu công bằng tiến bộ xã hội. Việc phân phối và
sử dụng tối ưu các nguồn lực không tự động mang lại một sự phân phối thu nhập tốt nhất. Sự
can thiệp của nhà nước nhằm làm cho thu nhập được phân phối công bằng, bảo vệ các thành
viên của xã hội, chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức sống của các nhóm dân
cư có thu nhập thấp nhất. Điều đó được thực hiện thơng qua chính sách phân phối, bảo hiểm
xã hội và phúc lợi xã hội.
Trên đây là tất cả các chức năng kinh tế của nhà nước. bên cạnh đó, trong điều kiện
chuyển sang nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước ta cịn có các chức năng quản lý vĩ mô:
Thứ nhất, nhà nước tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế như:
đảm bảo sự ổn định về chính trị, xã hội thiết lập khuôn khổ luật pháp thống nhất, có hệ thống
chính sách nhất qn tạo mơi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn có hiệu
quả.


Thứ hai, là định hướng cho sự phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để đưa

nền kinh tế đi đúng hướng, giảm lạm phát, chống khủng hoảng, ngăn ngừa những đột biến xấu
trong nền kinh tế.
Thứ ba, là xây dưng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội tạo nền móng vững chắc cho sự phát
triển kinh tế.
Thứ tư, nhà nước quản lý tài sản công, kiểm kê kiểm soát các hoạt động kinh tế, xã hội,
thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản cơng.
Các bộ các cấp chính quyền khơng can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và tự chủ của
các doanh nghiệp.
Thứ năm, là khắc phục,đẩy lùi các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, phân phối thu
nhập một cách công bằng, tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, tiến bộ và
công bằng xã hội.
Với các chức năng như trên, chúng ta có thể khẳng định rằng việc tham gia của nhà nước
vào quản lý kinh tế là một tất yếu khách quan và hết sức cần thiết.
Hệ thống công cụ quản lý ở nước ta:
Để hoàn thành các chức năng quản lý của mình, nhà nước cần phải có hệ thống cơng cụ
quản lý. Đối với mơ hình kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước chúng ta không thể
nào dùng các cơng cụ quản lý trực tiếp vì thị trường không chựu áp đặt bất cứ một ý đồ nào
không phù hợp với xu hướng vận động của quan hệ cung cầu - giá cả thị trường chỉ có thể
hoạt dộng khi tât cả quan hệ kinh tế được tiền tệ hoá, thương mại hoá và tự do hoá. Mặt khác
khi họ nhận thấy lợi ích của mình, khi đó họ sẽ tợ giác hoạt động mà khơng cần sợ giáo dục,
thuyết phục hay bất cứ một sự cưỡng bức nào. Chính vì vậy mà họ có thể vì lợi ích riêng mà
chà đạp lên lợi ích chung cho nên biện pháp hành chính vẫn rất cần thiết song không phải là sợ
can thiệp thô bạo mà quyền lực hành chính cần phải được thể chế hố thành pháp luật. Hệ
thống cơng cụ quản lý có ba yếu tố cơ bản kế hoạch hoá định hướng, pháp luật và hệ thống
các chính sách,cơng cụ kinh tế.
Trước hết, kế hoạch hố là q trình nhận thức và vận dụng tổng hợp các quy luật khách
quan, trước hết là các quy luật kinh tế trong đó có các quy luật của thị trường để xây dựng và
thực hiện các kế hoạch phát triển kinh tế và xã hội [Giáo trình kinh tế chính trị tập II -



