Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

ĐỀ THI KẾT THÚC HỌC PHẦN - MÔN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SƯ PHẠM ỨNG DỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.4 KB, 18 trang )

ĐỀ THU HOẠCH
Học phần: Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng
dụng

Câu 1: Phân tích những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện nghiên cứu khoa
học sư phạm ứng dụng? Theo anh/chị, làm thế nào để thực hiện có hiệu quả hoạt
động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ở trường Tiểu học?
Câu 2: Anh/chị hãy lập đề cương nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng cho
một đề tài cụ thể (tự chọn đề tài).


Câu 1: Phân tích những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện nghiên cứu khoa
học sư phạm ứng dụng? Theo anh/chị, làm thế nào để thực hiện có hiệu quả hoạt
động nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng ở trường Tiểu học?
Trả lời
Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng (NCKHSP ƯD) là một loại hình
nghiên cứu trong giáo dục nhằm thực hiện một tác động hoặc can thiệp sư phạm
và đánh giá ảnh hưởng của nó. Tác động hoặc can thiệp đó có thể là việc sử
dụng phương pháp dạy học, sách giáo khoa, phương pháp quản lý, chính sách
mới... của giáo viên, cán bộ quản lý (CBQL) giáo dục. Người nghiên cứu đánh
giá ảnh hưởng của tác động một cách có hệ thống bằng phương pháp nghiên cứu
phù hợp.
Hai yếu tố quan trọng của NCKHSP ƯD là tác động và nghiên cứu:
- Thực hiện những giải pháp thay thế nhằm cải thiện hiện trạng trong
phương pháp dạy học, chương trình, sách giáo khoa hoặc quản lí.
- So sánh kết quả của hiện trạng với kết quả sau khi thực hiện giải pháp
thay thế bằng việc tuân theo quy trình nghiên cứu thích hợp.
Hoạt động NCKHSP ƯD là một phần trong q trình phát triển chun
mơn của giáo viên (GV) – CB QLGD trong thế kỷ 21. Với NCKHSP ƯD, GV –
CBQL giáo dục sẽ lĩnh hội các kỹ năng mới về tìm hiểu thơng tin, giải quyết vấn
đề, nhìn lại quá trình, giao tiếp và hợp tác. "Trong quá trình NCKHSP ƯD nhà


giáo dục nghiên cứu khả năng học tập của học sinh trong mối liên hệ với
phương pháp dạy học. Quá trình này cho phép những người làm giáo dục hiểu rõ
hơn về phương pháp sư phạm của mình và tiếp tục giám sát quá trình tiến bộ của
học sinh". Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng trong lớp học. "Ý tưởng về
NCKHSP ƯD là cách tốt nhất để xác định và điều tra những vấn đề giáo dục tại
chính nơi vấn đề đó xuất hiện: tại lớp học và trường học. Thông qua việc thực
hiện NCKHSP ƯD vào các bối cảnh này và để những người đang hoạt động


trong mơi trường đó tham gia vào các hoạt động nghiên cứu, các phát hiện sẽ
được ứng dụng ngay lập tức và vấn đề sẽ được giải quyết nhanh hơn". Đánh giá
phát triển chuyên môn.
NCKHSP ƯD, khi được áp dụng đúng cách trong trường học, sẽ đem đến rất
nhiều lợi ích, vì nó:
- Phát triển tư duy của GV một cách hệ thống theo hướng giải quyết vấn
đề mang tính nghề nghiệp để hướng tới sự phát triển của trường học.
- Tăng cường năng lực giải quyết vấn đề và đưa ra các quyết định về
chun mơn một cách chính xác
- Khuyến khích giáo viên nhìn lại q trình và tự đánh giá.
- Tác động trực tiếp đến việc dạy học và công tác quản lý giáo dục (lớp
học, trường học).
- Tăng cường khả năng phát triển chuyên môn của giáo viên. Giáo viên
tiến hành NCKHSP ƯD sẽ tiếp nhận chương trình, phương pháp dạy học mới
một cách sáng tạo có sự phê phán một cách tích cực.


Thuận lợi khi thực hiện nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng:
Các giáo viên đại đa số ham học hỏi, tìm tịi, khám phá cái mới. Với sự

năng động, linh hoạt cũng như nhạy bén của các giáo viên trong thời đại khoa

học, các thầy cô nắm bắt rất nhanh các nhu cầu cần thiết của xã hội để từ đó đưa
ra những giải pháp đáp ứng các nhu cầu đó. Vì vậy, sự say mê nghiên cứu khoa
học là một trong những đặc điểm của giáo viên trong xã hội hiện nay. Các giáo
viên tiểu học đa số đều có trình độ đại học nên đã được trang bị những kiến thức
khoa học và từng làm quen hoặc trực tiếp thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa
học. Do đó các giáo viên đều đáp ứng được các yêu cầu về kiến thức cũng như
phương pháp để thưc hiện một công trình nghiên cứu khoa học.


