Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Tài liệu Luận văn " THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT - MỸ " pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 106 trang )

Khoá luận tốt nghiệp năm 2003

Lê Thị Thu Hường

TRNG I HỌC NGOẠI THƯƠNG
I.

Khoa kinh tế ngoại thương

  

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN
ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HIỆP
ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT - MỸ

Giáo viên hướng dẫn: THS. Đặng Thị Nhàn
Sinh viên thực hiện : Lê Thị Thu Hường
Lớp
: Nhật 3 - K38F

Hà Nội, tháng 12/2003

1


Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện HĐTMVM

MC LC
Trang


1

LI M ĐẦU.

Chương I: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VÀ NHỮNG CAM KẾT
VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH TRONG HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI
VIỆT - MỸ
I. KHÁI NIỆM THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

1. Khái niệm.
2. Phân loại Thị trường tài chính

3
3

3
4

2.1. Phân loại theo phương thức vay.
2.2. Phân loại theo thời điểm phát hành chứng khoán.
2.3. Phân loại theo cơ sở kỳ hạn thanh toán của chứng khoán.
II. CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH.

4
5
6
6

1. Thị trường tiền tệ
1.1. Khái niệm Thị trường tiền tệ.


6
6

1.2. Hoạt động của Thị trường tiền tệ.
2. Thị trường vốn
2.1. Các quan điểm về Thị trường vốn
2.2. Hoạt động của thị trường vốn

7
9
9
10

3. Thị trường ngoại hối
3.1. Khái niệm thị trường ngoại hối
3.2. Hoạt động của thị trường ngoại hối

13
13
14
16

III. CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

1. Chức năng huy động vốn
2. Chức năng luân chuyển vốn
3. Chức năng định giá trị doanh nghiệp
4. Chức năng khuyến khích cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh doanh
IV. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC

DÂN
V. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT- MỸ

1. Bối cảnh ra đời Hiệp định thương mại Việt- Mỹ (HĐTMVM)
2. Nội dung cơ bản của Hiệp định
2.1. Giới thiệu chung về nội dung của HĐTMVM
2

16
18
18
18
19
20
20
21
21


Khoá luận tốt nghiệp năm 2003

Lê Thị Thu Hường

2.2. Nhng cam kết cụ thể về Thị trường tài chính

3

23



Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện HĐTMVM

Chng II: THC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI
VIỆT - MỸ
I. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ VIỆT NAM

28

28

1. Quá trình hình thành và phát triển
1.1. Thị trường tiền tệ (TTTT) Việt Nam trước năm 1990
1.2. Thị trường tiền tệ Việt Nam sau năm 1990
2. Những kết quả đạt được
2.1. Thị trường tín dụng qua hệ thống ngân hàng

28
28
28
29
29

2.2. Thị trường nội tệ liên ngân hàng
2.3. Thị trường tín phiếu kho bạc (TPKB)
3. Những vấn đề đặt ra đối với thị trường tiền tệ Việt Nam theo các cam kết
trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ

33
33

36

II. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG NGOẠI HỐI VIỆT NAM

44

1. Quá trình hình thành và phát triển
2. Những kết quả đạt được
2.1. Về diễn biến tỷ giá và cơ chế điều hành tỷ giá

44
46
46

2.2. Về hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
3. Những vấn đề đặt ra đối với thị trường ngoại hối Việt Nam theo các cam
kết trong HĐTMVM

49
54

III. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHỐN (TTCK) VIỆT NAM

1. Q trình hình thành và phát triển
2. Những kết quả đạt được
3. Những vấn đề đặt ra đối với thị trường chứng khoán Việt Nam theo các

59
59
60

65

cam kết trong HĐTMVM
Chương III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 70
VIỆT NAM THEO CÁC CAM KẾT ĐẶT RA TRONG HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI VIỆT- MỸ
I. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN VÀ HỘI NHẬP THỊ TRƯỜNG 70
TÀI CHÍNH VIỆT NAM
II. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM ĐẾN NĂM 71
2010 ĐÁP ỨNG CÁC YÊU CẦU HỘI NHẬP
III. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM 74

4


Khoá luận tốt nghiệp năm 2003

Lê Thị Thu Hường

THEO CC CAM KẾT ĐẶT RA TRONG HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT- MỸ

1. Đối với thị trường tiền tệ
1.1. Lành mạnh hoá, phát triển, nâng cao năng lực của hệ thống ngân hàng,
các tổ chức tín dụng
1.2. Giảm dần sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động ngân hàng
1.3. Tăng cường quy mơ NHTM

74
74
76

77

1.4. Hồn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ hiện có, phát triển 78
mạnh các sản phẩm dịch vụ mới của các NHTM
1.5. Phát triển và mở rộng mạng lưới ngân hàng
81
1.6. Tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền tệ
1.7. Các giải pháp nhằm đảm bảo an tồn hệ thống
1.8. Tăng cường cơng tác thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng

81
82
83

1.9. Nâng cao chất lượng đội ngũ ngân hàng

84

2. Đối với thị trường ngoại hối

85

2.1. Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá
2.2. Hoàn thiện và phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng

85
86

2.3. Nâng cao vai trò của NHNN trên thị trường ngoại hối
2.4. Hoàn thiện và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ

2.5. Đào tạo cán bộ và trang bị kỹ thuật hiện đại
3. Đối với thị trường chứng khốn
3.1. Khơi phục và nâng cao lịng tin của cơng chúng đầu tư

87
87
89
90
90

3.2. Xây dựng một lộ trình rõ ràng trong công tác tăng cường số lượng và
chất lượng của các chứng khoán được niêm yết trên TTGDCK

91

3.3. Những giải pháp thu hút đầu tư vào TTCK
3.4. Hoàn chỉnh khung pháp lý cho hoạt động TTCK

91
94

3.5. Một số giải pháp về hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật và bộ máy quản
lý điều hành hoạt động thị trường

95

KẾT LUẬN

96
97


TÀI LIỆU THAM KHẢO

5


Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện HĐTMVM

LI M U

T

rong những năm gần đây, lĩnh vưc tiền tệ, hoạt động ngân hàng và Thị
trường tài chính đã trở thành một trong những lĩnh vực kích thích nhất của

tồn bộ nền kinh tế. Thị trường tài chính đang thay đổi nhanh chóng với những
phương tiện tài chính mới xuất hiện theo từng ngày, từng giờ. Công nghiệp hoạt
động ngân hàng trước kia vốn lặng lẽ, nay trở nên sôi động và thường xuyên được
nêu trên các phương tiện thông tin đại chúng, thị trường chứng khoán đã trở thành
điểm hẹn chung cho tất cả mọi người, mọi thành phần kinh tế và trở thành mạch máu
quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các nước phát triển; vấn đề chỉ
đạo chính sách tiền tệ là khâu trung tâm trong những cuộc tranh luận về đường lối
kinh tế.
Bước sang những năm đầu của thế kỷ 21, Thế giới đang chứng kiến những thay
đổi căn bản trong sự phát triển kinh tế, chính trị xã hội cũng như quan hệ quốc tế,
kinh tế ngày càng giữ vai trò quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia, đồng thời
tác động sâu sắc tới chính trị, qn sự, văn hố, xã hội, dân tộc và mơi trường sinh
thái. Tổng hồ các tác động đó dẫn đến hai dịng phát triển dường như thuận nghịch
là hợp tác và cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Những chuyển động này của toàn
cầu tác động mạnh mẽ đến các quốc gia, làm ấm dần quan hệ giữa các quốc gia.

