Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Mối quan hệ giữa chủ quan và khách quan trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.97 KB, 19 trang )

1

Phần 1. MỞ ĐẦU


“Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản,
xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của
mình kết hợp với lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ
Chí Minh đã đưa ra kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể
đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho
các dân tộc” [5]. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài viết “Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam” đã khẳng định giá trị và sức sống trường tồn của Chủ nghĩa MácLênin trong thời đại ngày nay.
Khi khám phá ra các quy luật phát triển của xã hội, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chứng minh đầy thuyết phục vai trò quyết định của tồn tại xã
hội đối với ý thức xã hội, cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng. Bằng
cách đó, các ơng đã luận chứng cho cách tiếp cận duy vật vấn đề mối tương
quan giữa cái chủ quan và cái khách quan, luận chứng cho vai trò quyết định
của các điều kiện vật chất trong sự phát triển của xã hội, hình thành cơ sở lý
luận của các Đảng Cộng sản trong nhận thức và hành động, trong vai trò lãnh
đạo hoạt động kiến tạo của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng Xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, trên cơ sở nền tảng triết học Mác-Lênin, Đảng và Nhà
nước ta đã học tập, tiếp thu tư tưởng tiến bộ, đề ra những mục tiêu, phương
hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn để xây dựng và phát triển xã hội, phù hợp
với hoàn cảnh đất nước. Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, luận giải
mối quan hệ khách quan và chủ quan trong thực tiễn của con người, quán triệt
và vận dụng sáng tạo quan điểm của triết học Mác-Lênin về mối quan hệ cơ bản
giữa khách quan và chủ quan có ý nghĩa rất quan trọng. Nó giúp cho các chủ




2

thể, một mặt tránh được chủ nghĩa chủ quan, mặt khác biết cách phát huy tính
năng động chủ quan trong thực tiễn.
Vì vậy, tơi đã chọn chủ đề “Mối quan hệ giữa chủ quan và khách
quan trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay" làm đề tài của tiểu luận. Vì
đây vẫn cịn là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn chính trị nóng bỏng.
Trong quá trình làm tiểu luận, tuy bản thân đã rất cố gắng nghiên cứu và
chọn lọc để hoàn thành, song chắc chắn khơng tránh khỏi những hạn chế và
thiếu sót. Vì vậy, rất mong được sự đóng góp ý kiến của q thầy cơ để nội
dung tiểu luận hồn thiện hơn cũng như phát huy được giá trị thực tiễn của nội
dung nghiên cứu. Xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến q thầy cơ Viện Triết học,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, đặc biệt là thầy PGS.TS. Vũ Hồng
Sơn, đã truyền đạt, cung cấp kiến thức, giúp đỡ tơi trong q trình học tập và
nghiên cứu mơn học.
Trân trọng kính chào!



3

Phần 2. NỘI DUNG

1. Quan điểm triết học Mác – Lênin về mối quan hệ giữa khách quan
và chủ quan
Triết học mácxít đã giải quyết mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan
trong phạm vi hoạt động của con người, xem xét nó thơng qua mối liên hệ qua
lại giữa chủ thể và khách thể. Sự phân tích cặp phạm trù khách thể và chủ thể

được coi là xuất phát điểm cho sự phân tích cặp phạm trù khách quan và chủ
quan. Các phạm trù khách quan và chủ quan đều gắn liền với đặc trưng của chủ
thể và khách thể, cũng như những liên hệ qua lại giữa chúng.
1.1. Phạm trù chủ thể, khách thể
1.1.1. Chủ thể
Theo các nhà duy vật Macxit, Chủ thể không chỉ một cá nhân, mà còn là
một tập thể, một cộng đồng, một tổ chức, một dân tộc, một giai cấp,... với đặc
trưng cơ bản là hoạt động có ý thức, tác động vào khách thể để cải tạo thế giới
xung quanh cũng như chính bản thân mình. Chỉ có sự tác động vào thế giới
xung quanh (cả giới tự nhiên và đời sống xã hội), chỉ có thơng qua hoạt động cụ
thể của con người, con người mới bộc lộ mình với tư cách là chủ thể. Mặt khác,
tuỳ thuộc vào các cấp độ xem xét mà chủ thể có thể là lồi người, có thể là một
giai cấp, một dân tộc, một nhóm người hay một cá nhân nào đó… Nói cách
khác, con người vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, đồng thời là chủ thể sáng tạo
ra hoàn cảnh. Hoạt động của con người nhằm thể hiện sức mạnh bản chất của
nó thơng qua việc nắm và sử dụng được các công cụ, phương tiện của họat động
nhận thức và hoạt động thực tiễn mà các thế hệ trước để lại. Chủ thể không phải
là con người chung chung, trừu tượng, mà là con người cụ thể gắn liền với
những điều kiện xã hội, với kinh nghiệm và trình độ học vấn nhất định. Chủ thể
là đặc tính riêng vốn có ở con người.
1.1.2. Khách thể
Khách thể là đối tượng của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
của chủ thể. Đó là những sự vật, hiện tượng hay các quá trình cụ thể của thế


4

giới hiện thực tồn tại ở bên ngồi, khơng phụ thuộc vào ý thức của chủ thể và có
tác động qua lại với chủ thể, được chủ thể nhận thức và cải tạo nhằm mục đích
phục vụ nhu cầu của con người.