Nhìn chung về cơng tác quản lý và dạy học tại nhà trường đã chú trọng
đến phương pháp đổi mới dạy học, tập trung chuyên môn, quản lý và kiểm tra
thực hiện phương pháp dạy học phù hợp, sử dụng nghiên cứu khoa học công
nghệ vào chuyên môn dạy học. Trong đó “ mỗi giáo viên phải có trên 50% tiết
dạy bằng công nghệ thông tin”
Giáo viên cũng căn cứ và kết quả kiểm tra để nghiên cứu xây dựng
chuyên đề chuyên môn. Đồng thời đánh giá giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp
căn cứ theo quy định của bộ giáo dục và đào tạo.
Thực hiện đổi mới báo cáo kinh nghiệm, trao đổi phương pháp dạy học
cho các giáo viên trong nhà trường để đảm bảo giáo viên có kinh nghiệm giảng
dạy tốt. Sự quan tâm, chỉ đạo cũng như động viên, khuyến khích từ phía lãnh
đạo, nên các giáo viên càng có động lực thực hiện tốt hoạt động nghiên cứu của
bản thân.
Nguồn tài liệu nghiên cứu phong phú. Hiện nay, cùng với các nguồn tài liệu từ
sách, báo, internet,... thì với sự phát triển của cơng nghệ thơng tin, việc tìm kiếm các
nguồn tài liệu từ các máy tính ngày càng trở nên dễ dàng hơn với số lượng tài liệu
ngày càng phong phú hơn. Ngoài ra, phần lớn giáo viên trẻ hiện nay có trình độ
ngoại ngữ khá tốt nên bên cạnh việc nghiên cứu các nguồn tài liệu bằng tiếng Việt,
các giảng viên trẻ còn nghiên cứu các nguồn tài liệu bằng tiếng nước ngồi.



Khó khăn khi thực hiện nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng:
Hiện nay, các giáo viên vẫn còn thiếu nhiều kinh nghiệm trong việc thực

hiện một cơng trình nghiên cứu khoa học. Phần lớn các giáo viên đã một hoặc
một vài lần thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học trong q trình học đại nhưng
thường có sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn từ việc gợi ý nội dung đề tài,
đề cương, nội dung từng chương, mục. Các giáo viên vẫn chưa có sự chủ động
trong việc thực hiện một cơng trình nghiên cứu khoa học từ đầu đến cuối. Đặc
biệt, đề tài nghiên cứu khoa học của giáo viên trẻ thường bị sự cạnh tranh rất lớn
từ những giáo viên có kinh nghiệm lâu năm nên đề tài của họ ít được chọn.


Các giáo viện vẫn chưa có sự chủ động trong việc đưa ra các đề tài để
nghiên cứu. Các đề tài mà giáo viên thực hiện phần lớn là do có sự phân cơng từ
phía lãnh đạo nên các giáo viên thường có ý tưởng và tâm huyết về đề tài nghiên
cứu. Từ đó khi giáo viên trẻ bắt tay vào việc thực hiện các đề tài nghiên cứu sẽ
gặp rất nhiều khó khăn và dẫn tới việc bỏ dở giữa chừng.
Giáo viên khơng có nhiều thời gian dành cho hoạt động nghiên cứu khoa
học. Phần lớn giáo viên ngay sau khi về trường phải nhanh chóng học tập để
nâng cao trình độ , phù hợp với các yêu cầu mà nhà trường đề ra. Việc ôn luyện,
thi cử và học tập đã làm mất nhiều thời gian của giáo viên. Bên cạnh đó, các
giáo viên cịn phải thực hiện các công tác của nhà trường như: đảm bảo việc dạy
đủ giờ, soạn bài giảng, coi thi, chấm thi, đảm nhận nhiều cơng việc kiêm nhiệm
do đó giáo viên gần như khơng có thời gian cho việc tìm tịi, nghiên cứu khoa
học.
Nguồn kinh phí để thực hiện việc nghiên cứu khoa học cịn thấp. Hiện nay,
nguồn kinh phí dành cho các giáo viên trẻ để thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa
học là khá eo hẹp, thậm chí một số các giảng viên trẻ phải tự bỏ tiền túi ra để thực
hiện các đề tài nghiên cứu vì chi phí cho hoạt động nghiên cứu là rất lớn. Chính vì
vậy, nếu vấn đề kinh phí để các giáo viên trẻ thực hiện đề tài được đảm bảo tốt hơn