ĐHKTQD] kế hoạch hố là một trong những cơng củtọng yếu thực hiện chính sách kinh tế
của nhà nước hướng đến sự phát triển sản xuất để thoả mãn tốt hơn nhu cầu vật chất và văn
hoá của nhân dân. Nhờ có kế hoạch hố mà chính phủ có thể phối hợp hoạt động của các
doanh nghiệp,các bộ,các nghành, các địa phương và cũng nhờ có hế hoạch mà nhà nước có
thể quản lý sản xuất xã hội, điều chỉnh sản xuất, phân phối và chao đổi của cải vật chất.
Kế hoạch là cơng cụ duy nhất để chính phủ có thể chuyển tải nội dung, đường lối, chính
sách,trong mơ hình kinh tế tập trung, cơng cụ kế hoạch hố đã được sử dụng một cách không
thành công. Khi chuyển sang cơ chế mới, kế hoạch vẫn là một công cụ đóng vai trị quan
trọng nhưng vẫn phải đổi mới nó cho phù hợp với điều kiện, hồn cảnh cụ thể. Kế hoạch
trong cơ chế mới không phải là áp đặt mà là định hướng và thực hiện theo dự án. Chất lượng
của kế hoạch hoá phụ thuộc vào mưc độ xã hội hoá. Kế hoạch chỉ phù hợp với hiện thực phát
triển kinh tế khi vận dụng đứng đắn tổng hợp các quy luật khách quan tronh quá trình xây
dựng chúng. Nội dung cơ bản của kê hoạch hoá là tạo ra những cân đối trong nền kinh tế
cũng như trong sự phát triển xã hội nói chung. Việc tạo lập những cân đối là cần thiết cho sự
phát triển có hiệu quả của nền kinh tế.
Cơng cụ thứ 2 của nhà nước là pháp luật : Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường
chủ yếu bằng pháp luật. Hệ thống pháp luật về kinh tế tạo thành hành lang an toàn cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm kỷ cương cho tất cả các hoạt động sản xuất kinh tế.
Do đó cần có pháp luật đồng bộ,thống nhất và từng bước hoàn chỉnh, khắc phục tình trạnh
thiếu luật pháp,cịn nhiều kẽ hở trong quản lý. Đó là nguyên nhân quan trọng của những hành
vi lạm dụng, tiêu cực, tham nhũng, buôn lậu. . . Làm rối loạn các hoạt động kinh tế. Các chiến
lược pháp triển kinh tế kế hoạch hoá định hướng và các chính sách kinh tế chỉ có thể đi vào
cuộc sống khi nó được thể chế hố thành pháp luật. Trong nền kinh tế thị trương có sự quản
lý của nhà nước, pháp luật thể hiện vai trị của nó trên 2 phương diện.
Thứ nhất, pháp luật là công cụ cướng chế hành vi của các doanh nghiệp nếu như hoạt
động sản xuất kinh doanh của họ có thể làmm tổn hại đến lợi ích của tồn xã hội.
Thứ hai, pháp luật là công cụ tạo ra môi trường tự do kinh doanh,tự do cạnh tranh lành
mạnh cho các doanh nghiệp bởi vì nhờ có pháp luật mà các doanh nghiệp biết được cái gì
được làm và khơng được làm, cái gì được làm thì sẽ được pháp luật bảo vệ. Pháp luật phát
triển cùng với sự phát triển của hệ thống chính trị, xã hội của thị trường. Từng bước chuyển



đổi cơ chế quản lý, đồng thời với việc tích cực xây dựng đầy đủ các bộ luật chúng ta cần coi
trọng những văn bản pháp luật đơn hành trong nền kinh tế. Cơng cụ cuối cùng là các chính
sách kinh tế. Hệ thống các chính sách và cơng cụ kinh tế sẽ giúp nhà nước điều khiển hoạt
động của các doanh nghiệp. Mỗi chính sách kinh tế là một hành lang hướng dân hoạt động
đầu tư mở rộng phát triển sản xuất, hướng dẫn các doanh nghiệp hoạt độnh phù hợp với lợi ích
của tồn xã hơi. Trong nền kinh tế thị trường, chính sách kinh tế là những cơng cụ cực kỳ sắc
bén và trước hết là chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng, giá cả, thuế và đầu tư. Sự ổn định
giá cả có tác dụng trực tiếp nhất đến hoạt động của thị trường. Việc thực hiện giá thị trường,
hình thành thị trường thống nhất trong nước gắn với thị trường nước ngoài là một điều then
chốt cho sự ra đời của cơ chế quản lý mới. Việc xố bỏ bao cấp trong vốn, tín dụng đối với
các doanh nghiệp nhà nước, tiền tệ hoá tiền lương, thu nhập,điều chỉnh lãi xuất hợp lý hơn và
từng bước kìm chế lạm phát là thắng lợi rõ nét nhất trong quản lý kinh tế ở nước ta từ sau đại
hội VI đến nay. Vấn đề cấp bách hiện nay là ổn định tài chính, tiền tệ, duy trì, ổn định mức
lạm phát như hiện nay đảm bảo sức mua thực tế của tiền lương,giảm bất chắc về mặt bằng giá
đối với các nhà đầu tư. Việc điều hồ khối lương tiền tệ cần thiết trong lưu thơng chuyển từ
cách ấn định trước sang xử lý linh hoạt theo tín hiệu của thị trường. Nhà nước có chính sách
để huy động vốn trong dân cư, tích tụ vốn của các đơn vị kinh tế,thu hút vốn đầu tư từ nước
ngoài. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, thực hiện chi tiêu hợp lý và phấn đấu tạo nguồn thu
trong nước đủ để chi tiêu và có dự trữ để trả nợ và đầu tư phát triển sản xuất. Thuế là công cụ
hữu hiệu để tăng thu ngân sách nhà nước. Do vậy cần phải hoàn thiện hệ thống thuế và kiện
toàn bộ máy thu thuế, đảm bảo bộ máy thu thuế phải trong sạch gọn nhẹ. Giá cả là công cụ để
điều tiết hoạt động kinh tế. Mở rộng quyền tự chủ trong định giá, thoả thuận giá cả của các
doanh nghiệp. Nhà nước trực tiếp kiểm soát giá cả một số sản phẩm độc quyền nhưng khơng
thốt ly mặt bằng giá thị trường. Thực hiện giá bảo hộ đối với một số nông sản, hàng xuất
khẩu khi giá thị trường xuống quá thấp, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh.
4.

Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của nhà

nước.
Như đã nói ở trên, vai trị củanhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội

chủ nghĩa là hết sức cần thiếtvà quan trọng. Nhưng việc nhà nước tham gia vào quản lý nền
kinh tế chỉ thực sự có hiệu quả khi nó tuân theo hai nguyên tắc sau:


Một là, không can thiệp trực tiếp, không áp đặt thơ bạo ý chí của nhà nước vào q trình
hình thành giá. Nhà nước chỉ ccó thể tấc động gián tiếp vào nền kinh tế thông qua cơ chế cung
cầu giá cả của thị trường.
Hai là, Nhà nước điều khiển sự hoạt động của nền kinh tế bằng các chiến lược, các kế
hoạch dài hạn, cac thiệp vào các hiện tượng và q trình kinh tế bằng các cơng cụ lãi suất thuế
và chi tiêu. Hiệu lực hành chính của nhà nước phải dược thực hiện một cách gián tiếp thơng
qua con đường thể chế hố các chính sách kinh tế thành quy phạm pháp luật. Không cần
cưỡng bức hành chính, khơng cần giáo dục, thuyết phục mà chỉ tạo hành lang pháp lý buộc
các doanh nghiệp phải tuân theo.
Và sau đây là một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò quản lý kinh tế của nhà nước:
Thứ nhất, là cần phải phân định sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước. Sự
lãnh đạo của Đảng là sự tác động định hướng về mặt chính trị đối với quá trình phát triển kinh
tế của đất nước. Trên cơ sở nhận thức các quy luật khách quan và thực trạng của nền kinh tế,
Đảng đề ra đường lối chính sách kinh tế lớn và các biện pháp chính để thực hiện mục tiêu đề
ra. Bên cạnh đó, sự quản lý về kinh tế của nhà nước là sự điều hành các hoạt động kinh tế
bằng việc cụ thể hố đường lối chính sách của Đảng, biến đường lối, chính sách đó thành pháp
luật và tổ chức thực hiện nó trong thực tế.
Thứ hai, là nâng cao kiến thức khoa học kinh tế thị trường cho cán bộ. Quản lý nền
kinh tế thị trường cần những cán bộ có kiến thức và năng lực. Việc bồi dưỡng nâng cao kiến
thức mới nhất là kiến thức về quản lý kinh tế cho đội ngũ cán bộ là hết sức cần thiết, nhất là
cán bộ quản lý vĩ mô. Đối với đối tượng này, thơng qua hình thức đào tạo, bồi dưỡng để nâng
cao kiến thức. Đối với cán bộ quản lý doanh nghiệp cần trang bị sâu hơn những kiến thức về
kinh doanh, thị trường, luật kinh tế, quản lý kinh tế, nghệ thuật kinh doanh,...

Thứ ba, là nâng cao hiệu lực của bộ máy quản lý nhà nước. Chuyến sang nền kinh tế thị
trường, nhiều chức năng quản lý cuả nhà nước có sự thay đổi. Từ chỗ nhà nước quản ký nền
kinh tế bắng mệnh lệnh hành chính, qua nhiều cấp chuyển sang định hướng, điều tiết, kiểm tra
các hoạt động kinh tế. Từ yêu cầu của hoạt động kinh tế mà xác định chức năng quản lý, tổ
chức bộ máy, bố chí cán bộ có đủ năng lực phẩm chất, thực hiện tốt những nhiệm vụ đã đặt ra.
Đổi mới phong cách làm việc của cán bộ trong bộ máy quản lý của nhà nước về kinh tế. Hiệu