Khách thể, một mặt, được hiểu là một bộ phận vật chất được tham gia
vào hoạt động của con người; mặt khác, nó cịn bao gồm thực tại chủ quan
(quan hệ ý thức, tư tưởng…) không phụ thuộc các chủ thể, và một bộ phận sản
phẩm của họat động trước đó của chủ thể cũng tham gia và trở thành khách thể.
Khách thể luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển không ngừng.
1.1.3. Quan hệ biện chứng giữa chủ thể và khách thể
Giữa khách thể và chủ thể có mối quan hệ biện chứng với nhau, chúng
chỉ tồn tại với tư cách là chủ thể và khách thể khi làm tiền đề của nhau. Khách
thể tồn tại không phụ thuộc vào chủ thể; tuy vậy, khách thể không phải là mặt
đối lập hoàn toàn với chủ thể, mà chủ thể ln ln tích cực hoạt động cải tạo
khách thể. Trong quá trình tác động của chủ thể vào khách thể, những phẩm
chất của chủ thể được khách thể hoá.
Một điều lưu ý là mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể ở phương Đông
và phương Tây cũng khác nhau ở chỗ, một bên là đồng nhất, còn bên kia là tách
rời. Theo quan điểm của triết học Mác – Lê nin: “Khách thể và chủ thể không
tồn tại độc lập, tách rời nhau, mà chúng liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau trên
cơ sở hoạt động thực tiễn. Do đó, khách quan và chủ quan, cái khách quan và
cái chủ quan cũng không tách rời nhau”.
Như vậy, mọi sự vật, hiện tượng đều có tính khách thể, kể cả con người.
Con người không chỉ là chủ thể, mà còn là khách thể (được người khác nhận
thức, tự nhận thức về mình).
1.2. Phạm trù khách quan, chủ quan
Trong lịch sử nhân loại, hiếm có học thuyết, tư tưởng nào mà trong suốt
quá trình hình thành và phát triển lại chịu nhiều sự đả kích, xun tạc, bóp méo
của các thế lực chống đối như chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Hành trình gần hai thế
kỷ kể từ khi C. Mác, Ph. Ăng-ghen đặt nền móng đầu tiên tại Đức, V.I. Lê-nin
kế tục và phát triển tại các nước đi theo con đường Xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch


5


Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo vào hồn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam,
cho đến nay, chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn là nền tảng tư tưởng vững chắc của
các Đảng cộng sản cầm quyền, trong đó có Việt Nam. Tinh thần và phương
pháp mà lý luận kinh điển Mác-xít do C. Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin đề ra
chính là “Khách quan hóa chủ quan” gắn liền với “Chủ quan hóa khách
quan”. Đây là hai mặt của vấn đề, làm cho nhận thức của con người ngày càng
đúng đắn, phù hợp với khách quan và cũng không ngừng mở rộng phạm vi, đối
tượng của thế giới khách quan vào trong nhận thức và hoạt động của chủ thể.
1.2.1. Khách quan
Phạm trù “khách quan” dùng để chỉ tất cả những gì tồn tại độc lập, bên
ngồi và khơng lệ thuộc vào chủ thể hoạt động, hợp thành một hoàn cảnh hiện
thực, thường xuyên tác động đến việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ và phương
thức hoạt động của chủ thể đó. Khách quan là nhìn nhận sự vật, sự việc 1 cách
thực tế và không thiên vị bất kỳ gì cả, như vậy sẽ khơng ảnh hưởng đến quyết
định cuối cùng của bạn hoặc một ai đó và sẽ cho ra 1 quyết định thật sáng suốt.
Khách quan là sự vận động và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng không phụ
thuộc con người.
C. Mác cũng từng nhấn mạnh rằng “Con người và loài người sáng tạo ra
lịch sử, không phải tùy tiện, chủ quan mà tuân theo những quy luật khách quan,
do những điều kiện và hoàn cảnh khách quan quy định, chi phối và chế ước.
Con người nhận thức giới tự nhiên, khám phá các quy luật tự nhiên, chúng tác
động tự phát vào trong quá trình tự vận động, tự biến đổi của tự nhiên để tồn
tại trong môi trường tự nhiên, cải biến tự nhiên một cách có ý thức, phù hợp với
quy luật khách quan, phục vụ cho nhu cầu tồn tại và phát triển của mình, đó là
sáng tạo ra xã hội, ra lịch sử, khơng phải hư vơ, thần bí mà trên những tiền đề
vật chất nhất định. Giới tự nhiên có thể ví như cái giá đỡ vật chất, khơng có cái
nền tảng hiện thực đó, khơng thể có xã hội và lịch sử”.
Khách quan bao gồm toàn bộ khách thể, tồn bộ thế giới bên ngồi như
mơi trường thiên nhiên, tồn tại xã hội, phương thức sản xuất, những quy luật;