Hoà cùng nhịp điệu với xu thế chung của toàn cầu, Việt Nam đã và đang tiến
hành mở rộng quan hệ ngoại giao, thương mại với tất cả các nước trong khu vực
cũng như trên thế giới theo quan điểm “đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế
đối ngoại” do Đảng và Nhà nước đưa ra. Thực hiện đường lối này, đến nay Việt
Nam đã đặt quan hệ ngoại giao được với hơn 150 nước và vùng lãnh thổ, nhiều hiệp
định thương mại song phương và đa phương đã được ký kết và gần đây nhất phải kể
đến là Hiệp định thương mại song phương Việt- Mỹ, Hiệp định đánh dấu một bước
ngoặt chiến lược trong q trình thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại của Việt
Nam, mở ra nhiều cơ hội mới cho Việt Nam thực hiện thành công công cuộc cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền
vững.
Để thực hiện thành công các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ,
nền kinh tế Việt Nam đã và đang phải trải qua q trình cơ cấu và cơ cấu lại, trong
đó phát triển và hồn thiện thị trường tài chính được coi là nhiệm vụ quan trọng, có
6


Khoá luận tốt nghiệp năm 2003

Lê Thị Thu Hường

tớnh c sở, bởi tài chính đã từng bước được ví như là mạch máu của một nền kinh tế.
Một nền kinh tế muốn phát triển thì các dịng vốn phải được lưu thông tốt và đều đặn,
liên tục. Mặc dù những cam kết và quy định giữa hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ về
lĩnh vực tài chính trong Hiệp định thương mại Việt- Mỹ là khá khắt khe so với trình
độ phát triển của thị trường tài chính Việt Nam nhưng chính những yêu cầu được đặt
ra trong Hiệp định sẽ mang lại cho thị trường tài chính Việt Nam cơ hội để tự đổi
mới và hồn thiện mình, từ đó đẩy nhanh sự phát triển của cả nền kinh tế. Tuy nhiên,
một vấn đề hiện nay đang được khá nhiều người quan tâm tìm hiểu là: những yêu
cầu mà Hiệp định thương mại Việt- Mỹ đặt ra cho thị trường tài chính Việt Nam là

gì và thị trường tài chính Việt Nam sẽ phải thay đổi ra sao để đáp ứng được những
yêu cầu đó? Để giải đáp một phần vấn đề này, em xin chọn đề tài “Thị trường tài
chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Hiệp định thương
mại Việt- Mỹ” làm chủ đề nghiên cứu cho bài khoá luận của mình.
Khố luận gồm 3 chương:
Chương I: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VÀ NHỮNG CAM
KẾT VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH TRONG HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆTMỸ.
Chương II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIỆT NAM VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI VIỆT- MỸ.
Chương III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TÀI
CHÍNH VIỆT NAM THEO CÁC CAM KẾT ĐẶT RA TRONG HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI VIỆT- MỸ.
Đây là một đề tài có phạm vi rộng lớn, nhưng trong giới hạn của một đề tài
khoá luận tốt nghiệp, em chỉ đi sâu khai thác một số khía cạnh trên thị trường tài
chính mà em cho là chịu ảnh hưởng nhiều nhất của quá trình hội nhập nền tài chính
quốc tế. Cũng thơng qua đây, em muốn bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình tới ThS.
Đặng Thị Nhàn, người đã đưa ra nhiều ý kiến quý báu và tận tình hướng dẫn để em
có thể hồn thành tốt khố luận này. Tuy nhiên, do trình độ cũng như khả năng phân
tích và tổng hợp tư liệu của bản thân còn hạn chế, cộng với sự eo hẹp về mặt thời
gian nên khoá luận khơng thể tránh khỏi những thiếu sót hạn chế. Em rất mong nhận
được sự thông cảm cũng như ý kiến chỉ bảo của các thầy cô nhằm rút ra những kinh

7


Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện HĐTMVM

nghim quớ bỏu phục vụ cho việc hoàn thiện đề tài này cũng như việc học tập và
nghiên cứu sau này.

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VÀ NHỮNG
CAM KẾT VỀ THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH TRONG HIỆP ĐỊNH THƯƠNG
MẠI VIỆT - MỸ
I. KHÁI NIỆM THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

1. Khái niệm
Thị trường tài chính là thị trường trong đó vồn được chuyển từ những người
hiện có vốn dư thừa sang những người thiếu vốn.
Nền kinh tế nào cũng đều có nhu cầu to lớn để vận hành và phát triển kinh tế.
Vậy thì, vốn lấy từ đâu ra? Nói chung, vốn lấy từ ba nguồn:
+ Nhà nước- Chủ nhân của xí nghiệp quốc doanh cấp vốn cho các xí nghiệp
của mình dưới hình thức cho vay, nhằm đảm bảo sự tăng trưởng của chúng;
+ Hệ thống ngân hàng và các định chế tài chính- những cơ quan này chấp
thuận cho các xí nghiệp và các công ty vay với những điều kiện nhất định;
+ Qua trung gian thị trường tài chính- một công cụ hết sức quan trọng về
phương diện cấp vốn.
Một vấn đề được nhiều người thừa nhận là các nền kinh tế của các nước cơng
nghiệp hố đã phát triển mạnh mẽ, bền vững nhờ sự phát triển ổn định của thị trường
tài chính. Thị trường tài chính cấp vốn cho nền kinh tế bằng hai cách: tăng tư bản và
cho vay vốn. Vậy điều này diễn ra như thế nào?
Một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường bắt đầu vận hành được chủ yếu
nhờ số vốn đóng góp ban đầu của các “cổ đông” sáng lập. Dần dần doanh nghiệp
phát triển, “ăn nên làm ra”, doanh nghiệp cần thêm vốn để mở rộng sản xuất kinh
doanh. Có thể lúc đầu bằng tài sản của mình và các khoản lợi nhuận thu được do
doanh nghiệp trả, các cổ đông sáng lập có thể góp vốn thêm để xí nghiệp phát triển.
Nhưng rồi đến một lúc nào đó khi nhu cầu vốn lớn mãi lên họ sẽ khơng cịn đủ khả
năng theo kịp tốc độ tăng trưởng đó. Cơ cấu tài chính xí nghiệp sẽ mất cân đối nghĩa
là hoặc các khoản tín dụng ngắn hạn đãvượt quá xa nhu cầu cấp vốn lưu động, hoặc
vốn tự có chỉ cịn đủ cấp một phần nhỏ cho tài sản kinh doanh, trong khi đó các
khoản cơng ty cho vay khơng dễ gì thu hồi về nhanh được. Doanh nghiệp có thể bị


8


Khoá luận tốt nghiệp năm 2003

Lê Thị Thu Hường

e do phá sản! Trong tình huống này, một khoản tiền vốn “nóng” rót từ bên ngồi
vào là tối cần thiết. Khoản tiền đó có thể lấy từ Thị trường tài chính!
Cơ chế huy động vốn thơng qua thị trường tài chính được hiểu như sau: Một
số tác nhân kinh tế có nhu cầu đầu tư nhiều hơn phần mình tiết kiệm được- và do đó
cần đến vốn từ bên ngồi (số này, nói chung, là các xí nghiệp thuộc khu vực sản xuất
và Nhà nước). Trong khi đó, một số tác nhân kinh tế khác có khoản tiền tiết kiệm
nhiều hơn khoản đầu tư- và do vậy có khả năng cấp vốn (số này thơng thường là các
hộ gia đình). Một trong số các “công cụ” tổ chức ra việc lưu chuyển vốn từ nơi này
đến nơi khác chính là Thị trường tài chính. Việc lưu chuyển này có thể thực hiện
bằng nhiều cách khác nhau hoặc là các doanh nghiệp trực tiếp mua khoản tiết kiệm
này của các hộ gia đình trên Thị trường tài chính (thơng thường tại thị trường chứng
khoán); hoặc là các doanh nghiệp mua lại khoản vốn đó gián tiếp tại các tổ chức tài
chính trung gian. Thị trường chứng khoán chỉ là một trong những công cụ cấp vốn,
nhưng là một trong những công cụ cấp vốn hợp lý và hiệu quả nhất.
2. Phân loại Thị trường tài chính
2.1. Phân loại theo phương thức vay
Theo cách này Thi trường tài chính (TTTC) được chia ra làm 2 loại là Thị
trường nợ và Thị trường vốn cổ phần. Bởi trên thực tế có hai cách để một cơng ty
hay một cá nhân có thể vay vốn trong TTTC. Phương pháp chung nhất là người đi
vay sẽ phát hành một cơng cụ vay nợ- có thể là trái khốn hay một món vay thế
chấp- để trao cho người vay nắm giữ. Người đi vay phải trả cho người cho vay
những khoản tiền lãi nhất định được ghi trong công cụ nợ. Mức lãi suất này lớn hay

nhỏ phụ thuộc vào giá trị tiền vay và thời gian vay. Hết thời hạn cho vay, người đi
vay phải thanh tốn tồn bộ số tiền bao gồm cả cả vốn lẫn lãi cho người cho vay
(nếu lãi chưa được trả hết). Trên thị trường nợ, vị thế của người phát hành ra công cụ
nợ rất quan trọng. Vị thế của người phát hành cao thì khả năng thanh tốn tiền lãi và
hoàn vốn đi vay cao và ngược lại. Một công cụ vay nợ là ngắn hạn nếu kỳ hạn thanh
tốn của nó là một năm hay ít hơn và là dài hạn nếu kỳ hạn thanh tốn của nó là 5
năm trở lên. Cơng cụ vay nợ có kỳ hạn thanh toán giữa 1 và 5 năm được gọi là trung
hạn.
Phương pháp thứ hai để vay vốn là phát hành những chứng khốn vốn ví dụ
như cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi. Chúng là những chứng thư xác nhận sự góp
vốn và quyền sở hữu phần vốn đã góp của cổ đơng vào doanh nghiệp, do doanh
9


Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện HĐTMVM

nghip phỏt hnh và được chia lãi (gọi là cổ tức) theo phần vốn đã góp cho doanh
nghiệp và được huởng các quyền lợi khác do Điều lệ của doanh nghiệp cổ phần quy
định.
Sự khác biệt chủ yếu giữa các công cụ nợ và các chứng khoán vốn là ở chỗ
người sở hữu các cơng cụ nợ được thanh tốn lãi suất đều đặn, đúng quy định đã
thoả thuận giữa công ty và các chủ nợ bất kể là cơng ty đó làm ăn có lãi hay khơng.
Trong khi đó các cổ đơng của cơng ty lại là những người có quyền địi hưởng cổ tức
sau cùng và mức cổ tức được hưởng này lại tuỳ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của
công ty. Nhưng khi lợi nhuận và giá trị tài sản của cơng ty tăng lên thì các thì các cổ
đơng lại là những người được hưởng lợi trực tiếp bởi vì họ thực sự là những ơng chủ
của cơng ty với mức quyền lợi phụ thuộc số vốn đóng góp của họ.
2.2. Phân loại theo thời điểm phát hành chứng khốn
Theo cách này ta có TTTC cấp một và TTTC cấp hai.
TTTC cấp một là thị trường phát hành ra những chứng khoán vốn và chứng

khoán nợ để huy động vốn hoặc tăng vốn cho doanh nghiệp.
TTTC cấp hai là thị trường trong đó diễn ra việc mua đi, bán lại các chứng
khoán cũ đã được phát hành trên thị trường cấp một.
Thị trường cấp một là loại thị trường mà cơng chúng khơng biết rõ bởi vì việc
bán chứng khốn cho người đầu tiên mua nó diễn ra trong phịng kín. Các cơng ty
phát hành chứng khốn trên TTTC cấp một nhằm mục đích tăng vốn điều lệ cho
cơng ty. Do TTTC cấp một là một thị trường phát hành nên cơ cấu của nó phải bao
gồm đầy đủ các yếu tố tạo lập chứng khốn như hình thức chứng khoán, thủ tục tăng
vốn, các nghiệp vụ giao dịch chứng khốn mới, các yếu tố pháp lý có liên quan tới
việc đăng ký, lưu thông và bảo quản, cất trữ chứng khoán…
Thị trường cấp hai là thị trường mua bán những chứng khoán đã được phát
hành từ trước và việc mua bán được tổ chức công khai với nhiều công cụ thiết bị
thông tin cập nhật, hiện đại. Việc mua bán chứng khốn trên thị trường cấp hai
khơng làm tăng vốn của cơng ty mà chỉ có tác dụng dịch chuyển vốn từ nơi này sang
nơi khác, từ người này sang người khác. Những ví dụ về TTTC cấp hai là các Sở
Giao dịch chứng khoán, các Thị trường ngoại hối, Thị trường tài chính kỳ hạn.
TTTC cấp hai thực hiện hai chức năng: Thứ nhất, nhờ có TTTC cấp hai mà
những cơng cụ tài chính chuyển đổi được ra tiền mặt dễ dàng hơn, nghĩa là nó có
tính “lỏng” cao hơn. Điều này làm cho các công cụ tài chính có tính hấp dẫn hơn với
10


Khoá luận tốt nghiệp năm 2003

Lê Thị Thu Hường

cụng chỳng và làm tăng cầu về hàng hoá trên TTTC cấp một. Thứ hai, thị trường
cấp hai xác định giá của mỗi chứng khốn mà cơng ty phát hành bán ở thị trường cấp
một. Những hãng mua các chứng khoán ở thị trường cấp một sẽ chỉ thanh tốn cho
cơng ty phát hành với giá mà họ cho rằng thị trường cấp hai sẽ chấp nhận cho chứng

khoán này. Giá chứng khốn ở thị trường cấp hai càng cao thì giá phát hành ở TTTC
cấp một càng cao và ngược lại
2.3. Phân loại theo cơ sở kỳ hạn thanh toán của chứng khoán
Trên cơ sở kỳ hạn thanh toán của chứng khoán được mua bán trên thị trường,
TTTC được chia ra làm 2 loại là thị trường tiền tệ và thị trường vốn
Thị trường tiền tệ là một thị trường tài chính trong đó chỉ có những cơng cụ
nợ ngắn hạn (kỳ hạn thanh toán từ 1 năm trở xuống) được mua bán.
Thị trường vốn là thị trường trong đó những cơng cụ vay nợ dài hạn hơn (kỳ
hạn thanh tốn lớn hơn 1 năm), và cổ phiếu được mua bán.
So với những công cụ vay nợ dài hạn, những công cụ nợ ngắn hạn trên thị
trường tiền tệ có tính thanh khoản cao, dao động giá nhỏ và ít rủi ro hơn cho nên
chúng thường được mua bán rộng rãi. Tuy nhiên hoạt động trên thị trường vốn lại
thu hút được nhiều nhà đầu tư kinh doanh vốn và các công ty lớn hơn bởi giá trị giao
dịch trên thị trường này lớn hơn nhiều so với Thị trường tiền tệ.
II. CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

Việc phân tích cơ cấu TTTC được tiến hành dựa trên cơ sở kỳ hạn thanh toán
của chứng khoán. Theo cách phân loại này, Thị trường tài chính bao gồm Thị trường
tiền tệ và Thị trường vốn. Ngồi ra, cơ cấu TTTC cịn có thể phân ra thêm 1 loại
nữa là thị trường ngoại tệ hay còn gọi là thị trường ngoại hối. Tại Việt Nam, thị
trường này còn ở dạng sơ khai và được đặt trong Thị trường ngoại tệ liên ngân hàngtức là một thành phần của Thị trường tiền tệ. Nhưng ở hầu hết các nước phát triển
mà Mỹ là một điền hình thì thị trường này hoạt động như một bộ phận TTTC tương
đối độc lập. Do đó việc nghiên cứu riêng thị trường ngoại hối là rất cần thiết.
1. Thị trường tiền tệ
1.1. Khái niệm Thị trường tiền tệ
Theo nghĩa rộng, Thị trường tiền tệ là thị trường vay vốn ngắn hạn giữa các
tổ chức tài chính và khách hàng của họ. Trước đây, Thị trường tiền tệ được hình
thành do nhu cầu của các Ngân hàng muốn trao đổi với nhau các khoản vốn tạm thời
11



Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện HĐTMVM

d dụi một số Ngân hàng với những khoản vốn thiếu ở một số Ngân hàng khác.
Do đó, việc tham gia Thị trường tiền tệ chỉ hạn chế trong một số tổ chức tài chính
nhất định như các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các cơng ty bảo
hiểm, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư.
Những năm gần đây, khái niệm Thị trường tiền tệ được mở rộng bao hàm cả
không chỉ Ngân hàng và các tổ chức tài chính mà cịn cả các doanh nghiệp khơng
phải Ngân hàng. Ngân hàng và các tổ chức tài chính này mua và bán trên thị trường
số vốn tạm thời dư thừa nhằm duy trì khả năng thanh tốn của mình, cho vay để
kiếm lãi, vay vốn để hoạt động.
Thị trường tiền tệ kinh doanh một loại hàng hoá đặc biệt là “tiền tệ”. Sự biến
động về số lượng, tỷ giá của loại hàng hố này khơng chỉ ảnh hưởng tới việc kinh
doanh của mỗi cá nhân mà còn tác động tới sự ổn định và tăng trưởng của cả một
nền kinh tế. Chính vì vậy, Thị trường tiền tệ ln được Nhà nước quan tâm và kiểm
soát chặt chẽ bằng hệ thống pháp luật.
Đối tượng tham gia Thị trường tiền tệ là các Ngân hàng thương mại và các tổ
chức tín dụng thực hiện chức năng vay để cho vay với lãi suất cao hơn. Trong công
nghệ này, các Ngân hàng thương mại hoạt động trong giới hạn quy định của NHTƯ
về khoản dự trữ bắt buộc (khoản này không được trả lãi) và về các khoản vay vốn
cho hoạt động tín dụng (NHTƯ khống chế bằng lãi suất chiết khấu).
1.2. Hoạt động của Thị trường tiền tệ
Trong nền kinh tế, một số cá nhân, doanh nghiệp thường có lượng tiền nhàn
rỗi, ngược lại một số các cá nhân, doanh nghiệp khác lại cần tiền để mua sắm đầu tư.
Cũng như sự vận động của bất kỳ hàng hoá nào, tiền vận động từ nơi có tiền đến nơi
cần tiền thơng qua Thị trường tiền tệ. Ở đây, các cá nhân, doanh nghiệp này thường
tác động lẫn nhau sao cho người cho vay và người đi vay đều có lợi nhất. Lãi suất
trên Thị trường tiền tệ cũng giống như giá cả thị trường của hàng hoá khác phụ
thuộc vào cung cầu tiền tệ trên thị trường.

Cung tiền tệ trên thị trường là khả năng có thể đáp ứng các nhu cầu về tiền tệ
bao gồm các khối lượng tiền tệ sẵn có và tiền tệ có thể cho vay được. Trong nền kinh
tế, số tiền đang lưu hành ngoài Ngân hàng, các khoản tiền gửi ở Ngân hàng và các tổ
chức tài chính tín dụng khác có thể rút ra được đã hình thành nên tổng mức cung.
Thơng thường, Chính phủ có thể kiểm soát được tổng mức cung tiền tệ trong nền
kinh tế.
12


Khoá luận tốt nghiệp năm 2003

Lê Thị Thu Hường

Cu tin tệ trên thị trường là nhu cầu về tiền tệ của các cá nhân, doanh nghiệp
để mua sắm, đầu tư v.v… Cầu tiền tệ là đại lượng nhạy cảm với lãi suất. Khi lãi suất
tăng lên, trong các điều kiện không đổi, cầu thường giảm xuống và ngược lại. Và tác
động của cung cầu tiền tệ đến lãi suất diễn ra như sau: Do giá cả hàng hoá tăng lên,
nhu cầu về đầu tư sản xuất, mua sắm cũng tăng lên v.v… cầu tiền tệ cũng tăng lên và
làm cho lãi suất cũng tăng theo. Tuy nhiên, mức tăng này của lãi suất cũng có một
giới hạn nhất định. Sự tăng lên của lãi suất đến một mức độ nào đó, người vay sẽ
thấy sử dụng tiền vay khơng có hiệu quả bằng cho vay, nói cách khác lợi nhuận thu
được do sử dụng đồng vốn đi vay nhỏ hơn lãi suất vay, các doanh nghiệp sẽ không
vay được nữa hoặc chuyển từ đi vay sang cho vay, kết quả là kéo lãi suất xuống.
Tình hình cũng sẽ diễn ra như vậy nếu cung tiền tệ bị giảm đi do các chính sách thắt
chặt tiền tệ. Ngược lại, khi cung tiền tệ tăng lên, lãi suất trên thị trường sẽ giảm
xuống.
Thị trường tiền tệ khơng phải là nơi có địa điểm “hữu hình” để người mua và
người bán đến gặp nhau và thực hiện các giao dịch, mà chỉ là một khái niệm nói lên
sự tiếp xúc giữa hai yếu tố cơ bản của thị trường là cung và cầu để hình thành nên
các hoạt động cũng như hình thành giá cả tín dụng (lãi suất). Đối tượng của Thị

trường tiền tệ là các chứng khốn ngắn hạn thơng thường dưới 1 năm, các hối phiếu
thương mại, các kỳ phiếu Ngân hàng, các khế ước giao hàng, các tín phiếu Kho bạc
ngắn hạn, v.v… Nhưng đây là các công cụ tài chính có khả năng thanh khoản cao và
ít rủi ro, đặc biệt đối với những người cần một khoản tiền mặt, thì họ có thể dễ dàng
bán các loại phiếu ghi nợ ngắn hạn hơn là bán các loại phiếu ghi nợ dài hạn và chịu
phí tổn ít hơn. Hơn nữa, các phiếu ghi nợ ngắn hạn ít bị rủi ro, vì thời gian hồn vốn
ngắn và người chủ nợ có thể tính tốn được ngay giá cả và mức lãi suất của nó bằng
phép tính đơn giản. Giá cả của các loại phiếu ghi nợ này cũng lên xuống linh hoạt
theo quy luật cung cầu.
Hoạt động kinh doanh tiền tệ của các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín
dụng bị khống chế bởi lãi suất và chịu sự điều tiết của NHTƯ. Mức tăng, giảm lãi
suất phụ thuộc vào quan hệ cung cầu về tiền tệ, vào chính sách tiền tệ của NHTƯ và
các chính sách của Chính phủ. NHTƯ giữ tiền dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín
dụng để đảm bảo cho sự hoạt động an toàn của chúng và các hoạt động tiền tệ, tín
dụng nói chung trong nền kinh tế. Do số lượng các tổ chức tín dụng này rất lớn nên
13


Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện HĐTMVM

NHT ch cn sử dụng một phần số tiền dự trữ bắt buộc để dự trữ là đủ. Số cịn lại
có thể cho các tổ chức tín dụng vay.
Vậy, Thị trường tiền tệ đã thực hiện 2 chức năng cơ bản, đó là: Cân đối, điều
hoà khả năng chi trả giữa các Ngân hàng; và cân đối các nguồn vốn vay và cho
vay giữa các tổ chức tín dụng và NHTƯ.
Có thể phân biệt hai loại nghiệp vụ được thực hiện trên Thị trường tiền tệ.
Một là, nghiệp vụ cho vay ngắn hạn của NHTƯ cho các Ngân hàng thương mại vay
để thực hiện chức năng cung ứng, cân bằng tiền tệ hay người cho vay cứu cánh cuối
cùng, hoặc của các tổ chức tín dụng có số dư tạm thời về khả năng chi trả đối với các
tổ chức tín dụng đang gặp khó khăn về nguồn vốn huy động. Hai là, nghiệp vụ mua

bán các chứng khoán ngắn hạn.
Trong nghiệp vụ thứ nhất, đối tượng của Thị trường tiền tệ là hoạt động cho
vay và giá cả của khoản tiền cho vay là lãi suất. Các Ngân hàng và các tổ chức tín
dụng đang thiếu vốn cố gắng huy động được chúng với lãi suất càng thấp càng tốt,
còn các Ngân hàng cho vay lại cố gắng tìm kiếm lãi suất cho vay cao. Đây là thị
trường dành cho các công cụ nợ ngắn hạn: Chứng chỉ tiền gửi có thể chuyển nhượng
được (negotiable certificates of deposit), thương phiếu, tín phiếu Ngân hàng, trái
phiếu kho bạc ngắn hạn, giấy nợ khấu trừ trước (Discount note), số tiền vay mượn
giữa các Ngân hàng. Nơi đây những nhà đầu tư như Ngân hàng, cơng ty uỷ thác,
cơng ty bảo hiểm có số thặng dư tiền mặt tạm thời sẽ cố gắng khai thác số tiền này
trong một thời gian rất ngắn, thậm chí chỉ cách một đêm bằng cách cho những người
khác vay như kho bạc Nhà nước, NHTM, các công ty cổ phần, các nhà kinh doanh
(Dealer), chính quyền địa phương, các cơng cụ Thị trường tiền tệ ngắn hạn để thanh
tốn nợ ngắn hạn hay để đáp ứng các quy định về tiền mặt tạm thời.
Những người mua bán ở Thị trường tiền tệ liên tục liên lạc với nhau và với
những người đi vay và nhà đầu tư (người cho vay) để kiếm lợi nhuận trong các cơ
hội mua bán song hành. Việc này làm cho giá cả được thống nhất trên thị trường.
Nhà đầu tư bao gồm NHTM, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp phi
tài chính, Ngân hàng nước ngồi, các tổ chức tài chính phi Ngân hàng v.v…ngoài lý
do hoa lợi hấp dẫn tụ hợp trong Thị trường tiền tệ cịn vì 3 lý do cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, đây là thị trường có tính linh hoạt cao (dễ chuyển đổi ra tiền mặt)
- Thứ hai, có mức độ an tồn vốn cao vì người phát hành (người đi vay) thơng
thường được đánh giá có khả năng tín dụng cao. Tuy nhiên, nhà đầu tư phải lưu ý
14


