Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

QUY LUẬT MÂU THUẪN CỦA PHÉP BCDV VÀ SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT VÀO QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG đất NƯỚC VIỆT NAM CÙNG VỚI SỰ LIÊN HỆ TRONG đời SỐNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.65 KB, 24 trang )

lOMoARcPSD|9242611

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
THUONGMAI UNIVERSITY

THẢO LUẬN
ĐỀ TÀI
QUY LUẬT MÂU THUẪN CỦA PHÉP BCDV VÀ SỰ VẬN
DỤNG QUY LUẬT VÀO QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG ĐẤT
NƯỚC VIỆT NAM CÙNG VỚI SỰ LIÊN HỆ TRONG ĐỜI
SỐNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN
HỌC PHẦN: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
MÃ HP: 2178MLNP0221
NHÓM: 4
GIẢNG VIÊN: ĐẶNG MINH TIẾN

NĂM HỌC: 2021 – 2022


lOMoARcPSD|9242611

Danh sách thành viên nhóm 4

STT

Họ và tên thành viên

MSV

37


Nguyễn Duy Khánh

21D140293

38

Bùi Tùng Lâm

21D140015

39

Lù Thị Nhẫn Lan

21D140294

40

Hàn Hạnh Linh

21D140205

41

Hoa Thị Thùy Linh

21D140250

42


Hoàng Hải Linh

21D140295

43

Kiều Phương Linh

21D140206

44

Nguyễn Diệu Linh

21D140251

45

Nguyễn Khánh Linh

21D140296

46

Phạm Nhật Linh

21D140016

47


Phan Thị Thùy Linh

21D140017

48

Trần Thị Phương Linh

21D140207


lOMoARcPSD|9242611

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................4
PHẦN 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI..............................................5
PHẦN 2: NỘI DUNG.............................................................................7
I.

Lý luận chung.............................................................................7
1. Vị trí, khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu
thuẫn.............................................................................................7
2. Nội dung Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập:................................................................................................8
3. Phân loại mâu thuẫn:.............................................................10
4. Ý nghĩa phương pháp luận:....................................................11

II. Sự vận dụng quy luật vào quá trình xây dựng đất nước Việt
Nam hiện nay.................................................................................12

III.

Sự liên hệ của quy luật trong đời sống học tập của sinh viên
14

LỜI KẾT.............................................................................................20
DANH MỤC THAM KHẢO...................................................................21


lOMoARcPSD|9242611

LỜI MỞ ĐẦU
Quy luật mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến.
Mâu thuẫn là mối liên hệ tác động qua lại giữa các mặt đối lập
trong cùng một sự vật.
Mặt đối lập là những mặt, những thuộc tính có xu hứơng phát
triển ngược chiều nhau, tồn tại trong cùng một sự vật hiện tượng
tác động biện chứng với nhau làm cho sự vật phát triển.Mâu thuẫn
là hiện tượng khách quan và phổ biến. Mâu thuẫn là khách quan có
nghĩa là mâu thuẫn là cái vốn có ở mọi sự vật hiện tượng. Mâu
thuẫn hình thành phát triển là do cấu trúc tự thân bên trong của sự
vật quy định nó khơng phụ thuộc vào bất kỳ một lực lượng siêu tự
nhiên nào và không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
Mâu thuẫn là hiện tượng phổ biến có nghĩa là mâu thuẫn tồn
tại trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn
tồn tại từ khi sự vật xuất hiện cho đến khi kết thúc. Mâu thuẫn tồn
tại ở mọi không gian, thời gian, mọi giai đoạn phát triển. Mâu
thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành. Trong mỗi sự
vật khơng phải chỉ có một mâu thuẫn mà có thể có nhiều mâu
thuẫn vì sự trong cùng một lúc có thể có nhiều mặt đối lập.