thì các giáo viên trẻ sẽ có sự yên tâm về mặt vật chất để thực hiện đề tài.
Mỗi giáo viên nên ý thức được những lợi ích từ việc nghiên cứu khoa học
mang lại cho mỗi cá nhân, đó khơng chỉ là thành tích, điểm số mà cịn là những
kinh nghiệm, những trải nghiệm, những tìm tịi, những bài học mà khơng phải
lúc nào ta cũng có thể học được ở phương pháp truyền thống. Do đó, cần địi hỏi
ở mỗi giáo viên phải có sự say mê, chủ động, quyết tâm, kiên trì, trách nhiệm và
cần sắp xếp cơng việc cá nhân để đầu tư cho việc nghiên cứu. Không ngừng tự
học, tự bồi dưỡng để hiểu biết về CNTT, biết khai thác thơng tin trên mạng
Internet, có kĩ năng sử dụng thành thạo các trang thiết bị dạy học hiện đại.
Câu 2: Anh/chị hãy lập đề cương nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng cho
một đề tài cụ thể (tự chọn đề tài).


Trả lời
“Nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới phương pháp dạy môn Tin học ở
Tiểu học”.
I. Xác định vấn đề nghiên cứu
1. Hiện trạng.
Học sinh là thế hệ tương lai của xã hội góp phần xây dựng và một phần
quyết định không nhỏ đối với vận mệnh của đất nước.Để thực hiên được nghĩa
vụ vinh quang đó, trong nhà trường các em phải được học tập và trưởng thành
để trở thành người vừa có đức vừa có tài để có thể góp sức mình đưa Việt Nam
thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đưa đất nước ta sớm thốt
khỏi nguy cơ tụt hậu và có thể tiến kịp trình độ chung của thế giới.
Trong chương trình học tiểu học cùng với mơn Tiếng Việt và các mơn
học khác mơn Tốn cũng chiếm một vị trí quan trọng.
Tốn học với tư cách là một mơn khoa học có hệ thống kiến thức cơ bản
và rất cần thiết cho đời sống con người.Đó cũng là cơng cụ cơ sở, để học các
môn học khác và để nhận thức thế giới xung quanh, vận dụng có hiệu quả trong
thực tiễn.

Khả năng giáo dục của mơn tốn rất lớn .Nó giúp con người phát triên tư
duy lơgic, bồi dưỡng và phát triển những thao tác trí tuệ cần thiết để nhận thức
thế giới.Rèn luyện cho con người suy nghĩ độc lập trên cơ sở khoa học thực tiễn
từ đó giải quyết vấn đề trong cuộc sống một cách chính xác.
Học tốn giúp cho con người thơng minh rèn luyện một số đức tính tốt
như: tính kiên trì bền bỉ, tự giác, độc lập, để trở thành con người có ích cho xã
hội
2. Giải pháp thay thế.
Trên thực tế cho thấy học sinh tiểu học, nhất là học sinh lớp 2.Việc tiếp
thu kiến thức về các yếu tố hình học cịn nhiều hạn chế. Nhiều giáo viên dạy
mơn Tốn chỉ trú trọng nhiều đến việc dạy học sinh cộng, trừ, nhân, chia và giải
tốn, mà ít quan tâm đến việc khắc sâu kiến thức dạy các yếu tố hình học cho
học sinh.


Việc nâng cao hiệu quả các yếu tố hình học là một vấn đề hết sức nan giải
và quan trọng đối với mỗi giáo viên trực tiếp giảng dạy.Vì chúng ta đều biết đặc
điểm tư duy của học sinh tiểu học là cụ thể vẫn còn chiếm ưu thế, nên các em
cịn khó khăn trong việc lĩnh hội các hình thức học mang tính trừu tượng mới
mẻ.Với đặc điểm cấu trúc nội dung chương trình tốn thì các yếu tố hình học lại
nằm rải rác xen lẫn với các nội dung toán học khác cho nên đã tạo ra một số khó
khăn cho cả giáo viên và học sinh trong quá trình lĩnh hội tri thức.Vấn đề này rất
dễ hiểu, khi học một hệ thống kiến thức lơ gíc chặt chẽ nhưng lại sắp xếp không
liên tục, học sinh sẽ gặp khó khăn nhất định trong việc liên hệ giữa kiến thức cũ
và kiến thức mới. Như vậy mỗi tiết dạy các yếu tố hình học, khơng đơn thuần là
chỉ kiểm tra bài cũ và truyền thụ kiến thức mới mà đôi khi người giáo viên phải
mất thời gian nhắc lại kiến đã dạy, có liên quan rồi mới có thể tiếp tục thực hiện
những yêu cầu mới của bài dạy.
3. Vấn đề nghiên cứu
Tôi chọn “Nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới phương pháp dạy

môn Tin học ở Tiểu học”. Nhằm giúp giáo viên có những biện pháp giảng dạy
phù hợp để nâng cao chất lượng giờ dạy và giúp học sinh chiếm lĩnh kiến thức
một cách dễ dàng.
4. Giả thuyết nghiên cứu tương ứng.
II. Xác định mục tiêu và ý nghĩa của việc nghiên cứu.
1. Mục tiêu.
 Mục tiêu của CNTT trong trường học
Mục đích của việc ứng dụng CNTT vào trường nói chung và trường Tiểu
học nói riêng là sử dụng CNTT như một cơng cụ lao động trí tuệ, giúp lãnh đạo
các nhà trường nâng cao chất lượng quản lí, giúp các thầy giáo, cô giáo nâng cao
chất lượng dạy học; trang bị cho HS kiến thức về CNTT, HS sử dụng máy tính
như một công cụ học tập nhằm nâng cao chất lượng học tập; góp phần rèn luyện
HS một số phẩm chất cần thiết của người lao động trong thời kỳ hiện đại hóa.