phần vật chất của chủ thể, thậm chí cả những ý thức, tinh thần không phải của


6

chủ thể như ý thức xã hội. Như vậy, cái khách quan bao hàm các yếu tố vật chất
và tinh thần, tự nhiên và xã hội.
Ngồi ra, chúng ta cịn phải kể đến quy luật khách quan. Triết học MácLênin luôn xác định khách quan và chủ quan căn cứ theo những chủ thể nhất
định trong mối quan hệ xác định với khách thể. Không phải mọi điều kiện, khả
năng và quy luật khách quan bất kì, mà chỉ có những điều kiện, khả năng và quy
luật khách quan nào hợp thành một hoàn cảnh hiện thực thường xuyên tác động
đến các hoạt động của một chủ thể xác định mới được coi là thuộc phạm trù
khách quan đối với hoạt động của chủ thể ấy. Chính vì thế, với những chủ thể
khác nhau, quan hệ khác nhau, lĩnh vực hoạt động khác nhau thì phạm vi, tính
chất cái khách quan khơng hồn tồn như nhau.
1.2.2. Chủ quan
Phạm trù “chủ quan” dùng để chỉ tất cả những gì cấu thành phẩm chất và
năng lực, phản ánh trình độ phát triển của một chủ thể nhất định, phản ánh vai
trò của chủ thể ấy đối với những hoàn cảnh hiện thực khách quan trong hoạt
động nhận thức và cải tạo khách thể. Chủ quan là hoạt động của chủ thể nói
chung, tính chất thuộc về chủ thể và sự lệ thuộc vào chủ thể. Theo đó, phải kể
đến phẩm chất tư duy, trình độ hiểu biết, đến tình cảm, ý chí, nguyện vọng và
thể chất của chủ thể. Nói đến chủ quan là nói đến sức mạnh hiện thực bên trong
của chủ thể, được biểu hiện ra ở năng lực tổ chức hoạt động (nhận thức và thực
tiễn) của chủ thể, quyết định để đánh giá năng lực ấy là sự phù hợp giữa hoạt
động của chủ thể với điều kiện, khả năng và quy luật khách quan.
1.2.3. Mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan
Việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở để luận giải mối quan
hệ giữa con người (con người có ý thức) với thế giới (thế giới vật chất). Trong
tính hiện thực lịch sử của nó, con người khơng chỉ giải thích thế giới mà cịn cải

tạo thế giới bởi thực tiễn. Thực tiễn của con người, một mặt do có sự tham gia
hướng dẫn của ý thức, mặt khác do yêu cầu về tính hiệu quả quy định nên tất
yếu phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan.
Trong các nghiên cứu và hoạt động chính trị của mình, Lênin ln tn


7

thủ học thuyết Mác về sự thống nhất cái chủ quan và cái khách quan. Người
viết: “Chủ nghĩa Mác khác tất cả các lý luận xã hội chủ nghĩa khác ở chỗ nó
kết hợp một cách tài tình tính sáng suốt khoa học hồn tồn trong việc phân
tích tình hình khách quan và sự tiến hóa khách quan, với việc thừa nhận một
cách hết sức dứt khoát tác dụng của nghị lực cách mạng, tính sáng tạo cách
mạng và tính chủ động cách mạng của quần chúng, - và dĩ nhiên là cả của
những cá nhân, những tập đoàn, những tổ chức và những chính đảng biết phát
hiện ra và thực hiện được sự liên hệ với những giai cấp này hoặc giai cấp
khác”.
- Cơ sở lý luận để nghiên cứu mối quan hệ giữa khách quan và chủ
quan
Khách quan và chủ quan là hai mặt đối lập biện chứng liên hệ mật thiết
với nhau, không thể tách rời trong mọi hoạt động của mỗi chủ thể, và trong
những điều kiện, liên hệ nhất định, chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau. Chẳng
hạn, xét mối quan hệ giữa cá nhân và giai cấp thì ý thức, ý chí của giai cấp là
chủ quan đối với giai cấp này, nhưng lại là khách quan đối với cá nhân, chủ thể,
mỗi người của giai cấp đó.
Nếu khách quan gắn liền với những nội dung hoạt động của con người thì
chủ quan gắn với mục đích, dự kiến, ý định, tổ chức của hoạt động này. Từ đó ta
thấy chủ quan phù hợp với khách quan bao nhiêu thì hoạt động cải tạo, biến đổi
thế giới càng có hiệu quả bấy nhiêu, mặc dù chủ quan cũng có tính độc lập
tượng đối của nó là nó thường thay đổi chậm hơn so với khách quan. Tuy nhiên,

chủ quan đơi khi cịn đi trước khách quan như tư tưởng, khoa học, lý luận, tâm
lý, đạo đức.
V.I.Lênin đã chứng minh sự tương tác biện chứng phức tạp giữa cái chủ
quan và cái khách quan. Vai trò hàng đầu trong sự phát triển lịch sử - xã hội
thuộc về các điều kiện khách quan vốn quyết định tính chất và chiều hướng chủ
yếu của các quá trình xã hội. Nhân tố chủ quan, xét về nguồn gốc và các chức
năng - là sản phẩm của các điều kiện khách quan. Những tình cảm, tư tưởng, ý
chí, mong muốn đa dạng đều được xác định bởi các điều kiện khách quan.