Trong đời sống xã hội, sự đấu tranh và thống nhất của các
mặt đối lập là sự thống nhất và đấu tranh của các lực lượng, các
nhóm, các hệ thống xã hội theo các mặt, các tính chất, các khuynh
hướng xã hội đã quy định và tạo thành các thực thể xã hội đó.
Tồn bộ đời sống vật chất và đời sống tinh thần xã hội đều bao
hàm những mặt đối lập, những mâu thuẫn như vậy. Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác đã nhiều lần bàn đến mâu thuẫn xã hội, và
thực ra toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp của các ông cũng là nhằm
giải quyết các vấn đề về mâu thuẫn xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen
viết: “Theo quan điểm của chúng tôi - tất cả mọi xung đột trong
lịch sử đều bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa những lực lượng sản xuất
và hình thức giao tiếp”. (“Hình thức giao tiếp” về sau được C.Mác
gọi là “Quan hệ sản xuất”). Theo Ph.Ăngghen, “mâu thuẫn giữa
sản xuất xã hội và sự chiếm hữu tư bản chủ nghĩa biểu hiện ra
thành sự đối kháng giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản”. Với
V.I.Lênin, “tính chất biện chứng của sự phát triển xã hội, diễn ra
trong mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn”.


lOMoARcPSD|9242611

Trong sự phát triển của xã hội, mọi yếu tố thuần hữu mà sự
mâu thuẫn bao trùm luôn gắn liền với con người mỗi trạng thái đối
lập, mâu thuẫn với chính mình, với những người xung quanh và với
xã hội... (loại trừ trường hợp mâu thuẫn lơgíc) là trạng thái tự
nhiên, vận động theo các bước, các trình độ đối lập khác nhau đi
từ đồng nhất, khác biệt đến mâu thuẫn hoặc xung đột. Những mâu
thuẫn biện chứng ấy đóng vai trò là nguồn gốc và động lực để thúc
đẩy phát triển con người, hình thành và phát triển nhân cách cá
nhân. Con người mẫu thuẫn với chính mình, đó không phải là một

căn bệnh - đối lập càng gay gắt, động lực phát triển càng mạnh.

PHẦN 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐỀ TÀI
- Tầm quan trọng của đề tài:
• Quy luật mâu thuẫn của phép duy vật biện chứng và sự vận
dụng quy luật vào quá trình xây dựng đất nước Việt Nam cùng với
sự liên hệ trong đời sống học tập của sinh viên là một trong những
yếu tố khách quan đem lại cái nhìn tổng thể về phép duy vật biện
chứng mà những mâu thuẫn của nó đưa ra cần giải đáp hoặc tìm
ra câu trả lời như một yếu tố cấu thành quyết định mọi giá trị trong
thực tiễn mà con người có thể nắm bắt được.
• Quy luật mâu thuẫn là quy luật quan trọng nhất của phép
biện chứng duy vật là hạt nhân của phép biện chứng duy vật vì nó
vạch ra nguồn gốc động lực của sự vận động phát triển của thế
giới khách quan và vì nó là chìa khố là cơ sở giúp chúng ta nắm
vững thực chất của tất cả các quy luật và phạm trù của phép biện
chứng duy vật.
• Quy luật này giúp chúng ta hiểu rằng mâu thuẫn là một
hiện tượng khách quan và phổ biến, nó tồn tại ở tất cả các sự vật
và hiện tượng, ở mọi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật,
hiện tượng, nhưng ở các sự vật khác nhau, ở các giai đoạn phát
triển khác nhau của một sự vật, ở mỗi lĩnh vực, mỗi yếu tố cấu
thành một sự vật sẽ có những mâu thuẫn khác nhau. Giải quyết
mâu thuẫn là để phát triển, nhưng phải giải quyết mâu thuẫn khi
có đủ điều kiện chín muồi, khơng nên giải quyết mâu thuẫn một
cách vội vàng khi chưa có điều kiện, cũng không thể cho việc giải
quyết mâu thuẫn diễn ra một cách tự phát, phải cố gắng tạo điều
kiện thúc đẩy sự chín muồi của mâu thuẫn và điều kiện giải quyết.
Phải có biện pháp giải quyết thích hợp với từng mâu thuẫn.
- Ý nghĩa đề tài:



lOMoARcPSD|9242611

• Để nhận thức được bản chất của sự vật hoặc tìm ra phương
hướng, giải pháp cho hoạt động thực tiễn cần phải nghiên cứu mâu
thuẫn sự vật.
• Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập hay quy luật mâu thuẫn có ý nghĩa quan trọng đối với
nhận thực, hoạt động thực tiễn. Bởi mâu thuẫn là động lực và cũng
là nguồn gốc của sự vận động, phát triển, có tính khách quan phổ
biến.
• Mâu thuẫn chính là nguồn gốc, là động lực của mọi sự vận
động và phát triển của sự vật, là khách quan trong bản thân sự vật
nên cần phải phát hiện ra được những mâu thuẫn của sự vật bằng
cách phân tích những sự vật đó để tìm ra được những mặt, những
khuynh hướng trái ngược nhau và mối liên hệ, sự tác động lẫn
nhau giữa chúng.
• Cần phải phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể, phải biết
cách phân loại mâu thuẫn cũng như biết tìm cách để giải quyết
được những mâu thuẫn đó. Nắm vững được các nguyên tắc giải
quyết mâu thuẫn phù hợp với từng loại mâu thuẫn cụ thể, với trình
độ phát triển của mâu thuẫn đó. Khơng được điều hịa mâu thuẫn
mà cần phải tìm ra được phương thức, phương tiện cũng như lực
lượng để giải quyết mâu thuẫn khi điều kiện đã chín muồi.
• Thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện
tượng, từ đó giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật điều
kiện khách quan. Muốn nhận thức đúng sự vật, hiện tượng cần
phát hiện ra những mâu thuẫn tồn tại trong bản thân nó.
• Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh,

phát triển của từng mâu thuẫn, xem xét vai trị, vị trí và mối quan
hệ của các mâu thuẫn, của từng mặt đối lập trong mâu thuẫn và
điều kiện chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng. Chỉ có như thể mới
hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng phát triển và
tìm ra được những phương pháp để giải quyết mâu thuẫn.
• Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu
tranh giữa các mặt đối lập, khơng điều hịa mâu thuẫn cũng khơng
nóng vội hay bảo thủ, bởi giải quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc vào
điều kiện đã đủ và chín muồi hay chưa.
- Mục đích đề tài: Việc đấu tranh của các mặt đối lập sẽ gây ra
những biến đổi các mặt đối lập khi cuộc đấu tranh của các mặt đối
lập trở nên quyết liệt. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập chính là
khi các mâu thuẫn được giải quyết thì sự vật cũ sẽ bị mất đi và sự
vật mới xuất hiện. Các mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau với ba
hình thức sau đây:


lOMoARcPSD|9242611

• Các mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau mặt đối lập này thành
mặt đối lập kia và ngược lại nhưng ở trình độ cao hơn về phương
diện vật chất của sự vật. Cả hai mặt đối lập đều mất đi và chuyển
hóa thành một mặt đối lập mới. Các mặt đối lập thâm nhập vào
nhau và cải biến lẫn nhau.
• Trong q trình học tập và phát triển của mỗi sinh viên, đằng
sau những thành tích học tập hay những kết quả không mong
muốn luôn luôn tồn tại những mâu thuẫn làm kìm hãm sự phát
triển hay đổi mới tư duy con người. Địi hỏi nó phải được giải quyết
và nếu được giải quyết thì sẽ thúc đẩy cho sự phát triển, đổi mới tư
duy trong quá trình học tập. Với mong muốn tìm hiểu thêm những

vấn đề, phương pháp học tập, quan điểm lý luận cũng như những
vướng mắc trong giải pháp, quy trình xử lý các vấn đề học tập có
liên quan đến sự phát triển, tiến bộ của bản thân.

PHẦN 2: NỘI DUNG
I. Lý luận chung.
1. Vị trí, khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
* Vị trí: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập hay còn gọi là quy
luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và là
quy luật quan trọng nhất, là hạt nhân của phép biện chứng duy vật trong Triết học
Mác- Lênin. Theo V.I.Lênin:
“ Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của
các mặt đối lập, như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng. Nhưng điều
đó địi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển thêm. ”
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật về nguồn gốc,
động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vân động và phát triển. Quy luật này
vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển theo đó nguồn gốc của sự
phát triển chính là mâu thuẫn và việc giải quyết mâu thuẫn nội tại trong bản thân
mỗi sự vật, hiện tượng.
* Khái niệm Mâu thuẫn biện chứng: Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác
động qua lại lẫn nhau theo hướng trái ngược nhau, xung đột lẫn nhau tạo thành mâu
thuẫn biện chứng. Theo triết học duy vật biện chứng của Angghen thì mâu thuẫn
biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư
duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và