Mục tiêu của việc dạy học môn Tin học ở bậc Tiểu học là nhằm giúp cho học
sinh :
- Có hiểu biết ban đầu về Tin học và ứng dụng Tin học trong học tập và trong
đời sống.
- Có khả năng sử dụng máy tính trong việc học những mơn học khác, trong hoạt
động vui chơi giải trí nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và thích ứng với đời
sống xã hội hiện đại.
- Bước đầu làm quen với cách giải quyết vấn đề có sử dụng cơng cụ Tin học.
2. Ý nghĩa
Ở Tiểu học, các yếu tố hình học là một bộ phận gắn bó mật thiết với các
kiến thức số học, đại lượng và đo đại lượng, giải tốn, tạo thành mơn tốn thống
nhất.Việc dạy các yếu tố hình học hỗ trợ đắc lực cho các phần học khác. Nhằm
cung cấp cho học sinh những hiểu biết cần thiết về hình học của các đồ vật trong
khơng gian khi tiếp xúc với các “tình huống tốn học” trong cuộc sống hàng
ngày. Giúp các em cảm thấy tự tin khi làm các bài tập về hình học.

Để học nhớ bài lâu , giáo viên dạy các yếu tố hình học cần gắn liền với
thực tiễn: Khi dạy các yếu tố hình học cho học sinh lớp 2 trên cơ sở kết hợp chặt
chẽ quá trình tình hình thành biểu tượng với quá trình tri giác dẫn đến khái niệm
hình ảnh chung của biểu tượng. Học sinh từng bước nắm các dấu hiệu bản chất
phân biệt được các biểu tượng hình học dựa trên mơ tả. Để đạt được mục đích
đó học sinh khơng chỉ nghe giáo viên mơ tả, khơng chỉ nhìn hình vẽ và mơ tả
hình học mà điều quan trọng hơn nhiều là học sinh phải hoạt động tự mình tham
gia vào quá trình tạo ra biểu tượng đó nghĩa là mỗi học sinh phải sử dụng được
kĩ năng nhận dạng hình, đo và vẽ hình, ghép hình và tính tốn... Để tạo dựng ra
các biểu tượng hình học một cách chủ động thao tác tư duy, phân tích tổng hợp
so sánh và trí tưởng tượng khơng gian, đồng thời được hình thành rèn luyện và
phát triển.


III. Xác định cơ sở lí luận cho vấn đề nghiên cứu và chiến lược, phương
pháp nghiên cứu.
1. Cơ sở lí luận
Sự nghiệp giáo dục của Nhà nước ta đang được trú trọng. Vấn đề chất lượng
giáo dục ở các bậc học được các ngành các cấp quan tâm. Các em học tốt ở bậc
tiểu học sẽ là tiền đề để học chắc các bậc học trên.
Trong nhà trường tiểu học cùng với mơn Tiếng Việt, mơn tốn có một vị
trí quan trọng nhằm trang bị cho học sinh những phương pháp và kĩ năng ban
đầu về hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Bồi dưỡng và phát huy tình
cảm thói quen và đức tính tốt đẹp của con người mới Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mơn tốn có khả năng giúp học sinh phát triển tư duy logic, bồi dưỡng và phát
triển những thao tác trí tuệ cần thiết như trìu tượng hóa, khái qt hóa, phân
tích, tổng hợp, so sánh , dự đoán, chứng minh, bác bỏ... Nó có vai trị lớn trong
việc rèn luyện phương pháp giải quyết vấn đề có căn cứ khoa học. Nó giúp học
sinh phát triển trí tuệ thơng minh theo hướng tư duy độc lập, góp phần đào tạo
trẻ trở thành những con người năng động tự tin, sáng tạo, sẵn sàng thích ứng với