8

Chẳng hạn, tính tự phát, tính thiếu tổ chức của các cuộc nổi dậy nơng dân chống
áp bức và bóc lột phong kiến là kết quả của sự phân tán, manh mún về kinh tế,
trong khi đó, tính tự giác, tính tổ chức và tính cách mạng của giai cấp cơng nhân
được lý giải trước hết bởi vị trí của nó trong hệ thống sản xuất TBCN.
- Vai trị quyết định của cái khách quan
Trong mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan thì suy đến cùng, khách
quan bao giờ cùng là cơ sở, tiền đề hình thành và giữ vai trị quyết định chủ
quan. Bởi vì, các điều kiện, khả năng và quy luật khách quan, không những
luôn tồn tại độc lập không lệ thuộc vào chủ thể, ln buộc chủ thể phải tính đến
trước tiên trong mọi hoạt động, mà còn là cội nguồn làm nảy sinh mọi tri thức,
tình cảm, ý chí và nguyện vọng của chủ thể. Cả lí luận và thực tiễn đều cho
thấy, nếu chỉ bằng nỗ lực chủ quan của mình, con người chưa và khơng bao giờ
xóa bỏ được bất cứ một điều kiện, khả năng hay quy luật khách quan nào. Trái
lại, chính những điều kiện khách quan hợp thành hồn cảnh, mơi trường sống và
hoạt động hiện thực của con người và chính việc con người nhận thức được sự
vận động, biến đổi của những khả năng và quy luật khách quan là điểm xuất
phát, là tiền đề làm nảy sinh ở họ những dự kiến, những kế hoạch, hình thành
nên trong họ ý chí, quyết tâm hành động cải biến hiện thực vì nhu cầu lợi ích

của mình. Cái khách quan trong tự nhiên là tự nó, tuyệt đối, khơng có sự tham
gia của ý thức; cịn cái khách quan trong xã hội là không tách rời cái chủ quan.
Do bản chất năng động vốn có của mình quy định nên con người luôn
vươn tới tự do trong mọi hoạt động. Nhưng con người chỉ được tự do hành động
trong chừng mực họ nhận thức được ngày càng sâu sắc hơn các điều kiện, khả
năng và quy luật khách quan. Không phải thế giới khách quan luôn theo ý chí,
nguyện vọng chủ quan của con người, mà trái lại, ý chí, nguyện vọng của con
người chỉ đúng khi nó phản ánh được sự vận động biến đổi của những điều
kiện, khả năng và quy luật vốn có của thế giới khách quan. Nói cách khác,
khách quan quy định nội dung và sự vận động biến đổi của chủ quan.
Cái khách quan quy định trình độ phát triển của năng lực tư duy, năng
lực tổ chức hành động của chủ thể. Giữa các chủ thể có sự khác nhau là ở tính


9

năng động chủ quan trong nhận thức và hành động. Nhưng giới hạn của tính
năng động ấy cũng do khách quan quy định. Chủ thể khơng thể tùy thích đặt ra
cho mình những nhiệm vụ, khơng thể tự mình sáng tạo ra những mục tiêu,
phương pháp khi mà quy luật khách quan không cho phép, khi mà điều kiện lịch
sử chưa chín muồi. Nói cách khác, mọi hoạt động của con người chỉ là sự phản
ánh và hiện thực hóa những nhu cầu đã chín muồi của đời sống xã hội. Những
nhiệm vụ mà con người phải giải quyết là những nhiệm vụ do lịch sử đề ra và
quy định nội dung, biện pháp giải quyết. Chúng ta đạt được những thành công
trong việc cải tạo hiện thực là do sự phản ánh đúng và hành động theo những
quan hệ tất yếu của hiện thực chứ không phải là do những ảo tưởng chủ quan
của mình.
Nguồn gốc chủ quan xét cho cùng nằm trong khách quan; bởi vì ý thức
xét đến cùng là phản ánh thế giới vật chất bên ngồi; do đó, cái khách quan xét
đến cùng quy định cái chủ quan. Khách quan đặt ra những nhiệm vụ cho những