lOMoARcPSD|9242611

là nguồn gốc phát triển của nhận thức. Mâu thuẫn biện chứng không phải là ngẫu
nhiên, chủ quan, cũng không phải là mâu thuẫn trong lơgic hình thức. Mâu thuẫn

trong lơgic hình thức là sai lầm trong tư duy. Sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại
trong bản thân các sự vật và các quá trình, mâu thuẫn thường xuyên nảy sinh và tự
giải quyết, và khi mâu thuẫn chấm dứt thì sự sống cũng khơng cịn nữa và cái chết
xảy đến.
* Tính chất chung của mâu thuẫn:
o Mâu thuẫn có tính khách quan và tính phổ biến: Mâu thuẫn có tính chất khách
quan vì nó là cái vốn có trong sự vật, hiện tượng, là bản chất chung của mọi sự
vật, hiện tượng. Mâu thuẫn có tính phổ biến vì nó tồn tại trong tất cả mọi sự vật
hiện tượng, mọi giai đoạn, mọi quá trình, tồn tại trong cả tự nhiên, xã hội và tư
duy.
o Mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú: Trong các sự vật, hiện tượng khác nhau
thì tồn tại những mâu thuẫn khác nhau, trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng
cũng chứa đựng nhiều mâu thuẫn khác nhau, trong mỗi giai đoạn, mỗi q trình
cũng có nhiều mâu thuẫn khác nhau. Mỗi mâu thuẫn có vị trí, vai trị và đặc
điểm khác nhau đối với sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Trong
các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn với những tính chất khác
nhau tạo nên tính đa dạng, phong phú trong sự biểu hiện của mâu thuẫn.
2. Nội dung Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập:
“ Sự vật, hiện tượng ln mang trong nó những xu hướng vận
động ngược chiều nhau gọi là các mặt đối lập ví dụ như namnữ, điện tích âm - điện tích dương, nóng-lạnh, ngày và
đêm... Những mặt đối lập luôn tồn tại thành từng cặp, giữa hai
mặt đối lập ln có sự thống nhất và mâu thuẫn không ngừng.

-

Sự thống nhất giữa các mặt đối lập: là tính quy định ràng buộc lẫn nhau,
nương tựa vào nhau làm tiền đề tồn tại cho nhau giữa các mặt đối lập. Dó đó nếu
khơng có mặt đối lập này thì cũng sẽ khơng có mặt đối lập kia và ngược lại. Sự
thống nhất này còn nói lên sự đồng nhất giữa chúng: có nghĩa là giữa chúng có
điểm giống nhau, nên khi biến đổi thì chúng có thể hóa vào nhau. Sự thống nhất

của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng. Song đó
chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển khi diễn ra
sự cân bằng của các mặt đối lập.
+ Ví dụ 1: Trong XH Tư bản, giai cấp vơ sản và giai cấp tư sản là 2 mặt đối
lập thống nhất với nhau, nếu khơng có giai cấp vơ sản tồn tại với tư cách là
một giai cấp bán sức lao động cho nhà TB, thì cũng khơng có giai cấp TS tồn
tại với tư cách là một giai cấp mua sức lao động của giai cấp vô sản để bóc
lột giá trị thặng dư.


lOMoARcPSD|9242611

+ Ví dụ 2 :
 Có nam có nữ đều là con người mới thành vợ chồng.
 Cái thiện và cái ác trong 1 con người. Trong cái ác đều có cái thiện,
làm sao để lương tâm thức tỉnh.
-

Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập: đó là sự tương tác qua lại theo xu hướng
phủ định, bài trừ nhau của các mặt đối lập. Hình thức đấu tranh của các mặt đối
lập hết sức phong phú, đa dạng, tuỳ thuộc vào tính chất, vào mối liên hệ qua lại
giữa các mặt đối lập. Do sự đa dạng của thế giới nên hình thức chuyển hóa cũng
rất đa dạng: có thể hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau, cũng có thể cả hai
chuyển thành những chất mới. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập phải có những
điều kiện nhất định và tuỳ điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
+ Ví dụ: Trong xã hội công xã nguyên thủy, con người phải đấu tranh với tự
nhiên, trình độ lao động rất sơ khai. Để tồn tại, lồi người phát minh ra nhiều
cơng cụ: rìu đá, lao, chăn nuôi... tức là giải quyết mâu thuẫn giữa sống hoặc
chết đói. Nhờ cơng cụ cải tiến, của cải làm ra nhiều hơn mức tiêu thụ, dẫn
đến của cải cịn thừa tập trung vào một số người, hình thành mâu thuẫn mới

giữa người có của và khơng có của. Loài người bước sang xã hội phân biệt
giai cấp (Chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản). Khi giai cấp bị áp bức tiêu
diệt giai cấp áp bức (những người khơng có của tiêu diệt những người có
của) lồi người sẽ bước sang xã hội mới, xã hội Xã hội Chủ nghĩa.

