Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Tài liệu Câu hỏi ôn thi Môn xã hội học phát triển pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.08 KB, 39 trang )

Câu 1: Phát triển là gì? Làm thế nào xác đònh được quốc gia nào là phát triển và quốc gia nào là kém phát triển? Phát triển bền
vững là như thế nào?
1. Phát triển là gì?
- Phát triển (development ) là sự tăng lên (về số lượng, chất lượng), mạnh hơn (cường độ, tốc độ…), đi từ thấp tới cao, từ ít tới
nhiều, từ yếu đến mạnh theo hướng tiến bộ, tích cực.
- Phát triển có thể diễn ra nhanh hay chậm, phát triển bộ phận hay tổng thể.
2. Tiêu chí xác định quốc gia phát triển và quốc gia kém phát triển:
3. Phát triển bền vững:
3.1 Lòch sử: Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (cơng
bố bởi Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên và Tài ngun Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại
khơng thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải tơn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến mơi trường sinh thái
học".
Khái niệm này được phổ biến rộng rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common Futur) của Ủy ban
Mơi trường và Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thể
đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà khơng ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai "
1
. Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội cơng bằng và mơi trường được bảo vệ, gìn giữ.
Để đạt được điều này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội phải bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích
dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã hội - mơi trường.
3. 2 Khái niệm:
- Phát triển bền vững nghóa là sự phát triển của yếu tố này không làm tổn hại đến yếu tố khác; sự phát triển hiện tại không làm
ảnh hưởng xấu đến tương lai và sự phát triển phải bảo đảm rằng không xảy ra tình trạng một nhóm người hưởng lợi hơn trong khi nhóm
người khác thiệt thòi hơn (nói cách khác phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển XH, không làm tổn hại đến môi trường, không làm
tăng bất công XH, và phải tính đến yếu tố bình đẳng giới… khi đó sự phát triển mới bền vững).
- Năm 1987 Uỷ ban Mơi trường và Phát triển của Liên Hợp Quốc đã đưa ra khái niệm Phát triển bền vững: "Phát triển bền vững là sự
phát triển nhằm thoả mãn các nhu cầu hiện tại của con người nhưng khơng tổn hại tới sự thoả mãn các nhu cầu của thế hệ tương lai".
Ðể xây dựng một xã hội phát triển bền vững, Chương trình Mơi trường Liên Hợp Quốc đã đề ra 9 ngun tắc: (1) Tơn trọng và quan tâm
đến cuộc sống cộng đồng. (2)Cải thiện chất lượng cuộc sống của con người. (3) Bảo vệ sức sống và tính đa dạng của Trái đất. (4)Quản lý
những nguồn tài ngun khơng tái tạo được. (5) Tơn trọng khả năng chịu đựng được của Trái đất. (6)Thay đổi tập tục và thói quen cá nhân.
(7) Ðể cho các cộng đồng tự quản lý mơi trường của mình.(8) Tạo ra một khn mẫu quốc gia thống nhất, thuận lợi cho việc phát triển và bảo
vệ. (9) Xây dựng một khối liên minh tồn cầu.


- Phát triển bền vững theo Brundtland:
Theo Brundtland: "Phát triển bền vững là sự phát triển thoả mãn những nhu cầu của hiện tại và không phương hại tới khả năng
đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Đó là quá trình phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được tái tạo tôn trọng những quá
trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những hệ thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của con người, động vật và thực vật. Qua
các bản tuyên bố quan trọng, khái niệm này tiếp tục mở rộng thêm và nội hàm của nó không chỉ dừng lại ở nhân tố sình thái mà còn đi vào
các nhân tố xã hội, con người, nó hàm chứa sự bình đẳng giữa những nước giàu và nghèo, và giữa các thế hệ. Thậm chí nó còn bao hàm sự
cần thiết giải trừ quân bị, coi đây là điều kiện tiên quyết nhằm giải phóng nguồn tài chính cần thiết để áp dụng khái niệm phát triển bền
vững
Như vậy, khái niệm "Phát triển bền vững" được đề cập trong báo cáo Brundtlanđ với một nội hàm rộng, nó không chỉ là nỗ lực nhằm
hoà giải kinh tế và môi trường, hay thậm chí phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Nội dung khái niệm còn bao hàm những khía
cạnh chính trị xã hội, đặc biệt là bình đẳng xã hội. Với ý nghĩa này, nó được xem là "tiếng chuông" hay nói cách khác là "tấm biển hiệu” cảnh
báo hành vi của loài người trong thế giới đương đại.
* Ñoïc theâm - Tiêu chí xác định quốc gia kém phát triển nhất
Năm 2003, Liên Hiệp Quốc đã quy định dựa vào các tiêu chí sau để xác định một quốc gia kém phát triển nhất và một số tổ chức kinh
tế quốc tế như WTO cũng chấp nhận cách phân loại này của Liên Hiệp Quốc:
- Mức thu nhập thấp: Giá trị bình quân của chỉ số Tổng thu nhập quốc gia trên đầu người hàng năm trong vòng ba năm dưới 750 đô la Mỹ.
-Nguồn lực con người nghèo nàn: Chỉ số tài sản con người thấp hơn một mức nhất định.
- Nền kinh tế dễ bị tổn thương: Chỉ số mức độ dễ tổn thương về kinh tế thấp hơn một mức nhất định.
Điều kiện để một quốc gia thoát khỏi nhóm những nước chậm phát triển nhất là quốc gia đó phải có ít nhất hai trong ba chỉ tiêu nói trên
cao hơn một mức nhất định trong vòng hai năm liên tục. Tuy nhiên, nếu một mình chỉ số tổng thu nhập quốc dân trên đầu người vượt mức
900 đô la Mỹ thì quốc gia cũng không còn bị coi là nước nghèo nhất.
- Tỷ lệ nghèo của xã hội
Ngưỡng nghèo là công cụ để đo tỷ lệ nghèo trong xã hội – một chỉ số quan trọng phản ánh mức sống của xã hội về mặt thu nhập cá
nhân. Tỷ lệ nghèo là tỷ lệ số hộ có thu nhập dưới hoặc bằng chuẩn nghèo đối với toàn bộ số hộ trong quốc gia.
Các cải cách kinh tế-xã hội như phúc lợi xã hội và bảo hiểm thất nghiệp được tiến hành dựa trên những phản ánh của các chỉ số như ngưỡng
nghèo và tỷ lệ nghèo.
- Các yếu tố của ngưỡng nghèo
Việc xác định ngưỡng nghèo thường được thực hiện bằng cách tìm ra tổng chi phí cho tất cả các sản phẩm thiết yếu mà một người lớn
trung bình tiêu thụ trong một năm. Phương pháp tiếp cận này dựa trên cơ sở rằng cần một mức chi tiêu tối thiểu để đảm bảo duy trì cuộc sống.
Đây đã là cơ sở ban đầu của ngưỡng nghèo ở Hoa Kỳ, mức chuẩn này đã được nâng lên theo lạm phát. Trong các nước đang phát triển, loại

chi dùng đắt nhất trong các khoản là trả cho thuê nhà (giá thuê căn hộ). Do đó, các nhà kinh tế đã đặc biệt chú ý đến thị trường bất động sản
và giá thuê nhà vì ảnh hưởng mạnh mẽ của chúng lên ngưỡng nghèo. Các yếu tố cá nhân thường được nghiên cứu như vị trí trong gia đình:
người đó có phải là bố mẹ, người già, trẻ con, kết hôn hay không, v.v
- Chuaån ngheøo: Theo Tổng cục Thống kê chuẩn nghèo được xác định dựa trên cách tiếp cận của Ngân hàng Thế giới (WB), gồm hai
mức:
• Nghèo lương thực thực phẩm: tổng chi dùng chỉ tính riêng cho phần lương thực thực phẩm, làm sao để đảm bảo lượng dinh dưỡng tối
thiểu cho một người là 2100 kcal/ngày đêm;
• Nghèo chung: tổng chi dùng cho cả giỏ hàng tiêu dùng tối thiểu, được xác định bằng cách ước lượng tỷ lệ: 70% chi dùng dành cho
lương thực thực phẩm, 30% cho các khoản còn lại.
Theo cách xác định trên, năm 1998 chuẩn nghèo lương thực thực phẩm của Việt nam bằng 107 234 VND/tháng; chuẩn nghèo chung
bằng 149 156 VND/tháng
[1]
. Năm 2006 các mức chuẩn này đã được xác định lại và bằng ? Để đánh giá chính xác ngưỡng nghèo cho các thời
điểm, các mức chuẩn cần hiệu chỉnh lại theo chỉ số giá tiêu dùng.
Chuẩn nghèo của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội được xác định một cách tương đối bằng cách làm tròn số và áp dụng cho từng
khu vực và vùng miền khác nhau (nông thôn miền núi, hải đảo, nông thôn đồng bằng, thành thị).
- “Phát triển bền vững” qua một số nghiên cứu ở Việt Nam:
Khái niệm “Phát triển bền vững” được biết đến ở Việt Nam vào những khoảng cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Mặc dù xuất hiện ở
Việt Nam khá muộn nhưng nó lại sớm được thể hiện ở nhiều cấp độ.
Về mặt học thuật, thuật ngữ này được giới khoa học nước ta tiếp thu nhanh. Đã có hàng loạt công trình nghiên cứu liên quan mà đầu
tiên phải kể đến là công trình do giới nghiên cứu môi trường tiến hành như "Tiến tới môi trường bền vững” (1995) của Trung tâm tài nguyên
và môi trường, Đại học Tổng hợp Hà Nội. Công trình này đã tiếp thu và thao tác hoá khái niệm phát triển bền vững theo báo cáo Brundtland
như một tiến trình đòi hỏi đồng thời trên bốn lĩnh vực: Bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt nhân văn, bền vững về mặt môi trường, bền
vững về mặt kỹ thuật. "Nghiên cứu xây dựng tiêu chí phát triển bền vững cấp quốc gia ở Việt Nam - giai đoạn I” (2003) do Viện Môi trường
và phát triển bền vững, Hội Liên hiệp các Hội Khoa học kỹ thuật Việt Nam tiến hành. Trên cơ sở tham khảo bộ tiêu chí phát triển bền vững
của Brundtland và kinh nghiệm các nước: Trung Quốc Anh, Mỹ, các tác giả đã đưa ra các tiêu chí cụ thể về phát triển bền vững đối với một
quốc gia là bền vững kinh tế, bền vững xã hội và bền vững môi trường. Đồng thời cũng đề xuất một số phương án lựa chọn bộ tiêu chí phát
triển bền vững cho Việt Nam. "Quản lý môi trường cho sự phát triển bền vững (2000) do Lưu Đức Hải và cộng sự tiến hành đã trình bày hệ
thống quan điểm lý thuyết và hành động quản lý môi trường cho phát triển bền vững. Công trình này đã xác định phát triển bền vững qua các
tiêu chí: bền vững kinh tế, bền vững môi trường, bền vững văn hoá, đã tổng quan nhiều mô hình phát triển bền vững như mô hình 3 vòng tròn