những diễn biến hàng ngày trong cuộc sống. Trong chương trình tốn tiểu học,
một trong những bộ phận cấu thành chương trình tốn là “Các yếu tố hình học”.
Các yếu tố hình học được mơ tả theo những đặc điểm của chúng, giúp cho học
sinh phân biệt được những dấu hiệu bản chất và không bản chất của mình.
Các yếu tố hình học khơng lập thành đơn vị kiến thức riêng ma được dạy
xen lẫn với các kiến thức khác. Với đặc thù riêng, các yếu tố hình học vừa có
tính cụ thể, trực quan trên mơ hình vừa có tính trừu tượng của bài tốn tiểu
học.Vì vậy việc dạy các yếu tố hình học góp phần kích thích sự phát triển tư duy
của học sinh. Các yếu tố hình học sẽ giúp trẻ em nhận thức và phân tích tốt thế
giới xung quanh.
Trong cơng tác giảng dạy người giáo viên muốn đạt được kết quả cao
trước hết phải nắm được đặc điểm tâm lí của học sinh Tiểu học nói chung, học
sinh lớp 2 nói riêng . Đặc điểm nhân cách của các em hồn nhiên, trong sáng, khả
năng phát triển của trẻ cũng mang màu sắc cảm tính . Cùng với q trình học


tập, tâm lí của trẻ sẽ được phát triển ngày càng hoàn thiện hơn. Việc đến trường
là bước ngoặt quan trọng của trẻ. Vì đến trường các em phải tuân thủ theo các
quy định chung của nhà trường, của lớp học. Các em phải ngồi hàng giờ xem
thầy cô làm gì, giảng gì, viết gì? Phải lĩnh hội những điều mà khơng phải lúc nào
cũng thích thú, nếu giáo viên khơng nắm được điều đó sẽ gây cho các em sự
chán nản mệt mỏi.Vì ở lứa tuổi này các em rất hiếu động rất hưng phấn, khó tập
chung chú ý lâu, khơng thích hoạt động kéo dài, khả năng tư duy, phê phán cịn
kém. Chính vì thế người giáo viên tiểu học cần sử dụng ngơn ngữ tốn học ngắn
gọn, chính xác, gắn với thực tế cuộc sống xung quanh để học sinh dễ hiểu, dễ
học. Học sinh lớp 2 chóng nhớ nhưng cũng rất chóng qn, nhưng điều gì đã
nhớ lại được lưu lại trong kí ức rất lâu. Do đó, khi cung cấp kiến thức bài dạy
các yếu tố hình học giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung, cần nhắc việc lựa
chọn ngôn ngữ, phương pháp để dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh kiến thức bằng con
đường ngắn nhất. Hơn nữa với học sinh lớp hai khả năng diễn đạt của các em

còn kém , vốn từ chưa có. Nhờ q trình tiếp xúc rộng rãi với mọi người đó là
thầy cơ bạn bè, người thân và qua tri thức các môn học. Đặc biệt là môn toán sẽ
giúp vốn kiến thức về toán học của các em ngày một phong phú hơn.
Tóm lại đối với học sinh tiểu học, nhất là việc tiếp thu kiến thức các yếu
tố hình học cịn hạn chế cho nên người giáo viên cần làm rõ những mỗi quan hệ
hình học ở mơn tốn, cách tổ chức dạy học và phương pháp học theo sách giáo
khoa .Nhằm giúp học sinh khắc sâu các yếu tố hình học một cách tường minh và
nâng cao hiệu quả khi dạy các yếu tố hình học.
2. Thiết kế.
-

Môn Tin học mới chỉ là môn tự chọn trong chương trình bậc tiểu học

nên chương trình và sự phân phối chương trình bước đầu có sự thống nhất và
đang hoàn chỉnh. Hiện nay Bộ giáo dục và đào tạo mới đang thí điểm dạy
mơn Tin học từ lớp 3 cho một số tỉnh và thành phố và biên soạn quyển sách
cùng học tin học quyển 1,2,3.


-

Tuy giáo viên đã được đào tạo cơ bản về kiến thức Tin học, nhưng khi thực

hành, máy móc gặp sự cố, trục trặc, giáo viên không xử lý kịp thời dẫn đến học
sinh thiếu máy, không thực hành được.
Do mới là môn tự chọn nên giáo viên dạy Tin học tiểu học là giáo viên hợp
đồng trường, chỉ tiêu biên chế chưa có, lương thấp nên cũng phần nào làm ảnh
hưởng đến chất lượng dạy và học.
-


Tài liệu tham khảo dành riêng cho bộ mơn Tin học cịn q ít. Nhất là những

tài liệu nói về phương pháp dạy học đặc trưng của môn Tin học.
-

Phần mềm Encore ( Em học nhạc) đã được cài đặt nhưng việc sử dụng cịn

gặp nhiều khó khăn do:
+ GV chưa sử dụng thành thạo phần mềm nhạc.
+ Kiến thức về âm nhạc còn hạn chế.
Đối với đề tài này việc nghiên cứu phải được tiến hành ở nhiều trường
tiểu học với nhiều lớp khác nhau. Nhưng với năng lực của bản thân cùng với
điều kiện thời gian có hạn, nên tơi chỉ dừng lại việc nghiên cứu đề tài này ở 1
lớp.
3. Đo lường.
Lập bảng kiểm tra học sinh trước khi vào thực hiện nghiên cứu và sau khi
áp dụng biện pháp nghiên cứu.
Các phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu lí thuyết:
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết là phương pháp thu thập thông tin
khoa học trên cơ sở nghiên cứu những tài liệu đã có bằng thao tác tư duy logic
để rút ra những kết luận khoa học cần thiết.
- Nghiên cứu thông qua đọc sách, tham khảo tài liệu để tìm ra những
những kiến thức có liên quan đến vẫn đề. Từ đó góp phần giúp cho két quả của
đề tài được nâng cao, được mở rộng.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp quan sát:


- Quan sát khoa học là phương pháp thu thập thông tin về đối tượng

nghiên cứu bằng cách tri giác trực tiếp đối tượng và các nhân tố khác có liên
quan đến đối tượng. Đó là hoạt động có mục đích được tiến hành có hệ thống.
- Quan sát trực tiếp thu bài của học sinh qua các giờ học về các yếu tố
hình học. Quan sát thơng qua các tiết dự giờ, các giờ giảng trên lớp, quan sát
trực tiếp tình hình học tập của học sinh trong tiết học để năm bắt được khả năng
tiếp thu bài, nắm bắt kiến thức của các em qua bài giảng.
Phương pháp điều tra.
Điều tra giáo dục là phương pháp khảo sát một số lượng lớn các đối tượng
nghiên cứu ở một hay nhiều khu vực, vào một hay nhiều thời điểm. Điều tra
giáo dục nhằm giúp thu thập rộnh rãi các số liệu, hiện tượng để từ đó phát hiện
các vân đề cần giải quyết, xác định tính phổ biến, nguyên nhân... chuẩn bị cho
các bước nghiên cứu tiếp theo .
- Điều tra trình độ, khả năng nắm bắt kiến thức của học sinh thông qua
giáo viên chủ nhiệm lớp, thông qua phụ huynh và trực tiếp học sinh.
- Thông qua trao đổi bàn bạc với giáo viên, phụ huynh và học sinh nhằm
nắm bắt, thu thập được những tài liệu thơng tin và tình hình thực tế có liên quan
đến nội dung đề tài cần nghiên cứu.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
- Thực nghiệm sư phạm là phương pháp thu nhận thông tin về sự thay đổi
số lượng và chất lượng trong nhận thức và hành vi của các đối tượng giáo dục
do nhà nghiên cứu tác động đến chúng bằng một số tác nhân điều khiển và đã
được điều tra.
- Bằng một số tiết dạy cụ thể, áp dụng vào một lớp cụ thể để nắm bắt
được sự thay đổi về số lượng và chất lượng trong nhận thức của học sinh.
- Thông qua các tiết dạy thực nghiệm để chứng minh cho các biện pháp đề
xuất là đúng đắn và đạt được kết quả.
4. Phân tích dữ liệu.
Phân tích so sánh sự khác biệt trước và sau khi thực hiện đề tài. Từ đó rút
ra những gì cần phát huy và khắc phục.



Kết Quả
Giỏi

Khá

Trung Bình

Yếu

Thời
Gian
Đầu năm
Giữa kì I
Cuối kì I

7
18
25

10
9
6

10
5
1

5
0

0

Giữa kì II

28

3

1

0

Cuối kì II

28

4

0

0

5. Kết quả.
* Phần 1: Làm quen với máy tính ( Lớp 3) Khám phá máy tính ( lớp 4, 5)
Ở phần học này, ngay từ bài học đầu tiên, GV cần giúp cho HS xác định
rõ và nhận biết các bộ phận của máy tính và tác dụng của các bộ phận đó bằng
cách cho HS quan sát ngay trong giờ giảng lý thuyết. Sau đó, vấn đề làm tơi
quan tâm nhất là tạo cho các em có thao tác đúng và thành thạo khi sử dụng
chuột, bàn phím,…
Ví dụ: Ở bài Bàn phím máy tính: Để giúp các em làm quen với bàn phím,

Gv cho Hs nêu tên tất cả các phím và cho chơi một số trị chơi có nội dung về
bàn phím. Trong đó có trị chơi Pi-an no( phần mềm Pianito). Nhưng theo tơi
phần mềm này khơng đạt hiệu quả vì các máy của HS khơng có tai nghe hay loa
nên HS dễ nhàm chán vì gõ mà khơng thấy có kết quả gì. Vì thế, theo tơi ngay từ
bài học này GV có thể hướng dẫn HS làm quen luôn với phần mềm Mario. Như
thế HS vừa nắm được tên của các phím, vừa gây được hứng thú học tập của các
em. Còn phần mềm đó GV nên giới thiệu cho HS và khuyến khích các em chơi
ở nhà.
Ví dụ : Bài Chuột máy tính: Để giúp các em sử dụng thành thạo các thao
tác ngay trong tiết học GV cần lồng ghép một số trò chơi như: Trò chơi Dots, trò
chơi Stick…hoặc mội vài trị chơi khác nhưng phải có tính giáo dục ( thay vì đợi
đến Phần trị chơi HS mới được chơi) . Đối với những HS yếu, cũng giống như