-

Tính chất của thống nhất và đấu tranh:
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: thống nhất là tương đối, tạm thời,
đấu tranh là tuyệt đối.
+ Thống nhất là tương đối tạm thời vì đứng im là tương đối. Đứng im là một
hình thức vận động trong thế cân bằng khi sự vật đang là nó chưa là sự vật khác.
Nhờ có đứng im, nhờ có thống nhất mà ta xác định được sự vật.
+ Thống nhất là tương đối, thống nhất các mặt đối lập, do đó, trong thống nhất
bao hàm đấu tranh.
+ Đấu tranh là tuyệt đối vì vận động là tuyệt đối.

-

Vai trị của đấu tranh các mặt đối lập và mâu thuẫn: Đấu tranh các mặt đối
lập dẫn đến chuyển hóa, mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới
ra đời vì thế đấu tranh các mặt đối lập nói riêng, mâu thuẫn nói chung là nguồn
gốc, động lực của sự phát triển.
Lênin khẳng định: “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”.

-

Mâu thuẫn là động lực của sự phát triển:
+ Không phải mọi sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển
hóa giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình

độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết dẫn đến chuyển hóa, bài trừ và phủ
định nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hóa của các mặt đối lập thường diễn ra
một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hóa của các mặt đối lập nhất thiết
phải thơng qua hoạt động có ý thức của con người.


lOMoARcPSD|9242611

Vì vậy, khơng nên hiểu sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập chỉ là sự
hoán đổi vị trí một cách đơn giản, máy móc. Thơng thường thì mâu thuẫn
chuyển hóa theo hai phương thức:
 Phương thức thứ nhất: Mặt đối lập này chuyển hóa thành mặt đối lập kia
nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện vật chất của sự vật.
o Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong
kiến đấu tranh chuyển hóa lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất
mới là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới ở
trình độ cao hơn
 Phương thức thứ hai: Cả hai mặt đối lập chuyển hóa lẫn nhau để thành hai
mặt đối lập mới hồn tồn.
o Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
=> Từ các mâu thuẫn trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực, bất kỳ sự vật hiện
tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có
khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hóa của các mặt
đối lập trong điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách
quan, phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới
hình thành. Sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới.
Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hóa và phủ định lẫn nhau để tạo thành
sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan

thường xun phát triển và biến đổi khơng ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc
và động lực của mọi quá trình phát triển.
 Khái quát lại nội dung của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập là: Mọi đối tượng đều bao gồm những mặt, những khuynh hướng, lực
lượng,… đối lập nhau tạo thành những mâu thuẫn trong chính nó; sự thống nhất và
đấu tranh giữa các mặt đối lập này là nguyên nhân, động lực bên trong của sự vận
động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời.
3. Phân loại mâu thuẫn:
-

Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, có thể phân biệt thành mâu
thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
o Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh
hướng đối lập của cùng một sự vật.(Ví dụ: mâu thuẫn trong xã hội tư bản: Tư
sản mâu thuẫn với Vơ sản.)
o Mâu thuẫn bên ngồi đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra
trong mối quan hệ sự vật đó với các sự vật khác.
 Mâu thuẫn bên trong có vai trị quyết định trực tiếp đối với quá trình vận
động và phát triển của sự vật. Cịn mâu thuẫn bên ngồi có ảnh hưởng đến sự
phát triển của sự vật. Tuy nhiên mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài


lOMoARcPSD|9242611

khơng ngừng có tác động qua lại lẫn nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn bên
trong không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài; việc giải quyết
mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong.
-