kinh kế, xã hội, môi trường giao nhau của Jacobs và Sadler (1990), mô hình tương tác đa lĩnh vực kinh tế, chính trị, hành chính, công nghệ,
quốc tế, sản xuất, xã hội của WCED (1987), mô hình liên hệ thống kinh tế, xã hội, sinh thái của Villen (1990), mô hình 3 nhóm mục tiêu kinh
tế, xã hội, môi trường của Worl Bank.
Chủ đề này cũng được bàn luận sôi nổi trong giới khoa học xã hội với các công trình như "Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và giải
pháp" (1997) của Phạm Xuân Nam. Trong công trình này, tác giả làm rõ 5 hệ chỉ báo thể hiện quan điểm phát triển bền vững: Phát triển xã
hội, phát triển kinh tế, bảo vệ mơi trường, phát triển chính trị, tinh thần, trí tuệ, và cuối cùng là chỉ báo quốc tế về phát triển . Trong một
bài viết gần đây đăng trên Tạp chí Xã hội học (2003) của tác giả Bùi Đình Thanh với tiêu đề "Xã hội học Việt Nam trước ngưỡng của thế kỷ
XXI" tác giả cũng chỉ ra 7 hệ chỉ báo cơ bản về phát triển bền vững: Chỉ báo kinh tế, xã hội, mơi trường, chính trị, tinh thần, trí tuệ, văn hố,
vai trò phụ nữ và chỉ báo quốc tế. Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu này có một điểm chung là thao tác hố khái niệm phát triển bền vững
theo Brundtland, tuy nhiên cần nói thêm rằng những thao tác này còn mang tính liệt kê, tính thích ứng của các chỉ báo với thực tế Việt Nam,
cụ thể là ở cấp độ địa phương, vùng, miền, hay các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội vẫn chưa được làm rõ.
Tóm lại, "Phát triển bền vững” có nội hàm rất rộng, mỗi thành tố trong đó đều có một ý nghĩa riêng. Một mẫu hình phát triển bền vững
là mỗi địa phương, vùng, quốc gia… khơng nên thiên về thành tố này và xem nhẹ thành tố kia. Vấn đề là áp dụng nó như thế nào ở các cấp độ
trên và trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
***
Câu 2: Tại sao công bằng lại là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển bền vững? Những điều kiện cần thiết để phát triển bền
vững là gì?
1. Công bằng giúp cho mọi công dân có cơ hội tiếp cận nguồn lực xã hội (giáo dục, việc làm, y tế, …) thì sẽ đóng góp vào sự phát
triển chung của xã hội. Công bằng còn mở rộng theo nghóa, người dân có tiếng nói, được tham gia trong các quyết đònh chung. Khi hạn
chế được mức thấp nhất những đối tượng thiệt thòi “đứng ngoài rìa” thì tài nguyên xã hội được khai thác tối đa, đảm bảo cho sự phát
triển bền vững.
2. Những điều kiện cần thiết để phát triển bền vững:
2.1 Xây dựng và phát triển một nền kinh tế mở năng động.
- Có nhiều cơ chế, chính sách ưu việt trong lónh vực kinh tế. Thời gian vừa qua nhiều chính sách có tính chất “cởi trói” những ràng
buộc để các tác nhân, các chủ thể kinh tế có điều kiện phát huy năng lực sản xuất (ví dụ Khốn 10 trong nơng nghiệp (Nghị quyết số 10 của
Bộ Chính Trị năm 1988), Luật đầu tư nước ngồi (tu chỉnh nhiều lần) và Luật doanh nghiệp (tu chỉnh nhiều lần) đều nhằm cởi trói dần các
ràng buộc đối với hoạt động của doanh nghiệp.
- Hợp tác quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài.
2.2 Giải quyết tốt các vấn đề xã hội:
- Vấn đề dân số: Dân số, yếu tố quan trọng để phát triển bền vững

Chiến lược dân số là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước; một trong những vấn đề hàng đầu tác động trực tiếp
đến nền kinh tế - xã hội; là yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Chính vì vậy, dân số vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển.
Mục tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội chỉ có thể đạt được khi quy mơ dân số, tốc độ tăng trưởng dân số, sự phân bố dân cư
và nguồn nhân lực thật sự phù hợp và tác động tích cực đến sự phát triển. Dân số phù hợp sự phát triển đòi hỏi sự điều chỉnh các xu hướng
dân số phù hợp sự phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước.
- Chính sách và các chương trình hành động: Xóa đói giảm nghèo, giáo dục ; giải quyết nạn thất nghiệp, tham nhũng, tệ nạn xã
hội…
2.3 Bảo vệ môi trường sinh thái.
- Phát triển và tăng trưởng kinh tế không phải bằng mọi giá. Khai thác, sản xuất hợp lý, tiết kiệm và nghiên cứu tìm nguồn tài
nguyên có thể thay thế.
- Công tác quản lý hiệu quả.
* Tham khảo: Trường hợp Hàn Quốc:
Hàn Quốc vào đầu thập niên 1960 là nước kém phát triển nhưng sau đó vượt qua giai đoạn phát triển ban đầu và thành cơng trong giai
đoạn phát triển bền vững, trở thành nước tiên tiến trong thời gian rất ngắn. Thời đại cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước này bắt đầu từ
khi Park Chung-hee nắm chính quyền (năm 1961), thiết lập thể chế độc tài nhưng với quyết tâm phát triển đất nước. Chế độ độc tài kéo dài
đến hết thời Chun Doo-hwan, trải qua mấy biến cố chính trị sơi động, đến năm 1987 họ đã thành cơng trong việc chuyển sang thể chế dân
chủ bằng cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên. Năm 1988 Hàn Quốc tổ chức thành cơng Thế vận hội Seoul và năm 1996 được kết nạp vào khối
OECD. Từ lúc bắt đầu kế hoạch phát triển đến khi trở thành thành viên của tổ chức các nước tiên tiến, Hàn Quốc chỉ mất có 35 năm! Nếu kể
từ khi chiến tranh Triều Tiên chấm dứt thì cũng chỉ có 43 năm. HQ cũng bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Á châu nhưng đã
khắc phục được ngay (GDP đầu người chỉ giảm năm 1998) nhờ nền tảng cơ bản của nền kinh tế vững chắc và các nhóm tài phiệt mà hoạt
động cho vay và đầu tư khơng hiệu quả của họ đã gây ra khủng hoảng là những tổ hợp tư nhân, ảnh hưởng ít đến cả nền kinh tế.
Tại sao Hàn Quốc thành cơng trong q trình phát triển liên tục, chuyển từ giai đoạn tăng trưởng ban đầu sang giai đoạn phát triển bền
vững? Rất nhiều cơng trình nghiên cứu về kinh nghiệm nước này. Từ góc độ tham khảo cho VN, và đặt tiêu điểm vào mặt cơ chế, tơi đặc biệt
chú ý đến các yếu tố sau:
Thứ nhất, ngay từ đầu đã có ngay sự đồng thuận của xã hội về sự cần thiết phải phát triển, phải theo kịp các nước tiên tiến, nhất là theo
kịp Nhật (nước láng giềng từng đơ hộ mình). Để có sự đồng thuận, năng lực, ý chí và chính sách của lãnh đạo chính trị là quan trọng nhất.
Dù dưới chế độ độc tài, quyết tâm phát triển của lãnh đạo chính trị được thể hiện bằng các chiến lược, chính sách do lớp kỹ trị xây dựng,
quan chức được tuyển chọn theo năng lực, người tài được trọng dụng. Như nhận xét của Evans (1995, p. 51), ở Hàn Quốc, Nhà nước có
truyền thống chọn được nguời tài ra làm việc nước từ những người giỏi nhất ở các đại học danh tiếng nhất. Đặc biệt, Park Chung-hee lập Hội