lực của bộ máy thông qua hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, uy tín của cán bộ và kết quả của
cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
Bốn là, xây dựng và thực hiện chính sách xã hội gắn liền với chính sách kinh tế. Nền
kinh tế thị trường thường nảy sinh nhiều vấn đề gay gắt không dễ giải quyết như lạm phát, thất
nghiệp, phân hoá giàu nghèo,. . . . Đó là những hạn chế của cơ chế thị trường đặt ra địi hỏi
chúng ta phải tìm cách khắc phục. Phát huy vai trò của nhà nước trong việc đề ra chính sách
thích hợp và tổ chức thực hiện đầy đủ. Chính sách đó làm sao để phát triển tài năng, dân làm
giàu hợp pháp, giúp đỡ người nghèo, giảm dân số, tạo việc làm, phát triển giáo dục, nâng cao
dân trí, đào tạo nhân tài, phát triển truyền thống văn hoá dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn
hoá của nhân loại.
Năm là, phải tinh giảm bộ máy hành chính nhà nước sao cho gọn nhẹ, làm việc có hiệu
quả. Xây dựng các chương trình kế hoạch phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội
nước ta theo mục tiêu mong muốn. Thực chất của việc định hướng sự phát triển của nền kinh
tế là thống nhất các lợi ích khác nhau, quy tụ các lợi ích khác nhau về một lợi ích để sao cho
trong khi mỗi người theo đuổi các lợi ích cá nhân của mình cũng đồng thời góp phần của mình
vào việc theo đuổi lơị ích dân tộc. Đồng thời phải tạo mơi trường thuận lợi cho nền sản xuất
hàng hố nhiều thành phần phát triển, phân phối thu nhập quốc dân một cách cơng bằng hiệu
quả, tạo động lực kích thích sản xuất phát triển, quản lý tài sản quốc gia, phân bổ một cách
hợp lý...
Sự thành công của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể chỉ
dừng lại ở các tốc độ tăng trưởng mà đi kèm với tăng trưởng phải không ngừng nâng cao chất
lương cuộc sống với tiền lương và thu nhập thực tế tăng mạnh, y tế giáo dục phát triển, sự

phân hố giàu nghèo khơng làm phương hại tới phúc lợi xã hội, đảo lộn vị trí xã hội tương đối
của dân chúng. Cơ chế thị trường không thể dẫn đến sự xuống cấp tha hoá trong lĩnh vực văn
hoá, xã hội,các quan hệ đạo đức truyền thống xã hội.
Trên đây là các giải pháp nhằm đổi mới, tăng cường vai trị kinh tế của nhà nước. Có
như vậy mới có thể khắc phục được những khuyết tật của cơ chế thị trường, phát huy mặt tích
cực của nó.


Kết luận

Qua bài viết chúng ta thấy rằng, việc chuyển đổi nền kinh tế vận hành theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của nhà nước là một bươc ngoặt quan trọng làm thay đổi đời
sống kinh tế xã hội của đất nước. Sự thành công hay thất bại của quá trình chuyển đổi
quyết định sự thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
Quá trình đổi mới những năm qua cho thấy rằng việc chuyển nền kinh tế của nước
ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước là phù hợp với xu thế
phát triển tất yếu khách quan của nền kinh tế, phù hợp với xu thế quốc tế hoá đời sống
kinh tế.
Chúng ta tiến hành chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của nhà nước, đây là hướng đi
rất đúng đắn và phù hợp mà Đảng ta đã lựa chọn. Và thực tế đã chứng minh rằng có cơ
chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó
chẳng những khơng đối lập mà còn là nhân tố khách quan cần thiết cho việc xây dựng
và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nhưng đồng thời, cơ chế thị
trường cũng có những tác động tiêu cực mâu thuân với bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mơ của nhà nước
phát huy tích cực đi đơi với ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục những măt tiêu cực.
Ln tìm mọi cách để nâng cao vai trị quản lý của nhà nước về kinh tế bởi nếu khơng
có sự quản lý của nhà nước về kinh tế thì việc điều hành nền kinh tế nước ta sẽ khơng
có hiệu quả và chúng ta sẽ khơng thể tiến lên chủ nghĩa xã hội được.



tài liệu tham khảo

1-/

Văn kiện đại hội Đảng VI, VII, VIII.

2-/

Giáo trình kinh tế chính trị tập II.

3-/

Cơ chế thị trường và vai trò kinh tế của nhà nước ở Việt Nam
NXB Thống Kê - 1994.

4-/

Kinh tế học của P. Samuelson Tập I

5-/

Kinh tế học của David - Begg Tập I

6-/

Tạp chí kinh tế phát triển số 13/96
Bài “Vai trị nhà nước trong việc định hướng xã hội chủ nghĩa kinh tế thị trường
của nước ta”

Tác giả: Dương Thị Liễu

7-/

Tạp chí nghiên cứu phát triển số 102/99
Bài “Vai trị của nhà nước trong nền kinh tế thị trường “
Tác giả: TS Vũ Anh Tuấn.


Mục lục

Lời nói đầu

................................................................................................................... 1

nội dung

................................................................................................................... 4

1. Tính tất yếu khách quan vai trị quản lý vĩ mơ của nhà nước
đối với nền kinh tế..................................................................................................................... 4
2. Nền kinh tế thị trường XHCN và vai trò kinh tế của nhà nước
ở Việt Nam. ................................................................................................................................. 5
3. Mục tiêu, chức năng và công cụ quản lý kinh tế vĩ mô
của nhà nước. ........................................................................................................................... 10
4. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý
kinh tế của nhà nước.............................................................................................................. 14
Kết luận

................................................................................................................. 17


tài liệu tham khảo ............................................................................................................ 18



×