-


-

Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu
thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:
o Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự
phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt q trình tồn
tại các sự vật. Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi cơ bản
về chất. (Ví dụ: Trong khách quan quan điểm lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam, mâu thuẫn căn bản là mâu thuẫn về con đường đi lên chủ nghĩa tư bản
hay chủ nghĩa xã hội.)
o Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện
nào đó của sự vật, nó khơng quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nảy
sinh hay được giải quyết khơng làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất. (Ví
dụ: Mâu thuẫn không căn bản trong khách quan quan điểm lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam là mâu thuẫn về xác lập văn hóa tương lai văn hóa xã hội chủ
nghĩa hay văn hóa hiện tượng.)
Căn cứ vào vai trị của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật
trong một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ
yếu và mâu thuẫn thứ yếu.
o Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu của một giai đoạn phát
triển nhất định của sự vật và chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó.
Giải quyết được mâu thuẫn chủ yếu trong từng giai đoạn là điều kiện cho sự
vật chuyển sang giai đoạn phát triển mới. (Ví dụ: Trong giai đoạn thực hiện
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ để giải phóng dân tộc, mâu thuẫn chủ yếu
của dân tộc Việt Nam là: Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc, thực
dân xâm lược.)
o Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai
đoạn phát triển nào đó của sự vật nhưng nó khơng đóng vai trị chi phối mà
bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu là góp phần

vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu
Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, có thể chia mâu thuẫn trong xã hội
thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
o Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp những tập đồn
người, có lợi ích cơ bản đối lập nhau.( Ví dụ: Xã hội tư bản chủ nghĩa mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản)
o Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có
lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ
bản, cục bộ, tạm thời. Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và khơng đối
kháng có ý nghĩa trong việc xác định đúng phương pháp giải quyết mâu
thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn đối kháng phải bằng phương pháp đối kháng.


lOMoARcPSD|9242611

4. Ý nghĩa phương pháp luận:
 Thứ nhất, thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong sự vật, hiện
tượng; từ đó giải quyết mâu thuẫn phải tuân theo quy luật, điều kiện khách quan.
Muốn phát hiện mâu thuẫn cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập trong sự
vật, hiện tượng; từ đó tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động nhận
thức và thực tiễn.
 Thứ hai, phân tích mâu thuẫn cần bắt đầu từ việc xem xét quá trình phát sinh,
phát triển của từng loại mâu thuẫn; xem xét vai trị vị trí và mối quan hệ giữa các
mâu thuẫn và điều kiện chuyển hóa giữa chúng. Phải biết phân tích cụ thể một mâu
thuẫn cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và đề ra được phương án giải quyết mâu thuẫn
đó.
 Thứ ba, phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh giữa
các mặt đối lập, khơng điều hịa mâu thuẫn cũng khơng nóng vội hay bảo thủ bởi
giải quyết mâu thuẫn còn phụ thuộc vào điều kiện đã đủ và chín muồi hay chưa.


II. Sự vận dụng quy luật vào quá trình xây dựng đất
nước Việt Nam hiện nay.
Bài làm thuộc về:
43. Kiều Phương Linh

MSV: 21D140206

45. Nguyễn Khánh Linh

MSV: 21D140296

46. Phạm Nhật Linh

MSV: 21D140016

Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn) là
hiện tượng, vấn đề có trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy con người.
Trong hoạt động kinh tế mặt trận cũng mang tính phổ biến, chẳng hạn như cung –
cầu tích lũy và tiêu dùng, tính kế hoạch hóa của từng xí nghiệp, từng cơng ty và tính
tự phát vơ chính phủ của nền sản xuất hàng hóa,.. Trong sự nghiệp đổi mới và xây
dựng đất nước của nước ta do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã dành được nhiều
thắng lợi bước đầu mang tính quyết định quan trong trong việc chuyển nền kinh tế
từ cơ chế quan lưu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những chuyển biến đó đã đạt được nhiều thành
cơng to lớn, nhưng trong những thành cơng đó ln ln tồn tại những mâu thuẫn
làm kìm hãm sự phát triển của cơng cuộc đổi mới, đòi hỏi phải được giải quyết và
nếu được giải quyết sẽ thúc đẩy cho sự phát triển đất nước.