đồng hoạch định kinh tế (Economic Planning Board) quy tụ những chun gia học ở Mỹ về, được giao tồn quyền hoạch định chiến lược.
Trong bối cảnh chung đó, tinh thần doanh nghiệp, nỗ lực học tập kinh nghiệm nước ngồi của giới kinh doanh rất lớn. Giữa thập niên 1980
tơi có đến Hàn Quốc điều tra thực tế về chiến lược đuổi bắt cơng nghệ của doanh nghiệp nước này, ấn tượng nhất là thấy họ đưa ra khẩu hiệu
phải theo kịp khả năng cơng nghệ của cơng ty hàng đầu của Nhật trong ngành. Những người có kinh nghiệm du học cùng với sinh viên Hàn
Quốc cũng dễ dàng thấy nỗ lực học tập của họ. Quốc sách theo kịp nước tiên tiến khơng phải là khẩu hiệu chung chung mà từng thành phần
trong xã hội đều nỗ lực thực hiện.
Thứ hai, Hàn Quốc xây dựng được một cơ chế rất hiệu suất, hiệu quả về quan hệ giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Trong q trình đuổi
theo các nước tiên tiến, mục tiêu cụ thể là tích cực đầu tư, tích lũy tư bản (nhưng tỉ lệ tiết kiệm ban đầu q thấp phải vay nợ trong thời gian
dài), đồng thời bảo hộ các ngành cơng nghiệp còn non trẻ và đẩy mạnh xuất khẩu để có ngoại tệ nhập khẩu ngun liệu, cơng nghệ và trả nợ.
Như vậy vai trò của Nhà nước rất lớn. Trong tình hình đó, ở nhiều nước khác, doanh nghiệp cấu kết với quan chức để được tiếp cận với vốn
vay ưu đãi, với ngoại tệ khan hiếm và với các nguồn hỗ trợ cho xuất khẩu. Nạn tham nhũng dễ phát sinh từ đó. Nhưng Hàn Quốc đã tránh
được tệ nạn đó nhờ có cơ chế minh bạch, nhất qn, cơng minh có tính cách kỷ luật (discipline). Cụ thể là doanh nghiệp được nhận ưu đãi
phải có nghĩa vụ tăng năng lực cạnh tranh, chẳng hạn phải xuất khẩu nhiều hơn trước. Nếu khơng hồn thành nghĩa vụ sẽ khơng được hưởng
ưu đãi trong giai đoạn sau. Nói chung, các doanh nghiệp phải cạnh tranh nhau, đưa ra mục tiêu phấn đấu khả thi mới nhận được ưu đãi của
Nhà nước.
Khi đặt xuất khẩu là mục tiêu của quốc gia thì người lãnh đạo cao nhất phải thường xun quan tâm. Tơi rất ấn tượng là chính Tổng thống
Park Chung –hee trực tiếp chủ trì các hội nghị kiểm tra diễn tiến xuất khẩu. Mục tiêu xuất khẩu đặt ra rất lớn nhưng hầu như năm nào cũng
đạt được là nhờ cơ chế như vậy.
Thứ ba, nhận xét của Amsden (1989) rất chính xác khi cho rằng Hàn Quốc đã thực hiện cơng nghiệp hóa trên cơ sở của học tập
(industrialization on the basis of learning). Quả đúng như vậy nếu ta xem nỗ lực của Chính phủ trong giáo dục, đào tạo, trong việc tạo ra cơ
chế để đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, cơng nghệ, và nỗ lực của doanh nghiệp trong q trình học hỏi nước ngồi. Tỉ trọng dành cho giáo
dục vào cuối thập niên 1950 chỉ có dưới 10% ngân sách Nhà nước, nhưng đã tăng liên tục lên 15-18% trong thập niên 1960, và 19-21% trong
đầu thập niên 1980. Tỉ lệ học sinh cấp ba trong độ tuổi thanh thiếu niên tăng từ 34% năm 1965 lên 56% năm 1975 và 91% năm 1984. Tỉ lệ
sinh viên đại học trong thời gian đó là 6%, 10% và 26%. Hàn Quốc là một trong những nước có tỉ lệ rất cao trong hai chỉ tiêu: tỉ lệ của sinh
viên du học trên tổng số sinh viên trong nước và tỉ lệ nguời du học trở về trên tổng số sinh viên đi du học. Thành quả này nhờ có các cơ chế
liên quan đến việc thi tuyển và đãi ngộ người tài.
Ba điểm nói trên nhất qn trong suốt q trình đuổi theo các nước tiên tiến nhưng nội dung của các cơ chế thay đổi theo nhu cầu phát triển
của mỗi thời kỳ. Từ đầu thập niên 1980, vai trò của Nhà nước trong việc phân bổ nguồn lực nhỏ dần và thay vào đó tập trung vào giáo dục,
nghiên cứu khoa học để tạo tiền đề cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế lên thứ ngun cao hơn.
Kinh nghiệm Hàn Quốc cho thấy cơ chế động viên mọi nguồn lực của xã hội vào mục tiêu được xã hội đồng thuận, nhất là xây dựng và sử

dụng nguồn nhân lực, tạo quan hệ lành mạnh giữa Nhà nước với doanh nghiệp là điều kiện để phát triển bền vững.
***
? Câu 3: Vốn con người và vốn vật chất giống nhau và khác nhau như thế nào? Cách tốt nhất để xây dựng vốn con người cho
một nước là gì? Làm thế nào để các nước để các nước có thể xây dựng vốn xã hội cho mình
1. Khái niệm:
- Vốn vật chất: là toàn bộ tài nguyên (biển hồ, sông ngòi, khoáng sản…); nền kỹ thuật, công nghệ, máy móc thiết bò; vốn tư bản…
của một quốc gia.
- Vốn con người:
Vốn con người (còn gọi là vốn nhân lực) là khái niệm dùng để chỉ tồn bộ hiểu biết của con người về phương thức tiến
hành các hoạt động sản xuất. Được hình thành thơng qua việc đầu tư cho người lao động, bao gồm các khoản chi dùng vào các mặt giáo dục, bồi
dưỡng kĩ thuật, bảo vệ sức khoẻ, lưu chuyển sức lao động trong nước, di dân nhập cảnh, trong đó quan trọng nhất là đầu tư giáo dục và bảo vệ
sức khoẻ. Việc đầu tư này có lợi cho tố chất sức lao động, tức nâng cao năng lực cơng tác, trình độ kĩ thuật, mức độ lành nghề, mức độ sức
khoẻ, có lợi cho việc tăng thêm số lượng người lao động phù hợp với nhu cầu tương lai, điều chỉnh sự thừa thiếu sức lao động hiện có trong
nước, lợi dụng sức lao động nước ngồi và tiết kiệm chi phí giáo dục. Đầu tư vào VCN có hiệu quả hay khơng là tuỳ theo tiêu chí đầu tư nhằm
đạt được sự chênh lệch giữa lợi ích và chi phí đủ lớn hay không.
- Vốn xã hội:
Ở phương Tây, khái niệm “vốn xã hội” (social capital) được Lyda Judson Hanifan, một nhà giáo dục Mỹ, nói đến lần đầu tiên năm
1916 khi ơng ta bàn đến vấn đề quan hệ trong các trường ốc ở vùng thơn dã tại Bắc Mỹ. Để nói về vốn xã hội, ơng xác định rằng: “ những
giá trị hiện thực đó có tác dụng lên hầu hết cuộc sống hàng ngày của con người” (those tangible substance [that] count for most in the daily
lives of people).
Từ đó, vấn đề vốn xã hội đã được nhắc nhở, nghiên cứu, phát triển và áp dụng một cách có hệ thống và rộng khắp trong các lĩnh vực
kinh tế, giáo dục, xã hội, tâm lý… tại Mỹ, các nước phương Tây và các quốc gia kỹ nghệ trên tồn thế giới. Năm 1961, Jane Jacob phân tích
và thảo luận về vốn xã hội trong mối tương quan của đời sống ở thành phố. Năm 1983, Pierre Bourdieu soạn hẳn ra một lý thuyết riêng về
VXH. James S. Coleman phát triển lý thuyết thành một nội dung giáo dục về nguồn vốn xã hội. Ý tưởng nầy đã được một tổ chức tài chính
lớn nhất hành tinh là Ngân Hàng Thế Giới sử dụng như một ý kiến rất hữu ích về mặt tổ chức. Ngân Hàng Thế Giới xác định rằng: “ bằng
chứng mỗi ngày một nhiều chỉ rõ rằng, sự liên kết xã hội là rất thiết yếu cho các xã hội trong việc làm giàu mạnh kinh tế và cho việc phát
triển tiến lên khơng ngừng”. (Increasing evidence shows that social cohesion is critical for societies to prosper economically and for
development to be sustainable (World Bank 1999) ”.
Trong khi vốn vật chất (physical capital) nói đến các vật thể hiện hữu và vốn nhân sinh (human capital) nói đến tài sản cá nhân thì vốn
xã hội nói đến liên hệ nối kết giữa những con người. Đấy là mạng lưới xã hội với những tiêu chuẩn giao dịch qua lại trong sự tin tưởng lẫn

nhau và đồng thời đó cũng là đạo lý cư xử giữa người và người trong xã hội. Theo định nghĩa của Ngân Hàng Thế Giới thì vốn xã hội là
những gì liên quan đến các cơ sở, các mối quan hệ và những giá trị truyền thống. Tất cả cùng hợp sức tạo nên chất lượng và số lượng của
thành phẩm làm nên bởi sự tương giao hợp tác trong xã hội… Vốn xã hội khơng phải chỉ đơn thuần là sự tổng hợp những khối lượng vật chất
của xã hội mà là chất keo làm dính chặt những khối lượng tài sản xã hội nầy lại với nhau.
Nói một cách cụ thể hơn về vốn xã hội, Cohen và Prusak (2001) định nghĩa: “Vốn xã hội bao gồm phần lớn sự hợp tác xây dựng giữa
những con người với nhau: Sự tin tưởng, sự hiểu biết lẫn nhau, và sự chia sẻ những giá trị đạo đức, phong cách nối kết những thành viên
trong các tập đồn, các cộng đồng lại với nhau làm cho việc phối hợp hành động có khả năng thực hiện được”.
Như vậy, vốn xã hội chính là con người. Trong khi con người lại chính là sản phẩm của một hồn cảnh xã hội hiện hữu và phát triển
trong một hồn cảnh kinh tế, một bối cảnh lịch sử, một truyền thống văn hóa cụ thể nào đó.
2. So sánh:
* Giống nhau: Đều có tính sản xuất và cũng cần khấu hao, bò “hao mòn” và được thay thế theo thời gian.
* Khác nhau:
Vốn con người Vốn vật chất
- Khơng thể thế chấp được vì khơng bán
được
- Chỉ có thể cung cấp cho cá nhân người lao
động sử dụng.
- Vốn vật chất do con người làm ra
(không có vấn đề ngược lại)
- Có thể tự do chuyển nhượng, mua bán,
trao đổi.
* Mối quan hệ giữa vốn vật chất và vốn con người:
- VCN chỉ có kết hợp với vốn vật chất mới có thể hình thành lực lượng sản xuất hiện thực; hai thứ đó lại có thể thay thế lẫn nhau ở mức
độ nhất định, hoặc ít vốn vật chất nhiều VCN, hoặc nhiều vốn vật chất ít VCN lại thường có thể làm ra sản lượng như nhau.
- Cả 2 yếu tố có mối quan hệ biện chứng: vốn con người phát triển thì vốn vật chất phát triển theo. Vốn vật chất đa dạng, phong
phú, siêu việt là biểu hiện của trình độ vốn con người phát triển.
Vốn con người là nguồn lực cho một quốc gia.Tuy nhiên, vốn con người ở đây nhấn mạnh tầm quan trọng của “chất lượng” con
người, chứ không phải đơn thuần là số lượng”. Đó là kỹ năng, chất xám, tay nghề… Một quốc với dân số quá đông đúc sẽ gây ra nhiều
vấn đề khó khăn cho xã hội. Theo nghóa đó, vốn con người sẽ quyết đònh vốn vật chất. Vốn con người càng “chất lượng” thì vốn vật
chất sẽ càng tăng (chất cả lượng).