Khoá luận tốt nghiệp năm 2003

Lê Thị Thu Hường


rng cú một số loại cơng cụ tín dụng khơng thể xem là hồn tồn khơng có rủi ro
như kỳ phiếu…
- Thứ ba, thời gian đáo hạn trong thị trường tiền tệ rất ngắn do đó ít bị rủi ro
hơn.
2. Thị trường vốn
2.1. Các quan điểm về Thị trường vốn
Thị trường vốn (hay còn gọi là thị trường tư bản) là nơi diễn ra hoạt động
mua- bán các chứng khoán và các giấy ghi nợ trung và dài hạn.
Liên quan đến quan hệ giữa thị trường vốn và thị trường chứng khoán, hiện
nay đang có hai quan điểm chủ yếu sau:
Quan điểm thứ nhất, cho rằng thị trường vốn và thị trường chứng khốn là
khác nhau vì cơng cụ của Thị trường vốn ngồi các chứng khốn dài hạn, cịn có các
giấy ghi nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Quan điểm thứ hai, xuất phát từ định nghĩa chứng khoán là một cơng cụ tài
chính có thể mua bán chuyển nhượng được, cho rằng Thị trường vốn và thị trường
chứng khoán chỉ là một.
Nhưng đứng trên góc độ của một người đang tìm hiểu và nghiên cứu TTTC
trong bối cảnh hội nhập quốc tế, không chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia, tác
giả ủng hộ quan điểm cho rằng thị trường chứng khoán và thị trường vốn chỉ là một.
Bởi lẽ, nếu xét về mặt nội dung, thì Thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất
bên trong của quá trình mua và bán các sản phẩm tài chính. Thị trường chứng khốn
là biểu hiện bên ngồi, là hình thức giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này
không thể phân biệt tách rời nhau, mà nó là thực thể thống nhất và cùng phản ánh
các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản. Thực tế trên thế giới,
người ta hay nói đến thị trường chứng khốn- hình thức giao dịch vốn, mà ít nói đến
thị trường vốn- quan hệ bản chất bên trong của quá trình mua, bán, chuyển nhượng
các giấy tờ có giá. Sở dĩ ở Việt Nam thường hay tách riêng hai khái niệm này là bởi
vì thị trường chứng khốn ở Việt Nam cịn chưa thực sự phát triển, các hình thức ghi
nợ cịn nhiều hơn là hình thức mua bán lại các chứng khốn có giá.
2.2. Hoạt động của thị trường vốn

Xét bề ngoài, hoạt động trên thị trường vốn không chỉ là các sự việc mua đi
bán lại hay chuyển đổi các giấy tờ có giá từ tay chủ thể này sang tay chủ thể khác
một cách đơn thuần. Về thực chất, đây chính là quá trình chuyển dịch vốn ở hình
15


Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện HĐTMVM

thỏi tin t, hay nói cách khác, nó là q trình chuyển tư bản sở hữu sang tư bản
kinh doanh. Do đó, các quan hệ mua, bán các chứng khoán và các giấy ghi nợ trung,
dài hạn trên thị trường vốn phản ánh sự thay đổi các chủ thể sở hữu về chứng khốn
và các giấy ghi nợ trung, dài hạn. Vì vậy, Thị trường vốn, xét về mặt bản chất, phản
ánh các quan hệ mua bán không phải một số lượng nhất định các tư liệu sản xuất,
các khoản tiền mặt, mà là quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và vốn tiền mặt.
Như đã phân tích ở phần 2.1. Các quan điểm về thị trường vốn, thị trường
vốn và thị trường chứng khoán từ nay sẽ được coi là một, cùng phản ánh các quan hệ
bên trong và bên ngoài của thị trường tư bản. Nhắc đến thị trường chứng khốn có
nghĩa là chúng ta đang đề cập đến thị trường vốn và ngược lại.
Nếu dựa vào nguồn gốc ra đời chứng khốn thì thị trường chứng khốn được
phân thành hai loại là thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường chứng khoán sơ cấp (Primary Market) là thị trường mà ở đó là
nơi phát hành ra những chứng khoán vốn và chứng khoán nợ, tức là thị trường sản
sinh ra hàng hoá của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khốn sơ cấp có tác
dụng huy động vốn hoặc tăng vốn cho các doanh nghiệp và là thị trường phát hành
trái phiếu chính phủ để Nhà nước vay tiền của tất cả các thành phần kinh tế quốc dân.
Chính vì lẽ đó, thị trường này cịn được gọi là thị trường phát hành.
Các doanh nghiệp được quyền phát hành chứng khoán để huy động vốn hoặc
tăng vốn có thể có nhiều phương thức phát hành, trong các phương thức đó thì việc
phát hành thơng qua thị trường chứng khoán chiếm một tỷ trọng đáng kể.
Do vậy, chức năng của thị trường chứng khốn sơ cấp là góp phần huy động

vốn cho các doanh nghiệp và huy động tiền vay cho Chính phủ và cơ quan Chính
phủ.
Khi huy động vốn bằng tiền cho doanh nghiệp hay Chính phủ, các doanh
nghiệp và Chính phủ phải phát hành “giấy chứng nhận góp vốn hoặc vay tiền” cho
người đầu tư và người cho vay, các giấy này được gọi là chứng khốn vốn và chứng
khốn nợ.
Chứng khốn vốn cịn được gọi là cổ phiếu- là một chứng thư xác nhận sự góp
vốn và quyền sở hữu phần vốn đã góp của cổ đông vào doanh nghiệp do doanh
nghiệp phát hành và được chia lãi (gọi là cổ tức) của phần vốn đã góp theo quy định
của doanh nghiệp, được hưởng các quyền do Điều lệ của doanh nghiệp cổ phần quy
định.
16


Khoá luận tốt nghiệp năm 2003

Lê Thị Thu Hường

Chng khoỏn nợ là chứng thư xác nhận một khoản nợ của người phát hành ra
nó, trong đó cam kết sẽ trả khoản nợ kèm với tiền lãi trong một thời hạn nhất định.
Các chứng khốn này có thể dùng để mua bán, chuyển nhượng, trao đổi v.v…
trên thị trường, chúng được gọi là chứng khốn có giá. Vì vậy, thị trường chứng
khốn sơ cấp cịn có thêm một chức năng thứ hai là tạo ra “hàng hoá” cho thị trường
chứng khoán. Công ty cổ phần là doanh nghiệp phát hành chứng khoán vốn và
chứng khoán nợ chủ yếu trên thị trường sơ cấp. Có 3 phương thức phát hành như
sau:
- Một là phát hành trực tiếp tại doanh nghiệp: là phương thức phát hành khá
phổ biến có ưu điểm là bán thẳng tận gốc cho các nhà đầu tư cuối cùng, do đó giảm
được chi phí phát hành.
- Hai là phương thức phát hành qua các trung gian tài chính mà họ có tư cách