chủ thể xã hội cần phải giải quyết; mặt khác, nó tạo ra những điều kiện, tiền đề
để giải quyết những nhiệm vụ này.
- Vai trị tích cực chủ động, sáng tạo của chủ quan
Tuy vậy, trong khi khẳng định khách quan là nhân tố có vai trị quyết
định, triết học Mác-Lênin khơng những khơng phủ nhận mà cịn đánh giá cao
vai trị của tính năng động chủ quan. Xuất phát từ việc giải quyết mối quan hệ
giữa con người và thế giới khách quan thông qua thực tiễn, xem con người là
một thực thể xã hội năng động và hoạt động bản chất của nó là hoạt động thực
tiễn cải tạo thế giới, sáng tạo ra đời sống xã hội của chính mình. Chính vì vậy,
mặc dù phạm trù chủ quan trước hết phản ánh phẩm chất và năng lực trí tuệ tinh thần của chủ thể, nhưng vai trị thực sự của nó lại chỉ có thể được đánh giá
qua toàn bộ hoạt động của con người so với thế giới khách quan.
Nói đến vai trị của nhân tố chủ quan là nói đến vai trị của con người
trong hoạt động (nhận thức và thực tiễn) để cải biến và thống trị thế giới của
họ. Con người ln có nhu cầu và khả năng tổ chức các hoạt động khám phá thế
giới khách quan bằng cách nâng cao tri thức, phát triển ý chí, tình cảm của mình


10

theo hướng ngày càng phù hợp hơn với điều kiện, khả năng và quy luật khách
quan của hiện thực. Cũng nhờ đó mà đường lối, mục tiêu, nhiệm vụ cũng như
chủ trương, biện pháp mà con người vạch ra ngày càng đúng đắn hơn, ít mang
tính chất chủ quan duy ý chí hơn. Đây chính là q trình nhân tố chủ quan của
chủ thể ngày càng được khách quan hóa. Đồng thời, chính điều đó lại góp phần
nâng cao quyền lực của con người trong việc làm biến đổi thế giới khách quan
theo ý chí, nguyện vọng và nhu cầu của họ. Điều đó cũng có nghĩa con người
ngày càng trở thành chủ thể thực sự của thế giới khách quan, hay thế giới khách
quan ngày càng bị chủ quan hóa bởi hoạt động cải biến của con người.
Bên cạnh đó, vai trị của chủ quan cịn thể hiện ở trình độ khai thác các
nguồn lực khách quan để chuyển hóa khả năng khách quan thành hiện thực

theo hướng thỏa mãn tốt nhất nhu cầu, lợi ích của chủ thể. Mọi hoạt động của
con người đều phải dựa vào những điều kiện khách quan nhất định, nhưng con
người không thụ động chờ đợi sự chín muồi của điều kiện khách quan, mà trái
lại, có thể dựa vào năng lực chủ quan của mình để phát hiện các điều kiện khách
quan và dựa vào các điều kiện đó để tổ chức, xúc tiến tạo ra những điều kiện
khách quan khác cần thiết cho những nhiệm vụ cụ thể của mình, thúc đẩy nhanh
hơn tiến trình biến khả năng thành hiện thực. Tương tự, trong một phạm vi, một
sự vật hiện tượng cụ thể, tiến trình khách quan có thể có nhiều con đường, nhiều
khả năng phát triển. Ở đây, vai trò của con người có thể dựa vào năng lực vốn
có của mình để lựa chọn, tác động sao cho chỉ một con đường, một khả năng
khách quan nào đó phù hợp nhất với tiến trình lịch sử cụ thể và nhu cầu của
mình. Bằng cách đó, như thực tế lịch sử cho thấy, con người có thể đẩy nhanh,
rút ngắn tiến trình phát triển của sự vật mà vẫn bảo đảm tính lịch sử tự nhiên
của nó.
Ngồi ra, cái chủ quan có thể tác động đến khách quan theo hướng tích
cực hoặc tiêu cực. V.I. Lê nin nhận xét: “Thế giới không thỏa mãn con người,
và con người quyết định biến đổi thế giới bằng hành động của mình”. Nhưng
hành động biến đổi thế giới của con người chỉ có hiệu quả khi nó được thực
hiện bởi những cơng cụ, phương tiện vật chất và phù hợp với quy luật vốn có


11

của thế giới vật chất, nghĩa là hành động ấy luôn là một thể thống nhất giữa
nhận thức và thực tiễn. Quá trình thực tiễn - nhận thức - thực tiễn là một q
trình vơ tận với sự chuyển hóa không ngừng giữa khách quan và chủ quan theo
hướng đứa con người trở thành chủ thể thực sự của thế giới khách quan. Đó
chính là q trình biện chứng “khách quan hóa chủ quan” và “chủ quan hóa
khách quan”, chống “khách quan chủ nghĩa” và chống “chủ quan duy ý chí”.
Bằng năng lực chủ quan của mình, con người có thể điều chỉnh hình thức tác