Chính sách của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam đặt con người vào vị trí trung tâm, coi con người vừa là động lực vừa là mục tiêu
để phát triển kinh tế - xã hội, nên rất quan tâm đến việc đầu tư cho giáo dục, y tế, nghiên cứu khoa học nhằm tạo ra một nguồn nhân lực thích
ứng với sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
3. Cách tốt nhất để xây dựng vốn con người cho một nước?
- Phát triển giáo dục, đào tạo (kinh nghiệm Nhật Bản, Hàn Quốc). Tạo điều kiện cho người dân tiếp cận giáo dục, khoa học, kỹ
thuật, thông tin; chế độ thu hút và đãi ngộ nhân tài
- Chăm sóc y tế: Các chương trình tiêm chủng cho trẻ em. Chăm sóc sức khỏe ban đầu…
4. Làm thế nào để xây dựng vốn xã hội cho quốc gia mình?
* Tham khảo: Nhìn về Vốn Xã Hội Việt Nam
Các nhà nghiên cứu phải lưu ý đến ba định mức của vốn xã hội: (1) Mức độ vốn xã hội vi mơ (micro-level social capital), (2) mức độ
vốn xã hội trung mơ (Meso-level social capital), và (3) mức độ vốn xã hội vĩ mơ (macro-level social capital). Ba định mức nầy liên quan đến:
(1) Cá nhân, (2) gia đình, trường học, cơ quan, đồn thể, xí nghiệp, và (3) xã hội, đất nước và tồn cầu. Mối liên hệ hữu cơ là: (1) Nếu cá
nhân khơng được chuẩn bị kỹ càng; (2) nếu nghiệp vụ khơng được đào tạo, huấn luyện nghiêm túc; (3) kết quả sẽ tạo ra là những thành viên
xã hội có chất lượng nghèo nàn và hệ quả tất yếu là sẽ làm cho nguồn vốn xã hội suy thối hay khánh tận.
Cơng trình nghiên cứu về vốn xã hội gần đây nhất của Robert D. Putnam (1993; 2000) nhấn mạnh về sự hợp tác hai chiều và nhiều
chiều của các thành viên trong xã hội. Ơng cho rằng sự hợp tác và chia sẻ giữa các thành viên xã hội với nhau là yếu tố quan trọng hàng đầu
trong việc xây dựng vốn xã hội. Từ đó, Putnam cũng báo động nguy cơ về sự xuống dốc của nguồn vốn xã hội tại Mỹ. Ngun nhân chính là
vì chủ nghĩa cá nhân (individualism) ngày một chiếm thế mạnh và trẻ em chỉ sống với cha hay mẹ một mình do tình trạng ly dị gia tăng làm
cho tinh thần hợp tác xã hội yếu dần.
TS. Nguyễn Đình Thắng
“Vốn xã hội” (social capital) là một khái niệm tương đối mới, chính thức ra đời năm 1972
Vốn xã hội là những gì nối kết con người lại với nhau tạo nên hợp quần. Nó có ba chiều kích: cơ cấu, quan hệ, và tri thức.
Cơ cấu là những phương tiện để con người biết, quen, và đối tác với nhau. Cơ cấu có thể chặt chẽ như đồn thể hay lỏng lẻo như nhóm
bạn.
Quan hệ là sợi dây nối kết, là chất keo sơn giữa những con người với nhau, mà căn bản nhất là niềm tin, sự tương kính, và tinh thần
hợp tác.
Tri thức là nhịp cầu cảm thơng, là sự hiểu biết về nhau, là sự am tường phương thức bồi đắp cho cơ cấu xã hội và tăng trưởng các mối
quan hệ xã hội.
Vốn xã hội, đơi khi được xem đồng nghĩa với xã hội dân sự (civil society), là xương, là máu, là linh hồn của nền dân chủ.
Cộng đồng người Việt còn rất non trẻ ở Hoa Kỳ nên chưa có nhiều thời gian để tích luỹ vốn xã hội.

Về cơ cấu, chúng ta hãy còn nghèo nàn và cục bộ. Các tổ chức thường chỉ nghĩ đến củng cố chiều sâu cho mình mà thiếu nối kết với
các tổ chức bạn.
Giáo Sư Robert Putnam thuộc đại học Harvard nhận xét rằng một tổ chức phát triển cơ cấu quá thiên lệch về chiều sâu có thể gây tai
hại cho tập thể rộng lớn hơn. Điển hình là những tổ chức chính trị và đảng phái quá nặng sắc áo mầu cờ dễ dẫn đến độc tôn. Họ dùng tiểu xảo
để củng cố cho chính mình nhưng đào hố cách biệt về cảm thông và làm tiêu tán niềm tin.
Về quan hệ, chúng ta còn nhiều ngờ vực lẫn nhau, một phần do hậu quả của bao nhiêu năm sống dưới chế độ cộng sản và một phần do
tập quán sinh hoạt ở ngay tại Hoa Kỳ. Trong cộng đồng chúng ta, sự hợp tác chỉ là ngoại lệ, còn thái độ đố kỵ, dè chừng mới là phổ biến.
Trong chúng ta nhiều người vẫn chưa quen “dung dị”, nghĩa là chấp nhận và tôn trọng sự khác biệt ý kiến, mà thường “yêu nên tốt, ghét nên
xấu”.
Về tri thức, chúng ta hãy còn thiếu những tiếng nói ngay thẳng và khách quan để hướng dẫn dư luận và thăng hoa cộng đồng. Nhiều tờ
báo dù đứng đắn về ngôn từ nhưng thiếu dũng cảm để nêu ra sự thực, bênh vực kẻ thế cô, tranh đấu cho công lý, hoá giải những mâu thuẫn và
xung đột thay vì chạy theo thị hiếu hay “tránh voi chẳng xấu mặt nào”. Một số người cầm bút thiếu trách nhiệm, phỉ báng những ai không ưa
một cách vô tội vạ và bằng những ngôn từ khiếm nhã, làm lu mờ đi niềm tin vào sự tử tế và tầm quan trọng của nhân cách.
Khi chúng ta còn nghèo “vốn xã hội” thì cộng đồng chúng ta chưa thể hoà mình vào với đại khối là xã hội Hoa Kỳ. Chúng ta lại cũng
chưa phải là tấm gương sáng cho những đồng bào khao khát dân chủ ở quê nhà. Để xây dựng cộng đồng lành và mạnh, chúng ta cần ráo riết
tích luỹ vốn xã hội.
Chỉ số phát triển con người
Chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI) là chỉ số so sánh, định lượng về mức thu nhập, tỷ lệ biết chữ, tuổi
thọ và một số nhân tố khác của các quốc gia trên thế giới. HDI giúp tạo ra một cái nhìn tổng quát về sự phát triển của một quốc gia.
Chỉ số này được phát triển bởi một kinh tế gia người Pakistan là Mahbub ul Haq vào năm 1990
1. Quan điểm phát triển con người
Phát triển con người chính là, và phải là, sự phát triển mang tính nhân văn. Đó là sự phát triển vì con người, của con người và do con
người.
Quan điểm phát triển con người nhằm mục tiêu mở rộng cơ hội lựa chọn cho người dân và tạo điều kiện để họ thực hiện sự lựa chọn đó
(có nghĩa là sự tự do). Những lựa chọn quan trọng nhất là được sống lâu và khỏe mạnh, được học hành và có được một cuộc sống ấm no.
Năm đặc trưng của quan điểm phát triển con người là:
1. Con người là trung tâm của sự phát triển.
2. Người dân vừa là phương tiện vừa là mục tiêu của phát triển.
3. Việc nâng cao vị thế của người dân(bao hàm cả sự hưởng thụ và cống hiến).
4. Chú trọng việc tạo lập sự bình đẳng cho mọi người dân về mọi mặt: tôn giáo, dân tộc, giới tính, quốc tịch

5. Tạo cơ hội lựa chọn tốt nhất cho người dân về: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa
2. Cách tính HDI
HDI là một thước đo tổng quát về phát triển con người. Nó đo thành tựu trung bình của một quốc gia theo ba tiêu chí sau:
1. Sức khỏe: Một cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh, đo bằng tuổi thọ trung bình.
2. Tri thức: Được đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các cấp giáo dục (tiểu học, trung học, đại học).
3. Thu nhập: Mức sống đo bằng GDP bình quân đầu người.
HDI là số trung bình cộng của các số sau:
- Chỉ số tuổi thọ trung bình
Chỉ số tuổi thọ trung bình =
Tuổi thọ trung bình - 25
85 - 25
- Chỉ số học vấn
2/3 tỉ lệ số người lớn biết chữ cộng với 1/3 số học sinh tuyển vào chia số học sinh trong cả nước.
- Chỉ số GDP bình quân đầu người
(GDP tính theo phương pháp sức mua tương đương qui ra dollar Mỹ): Chỉ số thu nhập đầu người =
1. Khái niệm phát triển
 Xuất hiện đầu TK 20 sau chiến tranh thế giới thứ I
 Những năm 1930 ngýời ta sử dụng khái niệm này chỉ nhằm phát triển kinh tế.
 Những năm 1980 – 1990 ngýời ta quan tâm nghiên cứu các nýớc nghèo và sự chậm phát triển của nó
1. Khái niệm phát triển (tt)
 Theo từ điển Xã hội học
- Phát triển là:
+ Mở rộng lực lýợng sản xuất
+ Sự công bằng về cõ may
 Theo quan niệm của Tibon
- Phát triển là:
+ Sự phân chia lại kinh tế để đạt đýợc tiến bộ xã hội
+ Thanh toán nạn thất nghiệp, xóa đói giảm nghèo
1. Khái niệm phát triển (tt)
 Quan điểm của Brado – Smith