là người đại lý như Ngân hàng thương mại, Cơng ty tài chính, Cơng ty bảo hiểm,
Quỹ tương hỗ đầu tư v.v… Theo phương thức phát hành này, các doanh nghiệp có
thể tiêu thụ một khối lượng lớn chứng khốn, do đó, huy động vốn tương đối nhanh.
Tuy nhiên, chi phí của phương thức phát hành này lại rất cao.
- Ba là phương thức phát hành trực tiếp ra công chúng: Theo phương thức này,
các doanh nghiệp phát hành trực tiếp chứng khốn ra cơng chúng dưới hình thức bảo
lãnh (Under writing). Người đứng ra ký hợp đồng bảo lãnh chứng khoán gọi là Nhà
bảo lãnh. Nhà bảo lãnh có thể là Ngân hàng, Cơng ty chứng khoán hoặc là những thể
nhân chuyên kinh doanh trong lĩnh vực này.
Sau khi chứng khoán được phát hành ở thị trường sơ cấp, thì chứng khốn đó
đã trở thành một loại hàng hoá đặc biệt, ta gọi là chứng khoán có giá (Securities).
Chứng khốn có giá sẽ được mua đi bán lại trên thị trường khác, thị trường
này gọi là Thị trường chứng khoán thứ cấp (Secondary Market). Nguồn thu nhập
từ việc mua bán chứng khoán này sẽ thuộc về các nhà đầu tư, các nhà kinh doanh
chứ không thuộc về các đơn vị phát hành ra chứng khốn đó.
Trung tâm của thị trường chứng khoán thứ cấp là Sở giao dịch chứng khoán
(Stock Exchange) và thị trường giao dịch qua quầy OTC (Over-The- Counter). Đặc
trưng kinh doanh của Sở giao dịch chứng khoán là đấu giá giữa những người mua
cạnh tranh và giữa người bán cạnh tranh thông qua người trung gian. Còn đặc trưng
của thị trường OTC là giao dịch trên cơ sở thương lượng trực tiếp giữa người bán và
người mua chứng khoán.
17


Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện HĐTMVM

Cụng vic hng ngày của bất kỳ thị trường chứng khoán thứ cấp nào đều là
việc mua bán các chứng khoán đã phát hành, gồm có cổ phiếu và cổ phần giữa
những người đầu tư mà vì một nguyên nhân hoặc mong muốn nào đó, thay đổi quyết
định đầu tư của mình. Đây là một thị trường thu hút sự chú ý của dân chúng và nó là

nơi giao dịch hàng ngày giữa các nhà mơi giới chứng khốn. Một thị trường thứ cấp
với bất kỳ một quy mơ nào đó đều có một chỉ số theo dõi giá cả được nhiều người
biết đến như là “phong vũ biểu của thị trường”.
Thị trường chứng khoán sơ cấp và thị trường chứng khoán thứ cấp phụ
thuộc lẫn nhau. Hiển nhiên, thị trường chứng khoán thứ cấp sẽ khơng tồn tại nếu
khơng có sự phát hành chứng khốn có thể chuyển nhượng tại thị trường sơ cấp.
Sự thành cơng của thị trường thứ cấp cịn chi phối sự thành công của thị trường
sơ cấp. Thị trường chứng khốn sơ cấp thì huy động vốn nhàn rỗi và vốn tiết
kiệm trong xã hội để đầu tư vào sản xuất từ đó làm cho quy mơ vốn quốc gia tăng
lên, góp phần tạo ra các lượng giá trị mới cho xã hội. Thị trường chứng khoán
thứ cấp thì góp phần phân phối lại vốn giữa các ngành tạo ra tính lỏng cho Thị
trường chứng khốn từ đó tạo ra động lực cho sự phát triển.
3. Thị trường ngoại hối
3.1. Khái niệm thị trường ngoại hối
Ngoài hai thị trường cơ bản nói trên cịn có thị trường ngoại hối. Thị trường
ngoại hối là nơi mà ở đó xảy ra việc mua và bán, trao đổi ngoại hối, trong đó chủ
yếu là trao đổi, mua bán ngoại tệ và các phương tiện thanh tốn quốc tế.
Do tính chất riêng biệt chuyên mua bán ngoại tệ, nên ở nhiều nơi thị trường
này hoạt động như một bộ phận thị trường tài chính tương đối độc lập. Tại Việt Nam,
thị trường này còn ở dạng sơ khai và được đặt trong Thị trường tiền tệ.
Quá trình hình thành và phát triển của thị trường ngoại hối đã hình thành hai
hệ thống tổ chức khác nhau. Hệ thống hối đoái Anh- Mỹ và hệ thống hối đoái Châu
Âu. Theo hệ thống Anh- Mỹ thì thị trường ngoại hối có tính chất biểu tượng, chỉ
giao dịch ngoại hối thường xuyên giữa một số ngân hàng và người mơi giới, quan hệ
này có thể là trực tiếp, song chủ yếu là thông qua điện thoại, telex. Ngược lại, theo
hệ thống lục địa (Pháp, Ý…), thì thị trường ngoại hối có địa điểm nhất định, hàng
ngày, những người mua cỡ lớn có các chi nhánh, đại lý ở nước ngồi giữ vai trị
quan trọng trong thị trường ngoại hối. Các ngân hàng này kinh doanh ngoại hối là
18



Khoá luận tốt nghiệp năm 2003

Lê Thị Thu Hường

ch yu, cịn các ngân hàng khác đóng vai trị phụ thuộc vào hoạt động kinh doanh
dưới sự chỉ đạo của các ngân hàng thương mại cỡ lớn này.
Tham gia vào thị trường ngoại hối gồm có:
- Các ngân hàng thương mại (NHTM): Các Ngân hàng này được phép tiến
hành kinh doanh, giao dịch ngoại hối với tư cách là trung gian được uỷ quyền. Các
Ngân hàng tiến hành giao dịch giữa các Ngân hàng với nhau và với các khách hàng
khác.
- Các nhà môi giới là những trung gian được uỷ quyền giữa các Ngân hàng.
Họ là những thành phần đóng góp tích cực vào hoạt động của thị trường ngoại hối
bằng cách làm cho cung và cầu tiếp cận nhau theo từng giờ giao dịch và nhờ vào
những mối quan hệ của mình, họ thường xun đưa lại những thơng tin và khả năng
tìm thấy bạn hàng nhanh chóng và kịp thời.
- Các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp tham gia vào thị trường ngoại hối
thường là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, thực hiện bán lại ngoại tệ
cho ngân hàng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu và mua ngoại tệ của ngân hàng
đối với các doanh nghiệp nhập khẩu hàng hố nước ngồi.
- Ngân hàng Trung ương (NHTƯ): Sự tham gia vào thị trường ngoại hối của
NHTƯ là rất cần thiết. Một mặt để phục vụ khách hàng của Ngân hàng (các cơ quan
hành chính, các tổ chức quốc tế…), mặt khác, NHTƯ là cơ quan giám sát hoạt động
của thị trường theo quy định của Luật Ngân hàng. Thông qua diễn biến giá trị của
đồng tiền trong nước, NHTƯ có thể can thiệp vào thị trường để quản lý tỷ giá hối
đoái, hạn chế sự dao động của giá trị đồng tiền.
3.2 Hoạt động của thị trường ngoại hối
Có hai loại giao dịch chủ yếu trên Thị trường ngoại hối, đó là: mua bán ngoại
tệ và cho vay ngoại tệ. Hai loại giao dịch này làm phát sinh hai bộ phận thị trường

tương ứng của Thị trường ngoại hối là thị trường giao ngay (Spot Market) và thị
trường giao dịch có kỳ hạn (Forward Market).
Thị trường giao ngay là thị trường mà việc mua bán, thanh toán và giao nhận
ngoại hối xảy ra đồng thời.
Thị trường giao dịch có kỳ hạn là thị trường mà việc ký kết hoạt động mua
bán ngoại hối và việc giao nhận ngoại hối khơng diễn ra đồng thời, có nghĩa là ký
hợp đồng hôm nay nhưng giao nhận ngoại hối sau đó và ngày do hai bên thoả thuận.
19


Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện HĐTMVM

Th trng ngoi hối có kỳ hạn có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc bảo hiểm
ngoại hối, nhằm tránh những rủi ro do tỷ giá ngoại hối biến động gây ra.
Các nghiệp vụ cơ bản trên thị trường ngoại hối gồm có:
- Nghiệp vụ mua bán ngoại hối có kỳ hạn: là một giao dịch trong đó mọi
điều khoản của hợp đồng mua bán được định ra trong hiện tại, song việc thực hiện
các điều khoản đó sẽ xảy ra trong tương lai, hay nói cách khác, đó là nghiệp vụ mua
bán ngoại hối mà việc giao nhận sẽ tiến hành sau một thời gian nhất định, theo một
tỷ giá thoả thuận lúc ký kết hợp đồng.
- Nghiệp vụ Arbitrate: là một dạng biến tướng của nghiệp vụ kinh doanh
ngoại hối giao ngay. Nghiệp vụ Artribate theo ý nguyên thuỷ của nó là việc lợi dụng
sự chênh lệch về tỷ giá giữa các thị trường ngoại hối khác nhau để thu lời thông qua
hoạt động mua và bán. Nội dung của nghiệp vụ này bao gồm việc mua một lượng
ngoại hối nhất định tại thị trường ngoại hối rẻ nhất hoặc bán một lượng ngoại hối đắt
nhất vào một thời điểm nhất định. Trong trường hợp mua ngoại hối tại thị trường rẻ
nhất đồng thời bán số ngoại hối đó tại thị trường ngoại hối đắt nhất thì gọi là
Artribate chênh lệch hay Artribate không gian (Space Artribate).
- Nghiệp vụ SWAP: Lợi dụng cơ chế tín dụng SWAP, ngân hàng phối hợp
mua và bán ngoại tệ giao ngay với mua, bán ngoại tệ có kỳ hạn theo hướng ngược lại

nhằm kiếm lãi hoặc bảo tồn vốn. Nghiệp vụ SWAP không những có thể kiếm lãi mà
cịn có thể tránh được rủi ro tiền tệ biến động.
- Giao dịch hợp đồng ngoại hối Future: Trong khi các giao dịch kỳ hạn
thường được tiến hành qua điện thoại, thì các giao dịch này thường diễn ra tại một
địa điểm cụ thể, chẳng hạn như các sở giao dịch. Tại đây các hợp đồng mua bán
ngoại tệ được ký kết thông qua môi giới. Các hoạt động Future có tính tiêu chuẩn
hố rất cao. Tỷ giá trong giao dịch Future thường cao hơn tỷ giá trong các giao dịch
kỳ hạn do chi phí giao dịch Future cao hơn. Ngoài ra người đến giao dịch cịn phải
chịu một khoản phí mơi giới được quy định theo tiêu chuẩn cho mỗi loại hợp đồng.
Sau khi ký hợp đồng, người mua phải ký quỹ một khoản tiền quy định cho mỗi hợp
đồng nhằm đảm bảo thực hiện hợp đồng.
Trong giao dịch kỳ hạn, hợp đồng mua bán được kết thúc bằng việc giao nhận
thật vào ngày thoả thuận trước (Real Transaction). Còn trong giao dịch Furure,
khách hàng có thể kết thúc hợp đồng vào bất cứ lúc nào bằng cách ký một hợp đồng
khác mua (nếu hợp đồng trước là hợp đồng bán) hoặc bán (nếu hợp đồng trước là
20


Khoá luận tốt nghiệp năm 2003

Lê Thị Thu Hường

hp ng mua) với cùng số tiền và cùng ngày thanh toán. Tất nhiên tỷ giá của hai
hợp đồng này không giống nhau. Trên thực tế hầu hết các giao dịch Future (trên
90%) kết thúc theo kiểu này. Đó chính là một dạng giao dịch khống, một công cụ
bảo hiểm chống lại rủi ro hối đoái.
- Nghiệp vụ quyền lựa chọn mua bán ngoại tệ (Option transaction): Giao
dịch quyền lựa chọn mua bán ngoại tệ là một loại giao dịch được thực hiện trên cơ
sở ký hợp đồng quyền chọn mua (Call option) hoặc quyền chọn bán (Put option) một
số lượng ngoại tệ nhất định, theo một giá quy định và việc thực hiện hợp đồng sẽ

xảy ra trong tương lai. Trong giao dịch này, các chủ thể có thể lựa chọn quyền thực
hiện hợp đồng hoặc cũng có thể lựa chọn quyền huỷ hợp đồng, nếu có lợi. Tuy nhiên
nếu huỷ hợp đồng thì sẽ mất tiền đặt cọc đảm bảo thực hiện hợp đồng.
Ngân hàng Trung ương chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ của một
nước. Tuỳ theo hệ thống hối đoái mà NHTƯ tác động lên Thị trường ngoại hối của
nước đó. Vậy thì NHTƯ tác động vào Thị trường ngoại hối để duy trì tỷ giá hối đối
như thế nào? NHTƯ là một thành viên khơng thể thiếu trong các phiên ấn định tỷ giá
và giành quyền can thiệp vào thị trường với tư cách là người mua hoặc người bán.
Nếu tỷ giá có xu hướng giảm (tức là đồng tiền trong nước trở nên có giá trị hơn) thì
NHTƯ sẽ mua ngoại tệ vào, nếu tỷ giá có xu hướng tăng (hay là đồng tiền trong
nước bị mất giá) thì NHTƯ cần phải sử dụng dự trữ ngoại tệ của mình (tuy nhiên
cũng cần phải cân nhắc sao cho không làm cạn kiệt số dự trữ ngoại hối) để tung ra
bán.
III. CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH

1. Chức năng huy động vốn
TTTC tạo nên một chu trình cấp vốn thơng qua chức năng của thị trường
sơ cấp. Thị trường sơ cấp cho phép “lấy” vốn và trực tiếp chuyển đổi khoản tiết
kiệm của các hộ gia đình thành các nguồn vốn dài hạn cho các xí nghiệp quốc
doanh và doanh nghiệp ngồi quốc doanh. Đổi lại các khoản vốn thu được tại thị
trường này, các cơng ty phát hành các chứng khốn, chủ yếu là các cổ phiếu và trái
phiếu, chứa đựng hay nói cách khác “vật chất hoá” các quyền và quyền lợi của
những người “bán vốn” cho họ. Vậy là thị trường sơ cấp thiết lập nên mối quan hệ
giữa các tác nhân cần vốn và các tác nhân có khả năng cấp vốn. TTTC thực hiện các
chức năng kinh tế cốt lõi trong việc dẫn vốn từ những người thừa vốn (vì họ chi tiêu
21


Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện HĐTMVM


ớt hn) sang những người thiếu vốn (vì họ muốn chi tiêu nhiều hơn) và việc dẫn vốn
được thực hiện theo hai con đường:

TÀI CHÍNH GIÁN TIẾP
Vốn

Vốn
Những trung gian
tài chính
Những người cho vay
(Người tiết kiệm)
1. Các gia đình Vốn
2. Các hãng kinh doanh
3. Nhà người
Những nước cho vay
4. Người nước ngoài
(Người tiết kiệm)
1. Các gia đình
2. Các hãng kinh doanh
Vốn
Vốn

TÀI CHÍNH GIÁN TIẾP
Những trung gian
Vốn
tài chính
Vốn
Các thị trường tài
Các thị trường tài
chính

chính

TÀI CHÍNH TRỰC TIẾP
TÀI CHÍNH TRỰC TIẾP

22

Những người vay
(Người chi tiêu)
Vốn
1. Các hãng kinh doanh
2. Chính phủ
3. Nhà người
Những nước vay
4. Người nước
(Người chi tiêu) ngồi
1. Các hãng kinh doanh
2. Chính phủ
Vốn
Vốn


Khoá luận tốt nghiệp năm 2003

Lê Thị Thu Hường

Hỡnh 1: những dịng vốn đi qua hệ thống tài chính
- Con đường thứ nhất: Tài chính trực tiếp
Trong tài chính trực tiếp (con đường phía dưới đáy ở sơ đồ) những người đi
vay vốn trực tiếp từ người cho vay trong các TTTC bằng cách trao đổi với họ