HS lớp 1, GV phải cầm tay các em để chỉ dẫn. Với phương pháp này, HS nắm
bắt rất nhanh, rất hứng thú và nhanh chóng sử dụng được chuột.
Ở lớp 4 và 5: Lúc này các em đã được hiểu biết nhiều hơn về máy tính
nên GV sẽ có những yêu cầu cao hơn. HS phải nắm được cách sắp xếp thơng tin
theo hệ thống của máy tính. Biết cách sắp xếp và tìm kiếm thơng tin.
Ví dụ : Lớp 5 GV yêu cầu mỗi HS phải tạo được cho mình một thư mục
riêng để khi lưu các tài liệu sẽ được đưa về một chỗ, các bài làm của các em sẽ
được sắp xếp ngăn nắp hơn, dễ tìm kiếm hơn và lưu có hệ thống hơn.
* Phần 2: Học và Chơi cùng máy tính
GV yêu cầu HS cần có thái độ nghiêm túc khi học và làm việc trên máy
tính, khơng phân biệt phần mềm học tập hay phần mềm trò chơi. GV cần liên hệ
thực tế để giúp HS nắm được từ việc học và chơi trên máy tính đến đời sống
thường ngày.
Ví dụ: + Luyện tính kiên trì, trí thơng minh, luyện sử dụng chuột qua trị
chơi Dots, Stiks, ……
+ u thích mơn Tốn qua trị chơi Cùng học tốn.

+ Chơi thể thao, tìm hiểu thiên nhiên qua trò chơi Golf, Khám phá
rừng nhiệt đới.
Ở chương học này, thời gian thực hành khá dài, dễ gây nhàm chán. GV
nên chủ động dạy dàn trải trong các tiết học.

* Phần 3: Em tập gõ bàn phím :
Đây cũng là phần trọng tâm của chương trình lớp 3. Phần này địi hỏi phải
có sự tập luyện thường xuyên thì mới đạt hiệu quả cao được. GV cần giúp HS
hiểu được lợi ích của việc gõ phím bằng 10 ngón để từ đó HS có ý thức hơn


trong việc rèn luyện. Không cần nhiều, ở mỗi tiết thực hành, nếu cịn thời gian
hãy khuyến khích HS luyện gõ trong 10 phút thôi sẽ mang lại hiệu quả rất tốt.
Cần phải chú trọng và nghiêm túc rèn từ lớp 3 về cách đặt tay lên bàn phím,
cách gõ phím…thì đến lớp 4 - 5 HS mới có thói quen gõ 10 ngón.
* Phần 4: Em tập vẽ.
Với phần học này, HS rất có hứng thú học tập. Ở phần học này GV cần
chú trọng cho HS thực hành nhiều, giảm tiết lý thuyết hoặc có thể giảng lý
thuyết ngay trong tiết thực hành. Như vậy học sinh mới có thao tác thành thạo
được. Ngồi việc dạy những u cầu cơ bản trong SGK. Nếu có điều kiện GV có
thể thiết kế các bài tập khác để phần học này thêm phong phú.
Ví dụ: Bài Vẽ đường cong: SGK yêu cầu HS vẽ con cá và chiếc lá. Gv có
thể giới thiệu thêm cho các em một số mẫu vẽ khác như Cái nơi em bé, Sóng
biển, cái quạt, hoặc em hãy tự nghĩ ra những vật gì có sử dụng đường cong để vẽ
…dành cho những HS đã hoàn thành bài vẽ theo yêu cầu.
Ở lớp 4 - 5, yêu cầu đã được nâng cao hơn. Ngoài những kiến thức cơ bản
cần đạt được ra, GV cần quan tâm nhiều đến vấn đề ứng dụng của các kiến thức
đó vào bài vẽ.
Ví dụ : Khi vẽ một bức tranh về giao thơng, ở ngã tư có 4 cột đèn. HS có
thể sao chép và lật hình để có 4 cột đèn theo ý mình mà khơng tốn nhiều thời

gian.

* Phần 5: Em tập soạn thảo.
Nội dung kiến thức chủ yếu là tạo cho HS những kiến thức cơ bản nhất để
soạn thảo và trình bày một văn bản. Ở phần này GV cũng chú ý đến dạy thực
hành hơn, dạy xong lý thuyết là cho HS thực hành ngay như vậy HS mới nắm
được.