 Phát triển là sự thay đổi trong cõ cấu xã hội bao gồm những nhóm có nhu cầu và nguyện vọng khác nhau đýợc thỏa mãn và đảm bảo
những điều kiện tốt hõn về mặt vật chất và tinh thần.
 Quan điểm của Nohlen/Nuscheler
 Phát triển là sự mở rộng của LLSX nhằm cung cấp cho xã hội những vật liệu cần thiết để đảm bảo sự công bằng và tham gia vào các
quyết định
2. Một số tiêu chí đánh giá sự phát triển và kém phát triển của một quốc gia
2.1. Kinh tế
 K. Marx va F. Engels cho rằng:
 Kinh tế là yếu tố hàng đầu của sự phát triển xã hội
 Kinh tế là tiêu chí đánh giá sự phát triển của một đất nýớc.
 Tăng trýởng kinh tế là một phýõng tiện cõ bản để có đýợc sự phát triển.
2.1. Kinh tế (tt)
 Sự tăng trýởng kinh tế đýợc thể hiện qua những khía cạnh sau:
 Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
 Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
 Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI)
2.2. Xã hội
 Giáo dục, Y tế, Việc làm, Nhà ở ….
 Sự phát triển thể hiện ở chổ: nâng cao dân trí, nâng cao chất lýợng nguồn lao động, tăng tuổi thọ của ngýời dân thể hiện: giảm thiểu tối
đa tỷ lệ tử vong của trẻ sõ sinh, nâng cao tuổi thọ của ngýời già, thực hiện tốt vấn đề an sinh xã hội …
2.2. Xã hội
 Chỉ số phát triển con ngýời (HDI)
 Phát triển con ngýời chính là, và phải là, sự phát triển mang tính nhân vãn. Ðó là sự phát triển vì con ngýời, của con người và do con
người.
 Quan điểm phát triển con người nhằm mục tiêu mở rộng cõ hội lựa chọn cho ngýời dân và tạo điều kiện để họ thực hiện sự lựa chọn ðó
2.2 Xã hội
 Nắm đặc trưng của quan điểm phát triển con người là:
 Con ngýời là trung tâm của sự phát triển.
 Ngýời dân vừa là phýõng tiện vừa là mục tiêu của phát triển.
 Việc nâng cao vị thế của ngýời dân(bao hàm cả sự hýởng thụ và cống hiến).

 Chú trọng việc tạo lập sự bình ðẳng cho mọi ngýời dân về mọi mặt: tôn giáo, dân tộc, giới tính, quốc tịch
 Tạo cõ hội lựa chọn tốt nhất cho ngýời dân về: kinh tế, chính trị, xã hội, vãn hóa
2.2 Xã hội
 Chỉ số đánh giá sự phát triển của một quốc gia:
 Tuổi thọ
 Trình độ văn hóa(thành quả giáo dục)
 Thu nhập thực tế theo đầu người
 Sự phát triển của xã hội còn ðýợc thể hiện qua sự công bằng về cõ may mà cụ thể là sự nâng cao vai trò, vị thế của ngýời phụ nữ.
3. Môi trýờng thiên nhiên
 Thể qua việc bảo vệ môi trýờng: môi trường nước, không khí, đất…
 Thông qua các hành động cụ thể : khai thác đi đôi với cải tạo, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên, kiểm soát, xử lý chất thải…
4. Thể chế chính trị
 Không ngừng hoàn thiện các thể chế chính trị, mở rộng dân chủ, củng cố tăng cýờng hiệu lực của bộ máy nhà nýớc,
 Xây dựng một thể chế chính trị trong sạch.
 Xây dựng và phát triển bộ máy nhà nýớc công bằng, dân chủ, văn minh.
Phát triển bền vững
 Tiền đề lịch sử:
 Ý týởng bền vững xuất hiện từ sớm nhýng đầu tk 20 mới đýợc chuyển hóa thành các khái niệm và cao hõn là hành động, phong trào xã
hội
 Năm 1951 UNESCO đã xuất bản một tài liệu đáng lýu ý với tiêu đề “ Thực trạng bảo vệ môi trýờng thiên nhiên trên thế giới vào những
năm 50”.
 Thuật ngữ phát triển bền vững xuất hiện lần đầu tiên vào những năm 1980 trong tác phẩm chiến lýợc bảo tồn thế giới.
3. Phát triển bền vững
 Khái niệm này đýợc phổ biến rộng rãi vào những năm 1987 nhờ báo cáo Brundtland của ủy ban môi trýờng và phát triển thế giới.
 Cho đến ngày nay khái niệm này không còn xa lạ với nhiều ngýời và đang là mục tiêu hýớng tới của nhiều quốc gia trên thế giới.
1. Công bằng xã hội
• Công bằng xã hội là động lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao và bền vững.
• Công bằng xã hội là điều kiện để phát triển con ngýời, phát triển nguồn nhân lực cho quốc gia.
• Một xã hội bất công sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế, gây bất ổn trong xã hội và khai thác tài nguyên thiên nhiên bất hợp lý.
Công bằng trong phát triển bền vững

• Công bằng trong phát triển bền vững là đảm bảo cho sự phát triển đồng bộ cả 3 mục tiêu: KT – XH – MT.
• Việc phát triển hài hòa cả 3 mục tiêu cuối cùng đều nhằm vào mục tiêu chung là phát triển con ngýời.
• Phát triển nếu không dựa vào 3 nhân tố kể trên sẽ dẩn đến tình trạng bất công trong quá trình phát triển
• XH nào chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế mà bỏ qua vấn đề môi trýờng thì xã hội thì đó chýa thể coi là phát triển bền vững mà đó chỉ
là sự tăng trýởng. tăng lên thuần túy.
2. Điều kiện cần thiết để PT bền vững
• Phát triển bền vững = Phát triển KT + Công bằng xã hội + Bảo vệ môi trýờng.
• Phát triển bền vững bao gồm: Mơi trýờng bền vững, xã hội bền vững, kinh tế bền vững.
• Theo ơng Vũ Quốc Tuấn – ban nghiên cứu Thủ týớng, phát triển bền vững phải thực hiện 6 nội dung:
 Tăng trưởng kinh tế với tốc độ nhanh
 Tăng trưởng kinh tế đi đơi với giải quyết các vấn đề xã hội
 Bảo vệ và cải thiện mơi trýờng
 Phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học và cơng nghệ
 Bảo đảm tự do dân chủ
 Phát triển con người
CHUN ĐỀ 3: Vốn con người và vốn vật chất giống nhau và khác nhau như thế nào? Cách tốt nhất để xây dựng vốn con người
cho một nước là gì? Làm thế nào để các nước để các nước có thể xây dựng vốn xã hội cho mình?
• Vốn con người và vốn vật chất
• Cách thức để xây dựng vốn con người cho một quốc gia
• Vốn xã hội và cách thức để các nước xây dựng vốn xã hội.
1. Vốn vật chất và vốn con người
1.1 Các khái niệm:
- Vốn vật chất:
Vốn vật chất (physical capital) nói đến các vật thể hiện hữu : là tài sản vật chất hữu hình bao gồm máy móc, thiết bò, dự trữ hàng
hóa và ngun liệu thơ, vốn tư bản…
1.1 Các khái niệm:
- Vốn con người (human capital):
+ Để chỉ tồn bộ hiểu biết của con ngýời về phýõng thức tiến hành các hoạt ðộng sản xuất. Ðýợc hình thành thơng qua việc ðầu tý cho
ngýời lao ðộng, bao gồm các khoản chi dùng vào các mặt giáo dục, bồi dýỡng kĩ thuật, bảo vệ sức khoẻ, lưu chuyển sức lao ðộng trong nýớc,
di dân nhập cảnh, trong ðó quan trọng nhất là ðầu tý giáo dục và bảo vệ sức khoẻ.

+ Vốn con người là tồn bộ các kỹ năng của một cá nhân đó là học vấn, sự thơng minh, chăm chỉ, uy tín, tính sáng tạo, kinh nghiệm
làm việc N là tất cả những gì mà một người còn lại nếu bò týớc đi tất cả tài sản, cơng việc, tiền bạc, nhà ở, các tài sản khác.
1.2 So sánh vốn vật chất và vốn con người
• * Giống nhau:
• - Đều có tính sản xuất.
- Bò “hao mòn” và được thay thế theo thời gian.
- Cùng tồn tại trong một lực lượng sản xuất.
1.2 So sánh vốn vật chất và vốn con người
* Khác nhau:
1.3 Mối quan hệ giữa vốn vật chấtvà vốn con người
- VCN chỉ có kết hợp với vốn vật chất mới có thể hình thành lực lýợng sản xuất hiện thực; hai thứ đó lại có thể thay thế lẫn nhau ở mức
độ nhất định.
- Cả 2 yếu tố có mối quan hệ biện chứng.
Sơ đồ mối quan hệ
2. Cách thức để các nước xây dựng vốn con người.
- Phát triển, đầu tư cho giáo dục, đào tạo đi kèm với chiến lược phát triển đúng đắn. Tạo điều kiện cho người dân tiếp cận giáo dục, khoa
học, kỹ thuật, thông tin; chế độ thu hút và đãi ngộ nhân tài
• - Chăm sóc y tế: Các chương trình tiêm chủng cho trẻ em. Chăm sóc sức khỏe ban đầu, nâng cao chất lượng dân số
3. Vốn xã hội và cách thức để các nước xây dựng vốn xã hội.
3.1 Lòch sử thuật ngữ “Vốn xã hội”
- Ở phýõng Tây, khái niệm “vốn xã hội” (social capital) được Lyda Judson Hanifan xác định: “ những giá trị hiện thực đó có
tác dụng lên hầu hết cuộc sống hàng ngày của con ngýời” (those tangible substance [that] count for most in the daily lives of people).
- Nãm 1961, Jane Jacob phân tích và thảo luận về vốn xã hội trong mối týõng quan của ðời sống ở thành phố. Sau đó khái niệm này
thực sự bị lãng qn và lác đác được một số học giả đề cập đến trong các năm 1950, 1960 và 1970
- “Vốn xã hội” chính thức ra đời năm 1972
- Nãm 1983, Pierre Bourdieu soạn hẳn ra một lý thuyết riêng về VXH. James S. Coleman phát triển lý thuyết thành một nội dung giáo
dục về nguồn vốn xã hội.
- Thực sự khái niệm này chỉ được nhiều ngýời quan tâm và bàn luận sau các cơng trình nổi tiếng của Coleman cuối các năm 1980 đầu
1990 và Putnam (1993, 1995).
3.2 Khái niệm:

- Vốn xã hội là những gì nối kết con ngýời lại với nhau tạo nên hợp quần. Nó có ba chiều kích:
+ Cơ cấu.
+ Quan hệ.
+ Tri thức.
- VXH đề cập tới các mạng lưới và các mối quan hệ kích thích lòng tin và sự tác động qua lại lẫn nhau, tạo ra chất lýợng và số lýợng
các mối tương tác xã hội. Mức độ của VXH có ảnh hýởng quan trọng tới một loạt các q trình phát triển.
- Theo định nghĩa của Ngân Hàng Thế Giới thì vốn xã hội là những gì liên quan đến các cõ sở, các mối quan hệ và những giá trị truyền
thống. Tất cả cùng hợp sức tạo nên chất lượng và số lượng của thành phẩm làm nên bởi sự tương giao hợp tác trong xã hội… Vốn xã hội
khơng phải chỉ đơn thuần là sự tổng hợp những khối lýợng vật chất của xã hội mà là chất keo làm dính chặt những khối lýợng tài sản xã hội
nầy lại với nhau.
- Vốn xã hội:
- Cohen và Prusak (2001) định nghĩa: “Vốn xã hội bao gồm phần lớn sự hợp tác xây dựng giữa những con ngýời với nhau: Sự tin
týởng, sự hiểu biết lẫn nhau, và sự chia sẻ những giá trị đạo đức, phong cách nối kết những thành viên trong các tập đồn, các cộng
đồng lại với nhau làm cho việc phối hợp hành động có khả năng thực hiện được”.
3.3 Cách tiếp cận về vốn xã hội:
+ Cách tiếp cận vi mơ nhấn mạnh đến bản chất và các hình thức của ứng xử hợp tác.
+ Cách tiếp cận vĩ mơ nhấn mạnh đến các điều kiện (thuận lợi và bất lợi) cho hợp tác, đến giá trị của hội nhập và cố kết xã hội; nó nhấn mạnh
đến mơi trýờng xã hội, các thể chế, cấu trúc xã hội và chính trị truyền đạt các giá trị và các chuẩn mực tạo điều kiện cho ngýời dân tham gia
hoạt động xã hội và cơng dân;….
+ Cách tiếp cận trung gian (meso) nhấn mạnh các kết cấu cho phép hợp tác xảy ra
3.4 Cách thức để các nước xây dựng vốn xã hội.
- Tầm vó mô: cơ chế chính sách, luật…
• Khai thác mọi tiềm năng truyền thống về con ngýời và xã hội, về đạo đức, văn hóa của dân tộc để bồi đắp dần một nguồn vốn xã hội là
hết sức cần thiết.
• Cùng với tiến trình dân chủ hóa đất nýớc, cần tạo mọi điều kiện và mơi trýờng thuận lợi cho sự hình thành và phát triển một xã hội dân
sự thực sự, cũng là cho việc làm giàu thêm vốn xã hội của đất nýớc
- Tầm trung mô: vai trò của các thiết chế: gia đình, nhà trường, các hội, đoàn và tổ chức xã hội
- Tầm vi mô: bản thân mỗi cá nhân phải tự trang bò cho mình kiến thức, kỹ năng, lối sống, tinh thần học hỏi và cộng tác…
CHUN ĐỀ 2: Những điều kiện cần thiết để phát triển bền vững là gì? Tại sao công bằng lại là yếu tố quan trọng đối với sự
phát triển bền vững?

• Những điều kiện cần thiết để phát triển bền vững.
• Công bằng là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển bền vững.
• Những điều kiện cần thiết để phát triển bền vững:
* Phạm vi quốc gia
- Xây dựng vốn con người: đầu tư giáo dục, y tế…
- Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, trong đó đảm bảo công bằng, dân chủ…
- Yếu tố cơ chế chính sách, đường lối chủ trương của nhà nước: hiệu quả, toàn diện, có trọng tâm trong từng giai đoạn…
- Năng lực quản lý.
2. Công bằng là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển bền vững
2.1 Khái niệm công bằng:
Nội dung cơ bản nhất của cơng bằng xã hội là xử lý hợp lý nhất quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ trong điều kiện, hồn cảnh
nhất định. Để phản ánh được nội dung cơ bản này, các nhà kinh tế hiện nay thường sử dụng hai khái niệm về công bằng:
- Cơng bằng theo chiều ngang: đối xử như nhau với người có đóng góp như nhau
- Cơng bằng theo chiều dọc: đối xử khác nhau với người có khác biệt bẩm sinh hoặc có điều kiện xã hội khác nhau (do khả năng
và kĩ năng lao động khác nhau, cường độ làm việc khác nhau, sự khác nhau về nghề nghiệp, sự khác nhau về giáo dục đào tạo, thừa kế
và chiếm hữu tài sản khác nhau, gánh chịu rủi ro khác nhau.)
- Theo Francois Bourguignon-lý thuyết gia của WB : “Cơng bằng đýợc định nghĩa là cơng bằng trong các cõ hội. Đó là sự cơng
bằng trýớc khi ngýời ta có thể đýợc biết một hoạt động kinh tế sẽ đem đến kết quả gì. Đó là việc dân chúng đýợc đến với các cơng cụ kinh tế
nhý tín dụng, đýợc tiếp cận các dịch vụ giáo dục, y tế, đýợc býớc vào thị trýờng lao động mà khơng bị phân biệt đối xử Cơng bằng cần đýợc
xem nhý là yếu tố chủ yếu của mọi sách lýợc giảm nghèo”.
2.2 Công bằng là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển bền vững
Tầm quan trọng của công bằng thể hiện ở mục tiêu và hiệu quả của nó đối với xã hội.
Cơng bằng xã hội là mục tiêu cốt lõi của chính sách xã hội, nhằm hýớng tới ổn định xã hội, khơng ngừng nâng cao chất lýợng mọi mặt
của đời sống nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nýớc.
- Cơng bằng sẽ phát huy nhân tài, là động lực thúc đẩy sự đóng góp nhiều hõn của ngýời dân.
- Công bằng giúp cho mọi công dân có cơ hội tiếp cận nguồn lực xã hội (giáo dục, việc làm, y tế…), từ đó được tăng năng lực.
Phát triển bền vững
CHUN ĐỀ 2: Những điều kiện cần thiết để phát triển bền vững là gì? Tại sao công bằng lại là yếu tố quan trọng đối với sự
phát triển bền vững?
• Những điều kiện cần thiết để phát triển bền vững.

• Công bằng là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển bền vững.
• Những điều kiện cần thiết để phát triển bền vững:
* Phạm vi quốc gia
- Xây dựng vốn con người: đầu tư giáo dục, y tế…
- Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, trong đó đảm bảo công bằng, dân chủ…
- Yếu tố cơ chế chính sách, đường lối chủ trương của nhà nước: hiệu quả, toàn diện, có trọng tâm trong từng giai đoạn…
- Năng lực quản lý.
2. Công bằng là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển bền vững
2.1 Khái niệm công bằng:
Nội dung cơ bản nhất của cơng bằng xã hội là xử lý hợp lý nhất quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ trong điều kiện, hồn cảnh
nhất định. Để phản ánh được nội dung cơ bản này, các nhà kinh tế hiện nay thường sử dụng hai khái niệm về công bằng:
- Cơng bằng theo chiều ngang: đối xử như nhau với người có đóng góp như nhau
- Cơng bằng theo chiều dọc: đối xử khác nhau với người có khác biệt bẩm sinh hoặc có điều kiện xã hội khác nhau (do khả năng
và kĩ năng lao động khác nhau, cường độ làm việc khác nhau, sự khác nhau về nghề nghiệp, sự khác nhau về giáo dục đào tạo, thừa kế
và chiếm hữu tài sản khác nhau, gánh chịu rủi ro khác nhau.)
- Theo Francois Bourguignon-lý thuyết gia của WB : “Cơng bằng đýợc định nghĩa là cơng bằng trong các cõ hội. Đó là sự cơng
bằng trýớc khi ngýời ta có thể đýợc biết một hoạt động kinh tế sẽ đem đến kết quả gì. Đó là việc dân chúng đýợc đến với các cơng cụ kinh tế
nhý tín dụng, đýợc tiếp cận các dịch vụ giáo dục, y tế, đýợc býớc vào thị trýờng lao động mà khơng bị phân biệt đối xử Cơng bằng cần đýợc
xem nhý là yếu tố chủ yếu của mọi sách lýợc giảm nghèo”.
2.2 Công bằng là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển bền vững
Tầm quan trọng của công bằng thể hiện ở mục tiêu và hiệu quả của nó đối với xã hội.
- Cơng bằng xã hội là mục tiêu cốt lõi của chính sách xã hội, nhằm hướng tới ổn định xã hội, khơng ngừng nâng cao chất lýợng mọi
mặt của đời sống nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước.
- Cơng bằng sẽ phát huy nhân tài, là động lực thúc đẩy sự đóng góp nhiều hõn của ngýời dân.
- Công bằng giúp cho mọi công dân có cơ hội tiếp cận nguồn lực xã hội (giáo dục, việc làm, y tế…), từ đó được tăng năng lực.
Phát triển bền vững