động của quy luật khách quan và kết hợp một cách khéo léo sự tác động tổng
hợp của nhiều quy luật theo hướng phục vụ tốt nhất cho mục đích của mình.
2. Mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan trong sự nghiệp đổi
mới ở nước ta hiện nay
2.1. Một số thành tựu, hạn chế của đất nước ta sau hơn 30 năm đổi
mới
2.1.1. Một số thành tựu
Trong giai đoạn hiện nay của thời đại, thế giới đang đứng trước các xu
thế nổi bật tác động đến chiều hướng phát triển toàn nhân loại và chi phối trực
tiếp đến tất cả các nước. Toàn cầu hóa trở thành q trình tất yếu khơng ngừng
phát triển, kéo theo cả thế giới vào cuộc chơi hội nhập cùng phát triển, hợp tác
và đấu tranh vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Hội nhập quốc tế, hợp tác liên kết với
các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế trên nhiều lĩnh vực (kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phịng…) dựa trên sự chia sẻ về nhận thức, lợi
ích, giá trị, nguồn lực, quyền lực và chủ động chấp nhận, tiếp thu tham gia xây
dựng các luật chơi chung, chuẩn mực chung trong khuôn khổ các định chế hoặc
tổ chức quốc tế. Cách mạng khoa học – công nghệ lại phát triển mạnh mẽ, tác
động lớn đến cơ cấu và động thái phát triển của sức sản xuất xã hội. Quan trọng
nhất của cách mạng khoa học – công nghệ là nổi lên vai trò hàng đầu của yếu tố
con người trong hệ thống lực lượng sản xuất dựa trên việc vận dụng đồng bộ và
hữu hiệu các ngành cơng nghệ có hàm lượng trí tuệ cao.
Hịa chung xu thế của thời đại, 35 năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử
quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về


12

mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đảng ta đã nhận định: “Đất nước
ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành
nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa

– hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội
ổn định; quốc phịng, an ninh được tăng cường. Văn hóa xã hội có bước phát
triển; dân chủ XHCN được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết dân
tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN được củng cố và đẩy mạnh; độc lập chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở
rộng và đi vào chiều sâu. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế
được nâng cao” [2].
2.1.2. Hạn chế
Vận dụng mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan, đúc kết về lý luận
và kinh nghiệm thực tiễn trong quá trình đổi mới, trong Báo cáo tổng kết “Một
số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 – 2016)”. Trong 08 mối
quan hệ lớn, Đảng ta đã đánh giá, làm rõ những hạn chế, yếu kém trong nghiên
cứu lý luận, trong hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của
Nhà nước; kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng,
yêu cầu và nguồn lực huy động; còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định xã hội; cơ cấu
tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội chưa thật sự phù hợp, vẫn còn cồng kềnh, chồng chéo chức năng, nhiệm
vụ, kém hiệu lực, hiệu quả; một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; hiện tượng quan liêu, tham nhũng, lãng phí
cịn khá nghiêm trọng,… Bốn nguy cơ mà Đảng nêu lên vẫn còn tồn tại, có mặt
diễn biến phức tạp, như nguy cơ “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch
chống phá ta và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
2.1.3. Nguyên nhân hạn chế
Những hạn chế, khuyết điểm trên đây có cả nguyên nhân chủ quan và
nguyên nhân khách quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.


13


Về khách quan: Đổi mới là sự nghiệp to lớn, tồn diện lâu dài, rất khó
khăn, phức tạp, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Tình hình thế giới và khu vực có
những mặt tác động khơng thuận lợi; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù
địch và phần tử cơ hội.
Về chủ quan: Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa được
quan tâm đúng mức, dự báo tình hình chậm, thiếu chính xác làm ảnh hưởng đến
chất lượng quyết sách, chủ trương của Đảng; nhận thức tám mối quan hệ lớn
còn hạn chế; Nhận thức, phương pháp và cách thức chỉ đạo tổ chức thực hiện
chủ trương, đường lối nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà
nước cịn nhiều hạn chế. Quyền hạn và chế độ trách nhiệm, nhất là quyền hạn
và trách nhiệm của người đừng đầu không được quy định rõ ràng, thiếu cơ chế
kiểm soát quyền lực. Nhiều chủ trương, nghị quyết không đúng với thời điểm.
Một số chính sách khơng phù hợp với thực tiễn, chậm được sửa đổi, bổ sung.
Việc quản lý giáo dục, rèn luyện cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt các cấp về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa được coi
trọng thường xuyên, đúng mức, hiệu quả thấp, chưa tạo được sự thống nhất cao
về mặt nhận thức và tư tưởng, ý chí và hành động trong Đảng trước những diễn
biến phức tạp của tình hình,…
2.2 Việc vận dụng mối quan hệ khách quan và chủ quan trong công
cuộc đổi mới đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam
2.2.1. Nhận thức đúng mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan có ý
nghĩa hết sức quan trọng đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Đúc kết kinh nghiệm lý luận và thực tiễn từ mối quan hệ giữa khách quan
và chủ quan, Đại hội lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra tám phương
hướng cơ bản để xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại
theo định hướng XHCN. Đảng nhấn mạnh:“Trong quá trình thực hiện các
phương hướng cơ bản đó phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết
tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội
chủ nghĩa”. Đến Đại hội toàn quốc thứ XIII, Đảng ta xác định các mục tiêu cụ