“chứng khoán”, những chứng khoán này hoặc là những cổ phiếu (quyền sở hữu) đối
với thu nhập hoặc tài sản trong tương lai của người phát hành hoặc trái phiếu (trái
quyền) đối với các khoản nợ của người vay. Như vậy, chứng khoán là tài sản có đối
với người mua chúng và là tài sản nợ đối với những người phát hành chúng. Do đó
ta thấy rằng nếu khơng có TTTC thì sẽ rất khó chuyển vốn từ người khơng có cơ hội
đầu tư sang người có cơ hội đầu tư. Sự tồn tại của TTTC cũng có lợi ngay cả khi
người đi vay khơng có mục đích kinh doanh.
Thực hiện chức năng chuyển vốn từ những người khơng có cơ hội đầu tư sang
người có cơ hội đầu tư, TTTC giúp nâng cao năng suất và hiệu quả của toàn bộ nền
kinh tế.
- Con đường thứ hai: Tài chính gián tiếp
Tài chính gián tiếp thơng qua các trung gian tài chính. Trên sơ đồ ta có thể
thấy tiền có thể chuyển từ người cho vay sang người vay bằng con đường thứ hai
(con đường phía trên sơ đồ) được gọi là tài chính gián tiếp vì nó liên hệ thơng qua
nhân vật thứ ba. Một trung gian tài chính đứng giữa người cho vay và người vay,
người tiết kiệm và người chi tiêu đồng thời giúp chuyển vốn từ người này sang
người kia. Những trung gian tài chính thực hiện việc kinh doanh chuyển vốn từ
người dư vốn sang người cần vốn bằng việc đặt một lãi suất cao hơn cho các món
cho vay so với lãi suất của các món mà họ đi vay để thu lợi nhuận. Nhưng điều quan
trọng hơn cả ở đây là hoạt động của các trung gian tài chính làm cho lãi suất- cịn gọi
là giá cả của tiền tệ phản ánh đúng cung cầu thị trường. Như vậy, nhờ hoạt động tài
chính gián tiếp (được gọi là sự trung gian tài chính) thị trường tài chính được vận
hành.
2. Chức năng ln chuyển vốn
Ngồi chức năng huy động vốn vừa nêu trên, TTTC còn thực hiện một chức
năng khác đó là luân chuyển vốn.
Sự luân chuyển vốn xảy ra trên thị trường thứ cấp. Ở đây diễn ra sự mặc cả,
mua đi, bán lại các chứng khốn đã phát hành và do vậy ln có sự chuyển sở hữu
vốn kinh doanh từ tay người này qua tay người khác. Vậy là, TTTC cho phép huy
23



Thị trường tài chính Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện HĐTMVM

ng cỏc khon đầu tư dưới dạng các cổ phiếu và trái phiếu, nhưng đồng thời cũng
dành cho người đầu tư khả năng “rút chân” ra khỏi thị trường vốn, nghĩa là rút tiền
đã đầu tư ra khi cần.
3. Chức năng định giá trị doanh nghiệp
Hệ quả của việc đinh giá, mua bán chứng khoán trên TTTC là sự đánh giá lại
các tài sản tài chính của từng tác nhân kinh tế tham gia vào thị trường. Như vậy
TTTC ngoài việc cung cấp thường xuyên các chỉ số tài chính cụ thể về trạng thái
“sức khoẻ” của nền kinh tế, nó cho phép xác đinh một cách khách quan giá trị của
từng doanh nghiệp tham gia vào thị trường.
Nhờ chức năng này, người đầu tư có được phương hướng đầu tư vốn rõ ràng
hơn, các nhà quản lý có được quyết sách cụ thể hơn để phát triển doanh nghiệp của
mình trong tương lai. Cịn đối với các Chính phủ, đặc biệt các Chính phủ ở các nền
kinh tế chuyển đổi có được căn cứ thực tiễn để tiến hành tư nhân hoá, cổ phần hoá
hay thanh lý doanh nghiệp thuộc sở hữu của mình.
4. Chức năng khuyến khích cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh doanh
Kết quả của biến động chỉ số chứng khoán trên thị trường tác động trực tiếp
đến uy tín của doanh nghiệp đã phát hành ra chứng khốn đó. Một cổ phiếu lên giá
liên tục khơng những làm tăng giá trị tài sản của cơng ty mà cịn làm tăng uy tín của
nó trên thương trường. Ngược lại, một cổ phiếu xuống giá liên tục không những làm
giảm giá trị tài sản mà cịn làm giảm uy tín của doanh nghiệp trên thương trường.
Chính vì lý do này, để thu hút vốn đầu tư các doanh nghiệp cần phải khơng ngừng
nâng cao uy tín của mình và nâng cao giá trị cổ phiếu. Một cổ phiếu của công ty
muốn lên giá thì cơng ty phải thực sự làm ăn kinh doanh tốt, có hiệu quả. Điều đó
dẫn đến sự cạnh tranh không ngừng giữa các công ty để nâng cao hiệu quả kinh
doanh và hiệu quả đầu tư vào kinh doanh.
IV. VAI TRỊ CỦA THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC

DÂN

TTTC có một vai trị rất quan trọng đối với nền kinh tế. Nó cho phép vốn
chuyển từ người khơng có cơ hội đầu tư sinh lợi tới những người có cơ hội như thế.
Làm việc này, TTTC đã giúp nâng cao năng suất và hiệu quả của tồn bộ nền kinh tế.
Nó cũng trực tiếp cải thiện mức sống của người tiêu dùng bằng cách giúp họ chọn
thời điểm cho việc mua sắm của họ tốt hơn. Nó cung cấp vốn cho những người trẻ
24


Khoá luận tốt nghiệp năm 2003

Lê Thị Thu Hường

tui mua cái họ cần và cuối cùng có đủ khả năng thanh tốn trả mà khơng buộc họ
phải chờ cho đến khi họ tiết kiệm đủ món tiền để mua. TTTC lúc đang hoạt động
hữu hiệu sẽ cải thiện đời sống kinh tế của mỗi người trong xã hội. Nói một cách
chung nhất, TTTC đã khuyến khích người dân tiết kiệm và tạo thói quen để dành
tích cực. Bởi vì khả năng sinh lợi của các loại chứng khoán gây ra ý muốn tiết kiệm
để đưa tiền vào đầu tư. Mỗi người trong xã hội có một số tiền tiết kiệm bé nhỏ,
nhưng tổng số tiền tiết kiệm của cả xã hội sẽ to lớn hơn bất cứ tài sản của cá nhân
nào.
Đối với một nền kinh tế quốc dân, TTTC là nơi cung cấp vốn một cách hiệu
quả cho quá trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố. Một đất nước muốn tiến hành thành
cơng q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố thì khơng nên q trơng chờ vào những
nguồn vốn ở bên ngoài trong khi nguồn vốn trong nước không được chú ý khai thác
triệt để. TTTC đã thực hiện xuất sắc vai trò khai thác mọi khả năng tiết kiệm và tự
đầu tư phát triển của nhân dân, của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế… nâng cao các tỷ trọng của nguồn vốn này trong tổng vốn đầu tư tồn xã hội.
Thơng qua TTCK- một bộ phận quan trọng, hiệu quả của TTTC, các chủ thể

kinh tế đều có thể trở thành nhà đầu tư trực tiếp vào nền kinh tế quốc dân và trở
thành người chủ sở hữu một phần giá trị tài sản của doanh nghiệp. Hơn nữa, nhờ vào
trào lưu quốc tế hoá TTTC quốc gia cho nên TTTC cịn có vai trị là người dẫn vốn
đầu tư nước ngoài vào trong nước, đồng thời dẫn vốn đầu tư trong nước ra nước
ngoài- những nước có cơ hội đầu tư và mơi trường đầu tư có lợi hơn.
Cuối cùng, TTCK cịn có vai trò như chiếc “phong vũ biểu” của nền kinh tế
quốc dân. Sở dĩ như vậy là vì một nền kinh tế phát triển thì lợi nhuận đem chia cho
các chủ đầu tư tăng lên. Lợi nhuận tăng cũng là một yếu tố làm cho giá cả chứng
khoán tăng lên, dung lượng mua bán chứng khốn do đó cũng tăng theo. Ngược lại,
kinh tế suy thoái sẽ dẫn đến sự hoạt động sút kém của thị trường. Những nhà hoạch
định chính sách quản lý thường quan sát chiếc “phong vũ biểu” này để phân tích và
dự đốn, đề ra các chính sách điều tiết kinh tế và phương pháp quản lý kinh tế thích
hợp nhằm thơng qua TTCK để tác động đến các hoạt động của nền kinh tế quốc dân
hoặc ngược lại.
V. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT- MỸ

1. Bối cảnh ra đời Hiệp định thương mại Việt- Mỹ (HĐTMVM)
25


×