Khái Niệm Về Vốn Xã Hội
Khi nói về vốn liếng, người ta thường nghĩ ngay đến những giá trị vật chất cụ thể mà người sở hữu có thể nhìn
thấy, cất giữ hay cân, đo, đong, đếm được. Những giá trị phi vật thể, đặc biệt là những giá trị tinh thần tạo nên

bản sắc đặc thù của một quốc gia, một xã hội, một dòng họ hay một con người được coi như những “bẩm tính
trời sinh”, bị chìm khuất sau biên cương và hào lũy truyền đời của lịch sử và văn hóa.
Từ trong nếp nghĩ theo thói quen và cảm tính, VXH thường bị xem hay được xem là một hệ thống giá trị
mặc nhiên (taking for granted value system), mỗi người sinh ra là đã có nó như khí trời, thiên nhiên cây cỏ.
Thật ra, nguồn vốn to lớn và quan trọng bậc nhất là Vốn Xã Hội (VXH). Trong cụm từ “Vốn Xã Hội” đã ngầm
chứa hai thành tố là: Vốn (capital) + Xã Hội (social).
Vậy thì Vốn Xã Hội là gì và ai là sở hữu chủ của nguồn vốn đã bén rễ, đâm chồi nẩy lộc lâu dài và phong phú
đó? Vốn Xã Hội là một thực tại đã có chung dòng lịch sử với đất nước và con người từ thuở sơ khai. Nhưng
người ta đã gọi nguồn vốn nầy theo những khái niệm và từ ngữ khác nhau.
Khái niệm về “Vốn Xã Hội” xưa nhất của người Việt Nam xuất hiện trong câu chuyện dân gian là chuyện Thằng
Bờm. Giá trị của “có” (thằng Bờm) và “đổi” (phú ông) trong câu chuyện nầy căn cứ trên nguồn “vốn” thì mờ
nhạt mà đậm nét nhất chính là cuộc trao đổi nặng tính chất tâm lý và xã hội giữa hai nhân vật có quan hệ mua
bán và trao đổi là Phú Ông và Thằng Bờm. Cái quạt mo chỉ là biểu tượng của vật chất. Thằng Bờm mới chính là
biểu tượng của xã hội và khát vọng cụ thể của con người trong xã hội đó.
Với phương Tây, khái niệm “vốn xã hội” (social capital) được Lyda Judson Hanifan, một nhà giáo dục Mỹ, nói
đến lần đầu tiên năm 1916 khi ông ta bàn đến vấn đề quan hệ trong các trường ốc ở vùng thôn dã tại Bắc Mỹ.
Để nói về vốn xã hội, ông xác định rằng: “ những giá trị hiện thực đó có tác dụng lên hầu hết cuộc sống hàng
ngày của con người” (those tangible substance [that] count for most in the daily lives of people).
Từ đó, vấn đề vốn xã hội đã được nhắc nhở, nghiên cứu, phát triển và áp dụng một cách có hệ thống và rộng
khắp trong các lĩnh vực kinh tế, giáo dục, xã hội, tâm lý… tại Mỹ, các nước phương Tây và các quốc gia kỹ nghệ
trên toàn thế giới. Năm 1961, Jane Jacob phân tích và thảo luận về vốn xã hội trong mối tương quan của đời
sống ở thành phố. Năm 1983, Pierre Bourdieu soạn hẳn ra một lý thuyết riêng về VXH. James S. Coleman phát
triển lý thuyết thành một nội dung giáo dục về nguồn vốn xã hội. Ý tưởng nầy đã được một tổ chức tài chính
lớn nhất hành tinh là Ngân Hàng Thế Giới sử dụng như một ý kiến rất hữu ích về mặt tổ chức. Ngân Hàng Thế
Giới xác định rằng: “ bằng chứng mỗi ngày một nhiều chỉ rõ rằng, sự liên kết xã hội là rất thiết yếu cho các
xã hội trong việc làm giàu mạnh kinh tế và cho việc phát triển tiến lên không ngừng”. (Increasing
evidence shows that social cohesion is critical for societies to prosper economically and for
development to be sustainable (World Bank 1999) ”.
Trong khi vốn vật chất (physical capital) nói đến các vật thể hiện hữu và vốn nhân sinh (human capital) nói đến
tài sản cá nhân thì vốn xã hội nói đến liên hệ nối kết giữa những con người. Đấy là mạng lưới xã hội với những

tiêu chuẩn giao dịch qua lại trong sự tin tưởng lẫn nhau và đồng thời đó cũng là đạo lý cư xử giữa người và
người trong xã hội. Theo định nghĩa của Ngân Hàng Thế Giới thì vốn xã hội là những gì liên quan đến các cơ sở,
các mối quan hệ và những giá trị truyền thống. Tất cả cùng hợp sức tạo nên chất lượng và số lượng của thành
phẩm làm nên bởi sự tương giao hợp tác trong xã hội… Vốn xã hội không phải chỉ đơn thuần là sự tổng hợp
những khối lượng vật chất của xã hội mà là chất keo làm dính chặt những khối lượng tài sản xã hội nầy lại với
nhau.
Nói một cách cụ thể hơn về vốn xã hội, Cohen và Prusak (2001) định nghĩa: “Vốn xã hội bao gồm phần lớn
sự hợp tác xây dựng giữa những con người với nhau: Sự tin tưởng, sự hiểu biết lẫn nhau, và sự chia
sẻ những giá trị đạo đức, phong cách nối kết những thành viên trong các tập đoàn, các cộng đồng lại
với nhau làm cho việc phối hợp hành động có khả năng thực hiện được”.
Như vậy, vốn xã hội chính là con người. Trong khi con người lại chính là sản phẩm của một hoàn cảnh xã hội
hiện hữu và phát triển trong một hoàn cảnh kinh tế, một bối cảnh lịch sử, một truyền thống văn hóa cụ thể nào
đó.
Nhìn về Vốn Xã Hội Việt Nam
Ngày 24 tháng 4 năm 2006 vừa qua, Bill Gates, chủ nhân công ty Microsoft và cũng là người giàu nhất thế giới
với gia tài xấp xỉ 53 tỷ đô la Mỹ, đến thăm Việt Nam. Nhân vật nầy đã được giới trẻ Việt Nam cả nước đặc biệt
quan tâm theo dõi. Đã có người tự hỏi: “Nếu Bill Gates sinh ra tại Việt Nam hay một nơi nào đó không phải là
Mỹ thì liệu một ‘Bill Gates hạt giống’ có khả năng trở thành một Bill Gates thành công lẫy lừng như hôm nay
không? Tuy đây chỉ là câu hỏi giả định, nhưng câu trả lời dĩ nhiên là “không!” và câu hỏi tiếp sẽ là “Tại sao?”
Câu trả lời đơn giản nhất sẽ là: “Vì Mỹ khác, ta khác. Mỹ có nhiều phương tiện kinh doanh và điều kiện thuận
lợi nghiên cứu kỹ thuật và tham khảo thị trường mà ta không có ” Thế thì có người lại hỏi, một nhân vật Mỹ
nổi tiếng khác cũng đã đến thăm Việt Nam, cựu tổng thống Mỹ Bill Clinton, có một người em trai cùng cha khác
mẹ, lớn lên trong cùng một mái ấm gia đình, suýt soát tuổi nhau là Roger Clinton lại trở thành một tay lêu lổng,
bị tù tội vì ghiền xì ke, ma túy. Như vậy có hai Clintons trái ngược nhau trong cùng một hoàn cảnh. Clinton
anh là vốn xã hội đáng quý và Clinton em là cục nợ xã hội đáng thương hại.
Trên đây là thí dụ cụ thể về mối tương quan và sự tác động qua lại giữa con người và hoàn cảnh. Đây là cả một
sự tương tác về cả ba mặt: Vật chất, tinh thần, hoàn cảnh riêng, chung. Bởi vậy, phương pháp luận cũng như
dữ kiện về các mặt nhân sinh và môi trường xã hội thường là những đối tượng rất phức tạp trong việc đo lường
hay phân tích nguồn vốn xã hội.
Các nhà nghiên cứu phải lưu ý đến ba định mức của vốn xã hội: (1) Mức độ vốn xã hội vi mô (micro-level social

capital), (2) mức độ vốn xã hội trung mô (Meso-level social capital), và (3) mức độ vốn xã hội vĩ mô (macro-
level social capital). Ba định mức nầy liên quan đến: (1) Cá nhân, (2) gia đình, trường học, cơ quan, đoàn thể,
xí nghiệp, và (3) xã hội, đất nước và toàn cầu. Mối liên hệ hữu cơ là: (1) Nếu cá nhân không được chuẩn bị kỹ
càng; (2) nếu nghiệp vụ không được đào tạo, huấn luyện nghiêm túc; (3) kết quả sẽ tạo ra là những thành viên
xã hội có chất lượng nghèo nàn và hệ quả tất yếu là sẽ làm cho nguồn vốn xã hội suy thoái hay khánh tận.
Công trình nghiên cứu về vốn xã hội gần đây nhất của Robert D. Putnam (1993; 2000) nhấn mạnh về sự hợp
tác hai chiều và nhiều chiều của các thành viên trong xã hội. Ông cho rằng sự hợp tác và chia sẻ giữa các thành
viên xã hội với nhau là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc xây dựng vốn xã hội. Từ đó, Putnam cũng báo
động nguy cơ về sự xuống dốc của nguồn vốn xã hội tại Mỹ. Nguyên nhân chính là vì chủ nghĩa cá nhân
(individualism) ngày một chiếm thế mạnh và trẻ em chỉ sống với cha hay mẹ một mình do tình trạng ly dị gia
tăng làm cho tinh thần hợp tác xã hội yếu dần.
Nhìn lại vốn xã hội Việt Nam , cảm nhận tức thời trước khi đưa lên bàn cân tính toán là nước ta và dân ta có một
nguồn vốn xã hội phong phú được tích lũy qua “bốn nghìn năm văn hiến”. Nếu đem các tiêu chí điển hình nhất
của khái niệm vốn xã hội cơ bản như truyền thống đạo lý, phong cách xử sự hợp tác làm ăn nghiêm túc, đáng
tin cậy, giàu tinh thần hợp tác và chia sẻ, có tay nghề vững vàng trong lĩnh vực chuyên môn… thì đất nước và
con người Việt Nam xưa nay không thiếu. Nguồn vốn xã hội Việt Nam , do đó, sẽ rất nhiều. Nếu không có
nguồn vốn xã hội giàu có làm căn bản cho sự sống còn và vươn lên của đất nước và con người Việt Nam thì có lẽ
nước Việt Nam đã bị đồng hóa hay biến mất giữa những thế lực xâm lăng cường bạo đến từ mọi phía trong
những nghìn năm qua. Nhưng nếu xin tạm gác lại niềm tự hào dân tộc để nhìn vào thực tiễn cuộc sống của dân
ta trong dòng sinh mệnh của đất nước và trong bối cảnh lịch sử thế giới thì ta thấy được những gì?
Phải chăng nguồn vốn xã hội của Việt Nam trong bao nhiêu năm qua đã được tận dụng đem làm vũ khí chống
xâm lăng? Nguồn vốn quan trọng đó bây giờ đang cạn kiệt hay vẫn còn dự trữ tràn đầy dưới dạng tiềm năng?
Căn bản để tạo ra nguồn vốn xã hội là con người. Phẩm chất của con người Việt Nam không thua sút bất cứ
dân tộc nào trong cùng hoàn cảnh địa dư và lịch sử. Trong những trường đại học Mỹ mà người viết bài nầy có
dịp giảng dạy, sự thể hiện rất rõ ràng là sinh viên Việt Nam, thuộc cả hai thế hệ trẻ từ quê nhà sang du học hay
sinh ra và lớn lên tại Mỹ đều không thua kém mảy may sinh viên của bất cứ nước nào, nhất là đối với sinh viên
châu Á như Nhật, Trung Quốc, Đại Hàn, Singapore… Thế nhưng trong thực tế đất nước, về mặt chuyên môn và
khả năng khai phá, sáng tạo trong khoa học, kỹ thuật để tạo ra những sản phẩm kỹ nghệ hiện đại, chúng ta vẫn
còn bị giới hạn và tụt hậu so với họ? Vốn xã hội hiện nay của đất nước ta có đủ phẩm chất và lượng dự trữ để
đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường hay không? Đấy vẫn còn là những vấn đề cần được