14

thể không chỉ trong nhiệm kỳ mà hướng tới những dấu mốc phát triển quan
trọng của đất nước trong thập niên sắp tới: “Đến năm 2025, là nước đang phát
triển, có cơng nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình
thấp; Đến năm 2030, là nước đang phát triển, có cơng nghiệp hiện đại, thu
nhập trung bình cao; Đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao”
[1, tr. 36]. Đặt trên một nền tảng sâu và rộng hơn, thì thực chất đây là giải quyết
mối quan hệ giữa khách quan (phát triển kinh tế) với chủ quan (chính trị, đường
lối chính trị). Cụ thể hơn, đây cũng là vấn đề định hướng chính trị đối với sự
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Việc nghiên cứu mối quan hệ
khách quan và chủ quan theo lập trường duy vật biện chứng có ý nghĩa chỉ đạo
rất sâu sắc đối với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.
Điều kiện khách quan chỉ được cải tạo theo nhu cầu của xã hội khi thông
qua hoạt động sáng tạo, tích cực của chủ quan con người; nhưng hoạt động sáng
tạo này chỉ có hiệu quả khi biết xuát phát từ điều kiện, tiền đề khách quan bên
ngoài. Hoạt động chủ quan đúng đắn của con người đòi hỏi phải phát hiện và
vận dụng những khả năng khách quan theo quy luật vốn có của nó, chứ không
phải tùy tiện một cách chủ quan duy ý chí. Cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện
nay do nhiều quy luật khách quan chi phối. Do đó chúng ta phải nhận thức và
vận dụng đúng đắn những quy luật này theo tinh thần thống nhất giữa tinh thần
cách mạng và tri thức khoa học, khắc phục chủ nghĩa kinh nghiệm cũng như
bệnh chủ quan duy ý chí, phải tiến hành đồng bộ, nhịp nhàng của các nhân tố
chủ quan như Đảng, Nhà nước, nhân dân và các tổ chức trong hệ thống chính
trị, nâng cao năng lực, trí tuệ, phẩm chất đạo đức của các chủ thể này, đặc biệt
là các cơ quan công quyền ở nước ta hiện nay trên cơ sở những điều kiện, tiền
đề khách quan hiện có.
2.2.2. Kết hợp tơn trọng khách quan với phát huy tính năng động chủ

quan trong nhận thức và thực tiễn
Trong Diễn văn khai mạc Đại hội Đại biểu lần thứ XIII Đảng Cộng sản
Việt Nam, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã nêu rõ: “Với quan điểm nhìn
thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đổi mới, hội nhập và phát triển, phát huy


15

truyền thống đồn kết, chung sức, đồng lịng, kiên định niềm tin vào Chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường mà Đảng và Bác Hồ kính
yêu đã lựa chọn”. Chúng ta nhận thấy rõ, trong suốt q trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta ln nắm vững quan điểm của triết học Mác-Lênin về mối quan
hệ khách quan và chủ quan, vận dụng vào việc xác định đường lối, mục tiêu,
phương hướng và phương pháp cách mạng; đồng thời cũng cho thấy, việc nhận
thức và vận dụng mối quan hệ này là cả một quá trình nghiên cứu, tìm tịi với
nhiều khó khăn và phức tạp. Đảng đã khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới
tồn diện và sâu sắc với phương châm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật,
quyết tâm sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm để đưa cách mạng nước ta tiến
lên. Đảng đã rút ra bài học: Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát
từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Lấy việc phát huy nguồn lực con
người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững vừa cần tránh sai
lầm chủ quan nóng vội trong cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, vừa phải biết “khơi
dậy trong nhân dân lịng u nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người
Việt Nam; đổi mới phải dựa vào dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực
tiễn và luôn ln sáng tạo. Đồng thời, cũng từ chính những sai lầm, thất bại
trong thực tiễn cách mạng mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ, phải ra sức
học tập lí luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, để
hành động theo quy luật khách quan, chống duy tâm, duy ý chí, nóng vội chủ
quan, cũng như thái độ bảo thủ, tâm lí ỷ lại, thụ động, trì trệ.
Mặt khác, do vai trị chủ động của nhân tố chủ quan nên trong nhận thức

và thực tiễn phải biết trên cơ sở tôn trọng khách quan để phát huy cao độ tính
năng động chủ quan. Trên cơ sở cái khách quan đã được nhận thức để huy động,
phát huy cao nhất mọi phẩm chất và năng lực của chủ thể vào việc nghiên cứu,
phát hiện, lựa chọn ra con đường, những biện pháp, hình thức, bước đi, những
công cụ và phương tiện phù hợp nhất, đạt hiệu quả cao nhất trong mọi hoạt
động. Phát huy tính năng động chủ quan cũng đồng thời bao hàm việc phê phán,
đấu tranh khắc phục tư tưởng thụ động, ỷ lại, bó tay, phó mặc trước khó khăn
của hiện thực cuộc sống. Xây dựng xã hội mới – Xã hội Xã hội chủ nghĩa là sự