Ở lớp 3 HS được làm quen với 2 cách gõ là kiểu VNI và kiểu Telex. Gv
cần cung cấp cả 2 cách gõ này và khuyến khích các em lựa chọn cách gõ phù
hợp để việc soạn thảo dễ dàng hơn.
Ở lớp 4 và 5 HS đã được học cách trình bày văn bản. GV hãy tạo điều
kiện cho các em ứng dụng những kiến thức vừa học vào trình bày những văn
bản thơng thường .
Ví dụ: Khi dạy bài Căn lề (lớp 4) GV đưa thêm một số bài thơ, bài ca dao
tục ngữ hay một đoạn văn bản đã học trong SGK Tiếng Việt mà HS đã học ở
trên lớp để các em thực hành.
* Phần 6: Thế giới Logo của em.
Logo là một ngôn ngữ lập trình, có đầy đủ các đặc điểm của một ngơn
ngữ máy tính, xuất phát từ ngơn ngữ LISP, ngơn ngữ của trí tuệ nhân tạo. Logo
là ngơn ngữ để học. Để hỗ trợ thực hiện quá trình học và suy nghĩ bằng cách
khuyến khích HS tìm tịi khám phá. Logo có bảng kí tự, từ khóa riêng, cú pháp
riêng và khá chặt chẽ.
Ở lớp 4 và lớp 5 HS mới được làm quen với phần mềm này và đây cũng
là lần đầu tiên HS được làm quen với ngôn ngữ lập trình. Do vậy, khi thực hành
những câu lệnh của Logo GV cần lưu ý HS phải rất cẩn thận khi viết các câu
lệnh, tránh để HS hiểu tùy tiện, áp dụng những ngôn ngữ thông thường dành cho
câu lệnh.
Đứng trước mỗi bài tập, bài thực hành, GV luôn luôn yêu cầu HS chia

công việc được giao thành những nhiệm vụ nhỏ hơn và cuối cùng dùng những
lệnh cơ bản của Logo để thực hiện. Sau khi chia nhỏ và phân tích bài tốn, cần
rèn luyện cho HS cách nhìn tổng hợp bài tốn.
Khuyến khích HS làm việc tập thể, làm việc theo nhóm .
Ví dụ: B2/123 SGK . Viết chương trình gồm một số thủ tục để tạo ra hình
trang trí theo mẫu.


Để làm được bài tập này, GV cho HS thảo luận nhóm 4 và chia việc cho từng
HS cụ thể như:
Thủ tục 1: Vẽ hình vng với câu lệnh Repeat 4[FD 50 T 90]
Thủ tục 2: Vẽ tam giác: Repeat 3 [FD 50 RT 120]
Thủ tục 4: Vẽ ngôi nhà: dùng hai thủ tục 1 và 2 tong thân thủ tục 3.
Thủ tục 4: Vẽ vành bánh xe (lặp 12 lần thủ tục 3).
Giáo viên cần nghiên cứu kĩ bài, chuẩn bị đầy đủ đồ dùng trực quan (đồ dùng
trực quan phải đẹp đa dạng, chính xác) gây được hứng thú cho học sinh.
Luôn nghiên cứu kĩ nội dung sách giáo khoa và các tài liệu tham khảo, tìm
tịi, lựa chọn phương pháp. Hình thức dậy học phù hợp với từng bài. Với trình
độ nhận thức của học sinh. Bằng cách tạo ra cho học sinh tâm lí thoải mái “Học
mà chơi, chơi mà học”. Từ đó dẫn dắt các em tiếp thu kiến thức một cách dễ
dàng, khơng gị bó khơng ép buộc trong giờ học.
Bên cạnh sự khéo léo bằng phương pháp nêu vấn đề của giáo viên trong
dạy học. Người giáo viên cũng cần tạo ra sự giao lưu thảo luận giữa học sinh với
học sinh, giữa học sinh với giáo viên mà trong tranh luận tâm lý của các em rất
hiếu thắng, chưa phân biệt đúng sai vì thế người giáo viên cần phải thích rõ nội
dung của vấn đề, dẫn dắt học sinh điều các em cần hiểu. Cần động viên khuyến
khích kịp thời, đúng lúc để tạo niềm tin cũng như sự say mê, suy nghĩ của các
em trong việc tiếp thu kiến thức.



Vấn đề “Nâng cao chất lượng giảng dạy và đổi mới phương pháp dạy môn
Tin học ở Tiểu học” không phải chỉ là việc đơn giản có thể đổi mới ngay trong
thời gian ngắn. Đứng về phía giáo viên muốn cho học sinh học tốt các yếu tố
hình học trước hết phải đổi mới tư duy cũng như đổi mới các phương pháp giảng
dạy phải có lịng u nghề, mến trẻ và ln ln tìm tịi cách giảng dạy sao cho
dễ hiểu nhất đến học sinh, chủ động tổ chức các trò chơi để gây hứng thú cho
các em. Hơn nữa phải có sự liên kết hợp chặt chẽ với gia đình học sinh giúp cha
mẹ các em hiểu rõ quan tầm quan trọng của việc học.



×