nghiên cứu một cách khách quan và khoa học mới có thể tìm ra câu trả lời thích đáng.
Kết Luận
Vốn xã hội là một khái niệm tương đối còn mới mẽ trong sinh hoạt kinh tế đậm tính truyền thống và kế thừa của
người Việt chúng ta. Khi nói về nguồn vốn, người ta quen nói đến nguồn vốn vật chất hữu hình và cụ thể
(tangible). Còn nguồn vốn xã hội là một giá trị phi vật thể (intangible) nên người ta mơ hồ thấy nó “ở đâu đó”
qua những biểu hiện “tài năng” cá nhân có tính chất tiểu xảo và tiểu thương theo kiểu: “nói dẽo quẹo như mẹo
con buôn…”! Lenkowsky (2000) đã chứng minh rằng xã hội càng kém phát triển, sức mạnh kinh tế càng yếu thì
nguồn vốn xã hội càng dễ bị quên lãng. Nguồn vốn xã hội là một tiến trình hình thành và đầu tư lâu dài chứ
không xuất hiện cụ thể và nhanh chóng trong đời sống như “mì ăn liền”. Tuy nhiên, Putnam cũng đưa ra một
“kính chiếu yêu” để nhìn vào và nhận biết những vùng đang có nguồn vốn xã hội cao hơn… khi “những nơi công
cộng sạch sẽ hơn, con người thân thiện, đáng tin cậy hơn, và đường sá an toàn hơn.
Sự phát triển kinh tế thường đi song song với sự cải thiện đời sống về mặt vật chất. Nhưng một vùng đất nào
đó rất giàu có về vật chất thuần túy mà thiếu vắng vốn xã hội. Nghĩa là thiếu đi chiều sâu văn hóa và chiều cao
nhân văn thì đấy cũng chỉ là một hình thức phồn vinh thô thiển mà người xưa gọi là “trọc phú” (thanh bần hơn
trọc phú) hay theo mắt nhìn của quần chúng bình dân là “giàu mà không sang”. Hình ảnh của những vùng đất
giàu vốn vật chất mà nghèo vốn xã hội thường xuất hiện trong những vùng kinh tế “nước nổi”. Nếu có dịp ghé
đến những vùng kinh tế quanh các khu quân sự, hầm mõ hay hảng xưởng khai thác kinh doanh tạm thời ở Phi
Luật Tân, Panama , Trung đông, Nam Phi… sẽ thấy rõ hình ảnh “giàu mà không sang” nầy xuất hiện nhan nhản.
Theo Sennett, R. (1998) thì “Dấu hiệu báo động đầu tiên của sự suy thoái nguồn vốn xã hội là số người
phát giàu mà không làm gì cả hay kiếm lợi bất chính một cách công khai càng lúc càng đông và
khoảng cách giữa những người nghèo lương thiện và những người giàu gian manh mỗi ngày một
lớn”.
Các nhà nghiên cứu về nguồn vốn xã hội trong tương quan kinh tế đều đồng ý với nhau rằng, một nền kinh tế
lành mạnh trong một đất nước có kỷ cương và văn hiến không thể nào thiếu vắng nguồn vốn xã hội. Friedland
(2003) đã nêu dẫn trường hợp các nước châu Mỹ La Tinh và sự èo uột của vốn xã hội. Giới lãnh đạo và thân
hào nhân sĩ trong vùng thường vinh danh tinh thần địa phương và lòng tự hào nhân chủng một cách quá bảo
thủ và cực đoan đến độ lơ là không quan tâm đúng mức đến sự un đúc, nuôi dưỡng và phát triển nguồn vốn xã
hội. Hậu quả là sự thiếu hợp tác giữa những thành viên xã hội và các thế lực đầu tư đã đưa đến quan hệ một
chiều và dẫn đến chỗ vốn xã hội bị phá sản. Các nhà kinh doanh đầu tư nản lòng lui bước. Thay vì hợp tác
song phương trong tinh thần ngay thẳng, bình đẳng và danh dự thì lại biến tướng thành quan hệ “đút” (bribe)

và “đớp” (being bribed) trong mối quan hệ bệnh hoạn của hối lộ và tham nhũng. Kết quả là hơn một thế kỷ
qua, các nước nghèo vẫn nghèo. Dân chúng vẫn lầm than; nền kinh tế các nước trong vùng rất giàu tài nguyên
nhưng vẫn kiệt quệ vì giới tài phiệt sử dụng nhân lực và tài nguyên đất nước để làm giàu cho riêng cá nhân, gia
đình và dòng họ của mình rồi tìm cách chuyển tiền của và gửi con cháu của mình ra nước ngoài du học và lập
nghiệp.
Kẻ thù dai dẳng nhất của quá trình tích lũy, phát triển nguồn vốn xã hội là tham nhũng. Bởi vậy, vốn xã hội và
tham nhũng có mối quan hệ nghịch chiều với nhau: Nạn tham nhũng càng bành trướng, vốn xã hội càng co lại.
Khi tham nhũng trở thành “đạo hành xử” hàng ngày thì cũng là lúc vốn xã hội đang trên đà phá sản.
Nếu chỉ có ánh sáng mới có khả năng quét sạch hay đuổi dần bóng tối thì cũng Tương tự như thế, vốn xã hội
được tích lũy càng cao, nạn tham nhũng càng có hy vọng bị đẩy lùi dần vào quá khứ.
Thử nhìn lại vốn xã hội Việt Nam trong tương quan nguồn vốn xã hội của thế giới, chúng ta mới thấy rõ được
đâu là thế mạnh và thế yếu của mình. Nhìn rõ mình không phải để thỏa mãn hay nản lòng dễ dãi nhất thời mà
để cầu tiến bộ; để sửa đổi và điều chỉnh kịp thời trước sự đòi hỏi như một xu thế tất yếu của thời đại toàn cầu
hóa. Sẽ không bao giờ muộn màng, cũng như chẳng bao giờ quá sớm để gây vốn xã hội, vì vốn xã hội là xương
sống của đời sống kinh tế và nhân văn cho đất nước hôm nay và cho thế hệ đàn em mai sau.
Phát Triển Bền Vững ( Sustainable Development )
"Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm đáp ứng được nhu cầu hiện tại và đảm bảo không làm tổn
thương khả năng đáp ứng đòi hỏi của thế hệ tương lai "
"Sustainable development is development that meets the needs of the present without
compromising the ability of future generations to meet their own needs " (WCED)
Trái ngược với hiểu biết phổ biến, phát triển bền vững không chỉ đơn thuần được hiểu là sự phát triển được duy trì một cách liên tục mà hơn
thế phát triển ở đây là sự nỗ lực liên tục nhằm đạt được trạng thái bền vững trên mọi lĩnh vực. Phát triển bền vững không được coi là một
mục tiêu được đặt ra để đạt được mà đó là một quá trình duy trì sự cân bằng cơ học của đòi hỏi của con người với tính công bằng, sự phồn
vinh, chất lượng cuộc sống và tính bền vững của môi trường tự nhiên.
Phát Triển Bền Vững ngày càng trở thành trung tâm của sự phát triển trong mọi lĩnh vực khi xã hôi bước vào thế kỉ 21. Vấn để ô nhiễm môi
trường từng ngày trở thành vấn đề đáng lưu tâm song song với sự đi lên nhanh chóng của nền kinh tế. Thu nhập của người dân ngày càng
được cải thiện, mức sống được nâng dần lên cả ở thành thị lẫn nông thôn, trong khi đó khoảng cách giàu nghèo trong xã hội cũng tăng lên rõ
rệt.
Vì vậy phát triển bền vững sẽ giúp mọi người trong xã hội đều có quyền bình đẳng và luôn gắn phát triển kinh tế với bảo vệ và nâng cao chất
lượng môi trường.

Phát triển bền vững bao gồm ba thành phần cơ bản :
• Môi Trường Bền Vững
• Xã Hội Bền Vững
• Kinh tế Bền Vững
Khía cạnh môi trường trong phát triển bền vững đòi hỏi chúng ta duy trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn
tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục đích duy trì mức độ khai thác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định
cho phép môi trường tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên trái đất
Khía cạnh xã hội của phát triển bền vững cần được chú trọng vào sự phát triển sự công bằng và xã hội luôn cần tạo điều kiện thuận lợi cho
lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho tất cả mọi người cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống chấp nhận được.

×