16

nghiệp đầy khó khăn, phức tạp, địi hỏi chủ thể phải phát huy cao độ nhân tố
chủ quan, phải có nhiệt tình cách mạng và tính tự giác cao. Nhưng vai trị của
nhân tố chủ quan càng lớn thì nguy cơ mắc bệnh chủ quan cũng càng lớn vì khi
đó người ta dễ cường điệu vai trò, nhân tố chủ quan mà bất chấp quy luật khách
quan, dễ lấy nhiệt tình cách mạng thay cho sự yếu kém tri thức khoa học, yếu
kém về quản lý. Sai lầm chủ quan duy ý chí là một sai lầm có tính chất phổ biến
trong nhiều nước xã hội chủ nghĩa trong đó có Việt Nam trước đây, đã gây ra
những hậu quả nghiêm trọng. Bởi vậy, đấu tranh khắc phục và ngăn chặn bệnh
chủ quan duy ý chí có ý nghĩa rất quan trọng và đòi hỏi phải tiến hành thường
xuyên. Để khắc phục có hiệu quả bệnh chủ quan, duy ý chí, bảo thủ, trì trệ, thói
quen ỷ lại, cần phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp. Trước hết, phải đổi mới
tư duy lí luận, nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ lí luận; kết hợp đổi mới cơ chế
quản lí kinh tế, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính
trị, chống bảo thủ, trì trệ, quan liêu.
2.2.3. Các bài học rút ra sau hơn 30 năm đổi mới: Nhìn lại 30 năm đổi
mới, từ những thành tựu cũng như hạn chế, khuyết điểm, Đảng ta rút ra một số
bài học như sau:
Một là, trong q trình đổi mới phải chủ động, khơng ngừng sáng tạo trên

cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo
và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát
huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh
nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân làm gốc”, vì lợi
ích nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm,
sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc.
Ba là, đổi mới phải tồn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn
trọng quy luật khách quan, xuát phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả
những vấn đề do thực tiễn đặt ra.


17

Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập,
tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng,
cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Năm là, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp
chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã
hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân
dân.

Phần 3. KẾT LUẬN



Hiện nay, thế giới vẫn đang trong bước quá độ vĩ đại để đến với chủ


18

nghĩa xã hội và xa hơn nữa là chủ nghĩa cộng sản, nhận thức đúng mối quan hệ
giữa khách quan và chủ quan góp phần quan trọng trong việc định hướng con
đường đi lên xã hội chủ nghĩa mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang mong
mỏi. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới,
Đảng ta đã nhìn nhận: “Trong điều kiện diễn biến phức tạp, khó lường của tình
hình khu vực, thế giới và những thuận lợi, khó khăn trong nước, những thành
tựu to lớn, ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đạt được đã khẳng định đổi
mới là sự lựa chọn chính xác và chứng minh đường lối đổi mới của Đảng ta là
đúng đắn, sáng tạo. Đồng thời những vấp váp, hạn chế, yếu kém tên con đường
phát triển càng chứng tỏ đổi mới là một sự nghiệp khó khăn, lâu dài, phức tạp,
địi hỏi phải chủ động, kiên quyết, kiên trì và không ngừng sáng tạo, phải
thường xuyên tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, rút kinh nghiệm để điều
chỉnh, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách”.
Trong bất cứ đường lối, chính sách nào ngồi cơ sở khách quan cịn có
mặt chủ quan. Mặt khách quan của đường lối, chính sách là hồn cảnh kinh tế,
chính trị - xã hội, mối quan hệ giữa các giai cấp và lợi ích của chủ thể đường
lối, chính sách. Mặt chủ quan của đường lối, chính sách thể hiện trong ý chí,
nguyện vọng của chủ thể, trong việc lựa chọn các biện pháp, phương tiện thực
hiện nó trong thực tiễn. Một mặt chúng ta cần phải tỉnh táo nhận diện những
quan điểm sai trái; mặt khác chúng ta cần phải mạnh dạn đề xuất bổ sung, phát
triển những quan điểm của học thuyết này cho phù hợp với thực tiễn. Làm cho
những nội dung, quan điểm của học thuyết Mác được có thêm sức sống mới,
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của giai đoạn hiện nay. Đó là một việc làm hết
sức khó khăn địi hỏi phải kiên trì, có bản lĩnh và có trách nhiệm với hệ thống lý
luận cách mạng và khoa học được coi là nền tảng tư tưởng của Đảng ta hiện

nay./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc


19

lần thứ XIII, nhiệm kỳ 2020 – 2025, tập I, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia, sự
thật.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2015), Báo cáo tổng kết Một số vấn đề lý
luận – thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 – 2016), Nxb. Chính trị quốc gia, sự
thật.
3. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Triết học dùng
cho cao học khơng chun ngành, Nxb. Lý luận chính trị.
4. C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002;
5. Nguyễn Phú Trọng (2021) Bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.
6. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Những nguyên lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2012.
7. Một số vấn đề về chủ nghĩa Mác – Lê-nin trong thời đại hiện nay, Nxb
CTQG, H. 1996;
8. Các tài liệu tham khảo khác.



×