Downloaded by tran quang ()



lOMoARcPSD|9242611

-

Mâu thuẫn giữa ổn định chính trị và đổi mới chính trị
Trong khi đề ra đổi mới chính trị, Đảng ta ln nhấn mạnh phải ổn định
chính trị, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Điều này tưởng như 1
nghịch lí những hồn tồn có lí theo khoa học.
Ổn định về chính trị, nói 1 cách khái quát là giai cấp cầm quyền phải tăng
cường quyền lực chính trị của mình, Nhà nước của giai cấp đó phải mạnh và có
hiệu lực, luật pháp phải nghiêm minh, chế độ xã hội đã xác lập phải được giữ
vững. Đối với nước ta hiện nay, ổn định về chính trị thực chất là giữ vững và
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tăng cường vai trò của Nhà nước xã hội
cộng hòa, bảo vệ và xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội.
Ổn định về chính trị lại khơng thể tách rời đổi mới về chính trị. Nhưng đổi
mới chính trị khơng phải là đổi mới vơ ngun tắc, mà đổi mới là để giữ vững ổn
định về chính trị, giữ vững và tăng cường vai trị lãnh đạo của Đảng, vai trị tổ
chức quản lí của Nhà nước xã hội cộng hịa. Đổi mới chính trị phải gắn liền với
đổi mới về kinh tế, phù hợp với u cầu phát triển của kinh tế thì mới có thể tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trị tổ chức quản lí của Nhà nước xã hội
chủ nghĩa và nhờ đó mới giữ vững ổn định về chính trị. Song đổi mới về kinh tế
cũng khơng phải đổi mới 1 cách tùy tiện mà theo 1 định hướng nhất định. Đó là
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa hay nói ngắn gọn là kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
nhằm thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng văn minh”, và
đó cũng là cơ sở để giữ vững ổn định về chính trị.
Tóm lại: Ổn định và đổi mới về chính trị là 2 mặt đối lập nhưng thống nhất

và biện chứng với nhau, có ổn định mới có đổi mới và đổi mới điều kiện ổn định,
hai mặt đó tác động qua lại với nhau và gắn bó chặt chẽ với đổi mới kinh tế, trên
nền tảng của đổi mới kinh tế.
Trong quá trình phát triển kinh tế, có sự xuất hiện của quy luật mâu thuẫn sau:
- Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất – quan hệ
sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp được Đảng ta đặc biệt quan tâm. Điều
đó được thể hiện trong quán triệt lý luận của Chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là
hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác
động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật phổ biến của tồn bộ lịch sử loài
người – quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất . Quy luật này vạch ra sự phụ thuộc khách quan của quan hệ
sản xuất vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất , cũng như sự tác động
trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất trong quá trình sản xuất
và phát triển xã hội. Theo đó lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

sản xuất cũng quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó, lực lượng sản xuất
quyết định quan hệ sản xuất. Trong quá trình sản xuất để lao động bớt nặng nhọc
và đạt hiệu quả cao hơn, con người ln tìm cách cải tiến, hồn thiện cơng cụ
lao động và chế tạo ra những công cụ lao động mới, tinh xảo hơn. Cùng với sự
biến đổi và phát triển cơng cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao
động, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực

lượng sản xuất trở thành yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất. Cũng quan hệ
sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển
của lực lượng sản xuất.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình
thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất .
Sự phù hợp đó là động lực làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Nhưng lực lượng sản xuất luôn phát triển cũng quan hệ sản xuất có xu hướng
tương đối ổn định. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới thì
quan hệ sản xuất khơng cũng phù hợp với nó nữa, trở thành chướng ngại, kìm
hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất , sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa
hai mặt của phương thức sản xuất. Sự phát triển khách quan đó tất yếu dẫn đến
việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới
phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất , mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển. Quan hệ sản xuất là yếu tố quyết định, làm tiền đề cho
lực lượng sản xuất phát triển khi nó phù hợp được với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất . Nó làm nhiệm vụ chỉ ra mục tiêu, bước đi và tạo ra quy mơ
thích hợp cho lực lượng sản xuất hoạt động, cũng như bảo đảm lợi ích chính
đáng của người lao động, phát huy tính tích cực, sáng tạo của con người – nhân
tố quan trọng và quyết định trong lực lượng sản xuất .
Ở nước ta, giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ, khi thành phần kinh tế xã hội
chủ nghĩa chưa chiếm vị trí độc tơn, khi các thành phần kinh tế khác có nhiều
khả năng góp phần làm cho sản xuất phát triển, thì một số yếu tố trong quan hệ
sản xuất vượt lên lực lượng sản xuất và hướng vào việc tạo ra cơ sở vật chất- kỹ
thuật ban đầu. Ở đây, phải kể đến yếu tố chủ quan của việc Đảng lãnh đạo, Nhà
nước phát động tính tích cực xã hội của quần chúng bằng những lợi ích vật chất
và tinh thần yêu nước vốn có của họ. Tuy nhiên, không thể cho rằng những yếu
tố tiên tiến của quan hệ sản xuất mới là tiền đề thúc đẩy sự phù hợp giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chúng chỉ tác động tích cực trong một thời
gian ngắn. Tại Đại hội VI, Đảng ta đó hồn toàn đúng khi nhận định :”. . . lực
lượng sản xuất bị kìm hãm khơng chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu,

mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển khơng đồng bộ, có những yếu tố đi quá so
với trình độ của lực lượng sản xuất “.
Trong cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất – quan hệ sản xuất
là 1 vấn đề hết sức quan trọng, lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định quan hệ

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng
sản xuất phát triển đến 1 trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất sẽ khơng cịn
phù hợp nữa mà trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất và phát triển. Để
mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, cần thay thế quan hệ sản xuất cũ
bằng 1 quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Chính quan hệ sản xuất tự phát triển để phù hợp với lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất. Chính quan hệ sản xuất tự phát triển và phù hợp với lực lượng sản xuất,
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, đó là
quy luật kinh tế chung cho sự phát triển xã hội .
Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản
xuất lạc hậu kìm hãm diễn ra gay gắt, quyết liệt và cần được giải quyết. Nhưng
giải quyết nó bằng cách nào? Đó chính là các cuộc cách mạng xã hội, chuyển
đổi nền kinh tế mà cuộc chuyển đổi nền kinh tế ở nước ta là một ví dụ. Khi một
mục tiêu, một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, thể hiện tích chất cách mạng của
công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam là phấn đấu xây dựng nước ta trở thành
quốc gia cơng nghiệp hố, hiện đại hố, dân giàu, nước mạnh, xã hội cơng bằng
văn minh.

-

Mâu thuẫn giữa các hình thái sở hữu trước đây và cơ chế thị trường:
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế tập trung bao cấp, hai hình thức sở
hữu cơ bản là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể được áp dụng triệt để. Sự tồn tại
của hai hình thức sở hữu này là tất yếu khách quan vì nó phù hợp với điều kiện
lịch sử khi tiến hành cách mạng chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sau khi giành được chính quyền, cơng nhân đứng trước hai hình thức sở hữu tư
nhân khác nhau. Một là hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, có thể giải
quyết bằng cách tước đoạt hoặc "chuộc lại" để chuyển sang sở hữu tồn dân. Hai
là với hình thức sở hữu tư nhân của những người sản xuất hàng hố nhỏ thì có
thể dùng biện pháp giáo dục, vận động, thuyết phục họ trên cơ sở tự nguyện
chuyển sang sở hữu tập thể bằng con đường hợp tác hoá hai hình thức. Sở hữu
đó là hai con đường đặc thù tiến lên chủ nghĩa cộng sản của giai cấp cơng nhân
và nơng dân tập thể.
Các hình thức sở hữu trước đây và trong thời kỳ quá độ sang nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam bắt đầu xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Thực tiễn cho thấy rằng
một nền kinh tế nhiều thành phần sẽ kéo theo sự đa dạng về hình thức sở hữu
chứ khơng phải chỉ hai hình thức sở hữu như trong nền kinh tế cũ.
+ Hình thức thứ nhất: Sở hữu toàn dân
Theo quan niệm cũ, sở hữu tồn dân thuộc về cơng hữu, do nhà nước
trực tiếp đứng ra quản lý. Hiện nay, quan niệm đó đã có nhiều thay đổi.
Theo hiến pháp và luật đất đai quy định: "đất đai thuộc sở hữu toàn dân".
Xét về mặt kinh tế, đất đai là phương tiện tồn tại của cả một cộng đồng. Về
mặt xã hội, đất đai là nơi cư trú của cả một cộng đồng việc đất đai là sở hữu
toàn dân mà Nhà nước là đại diện quản lý không hề mâu thuẫn với việc tạo

Downloaded by tran quang ()



lOMoARcPSD|9242611

quyền sở hữu.v..v.Văn kiện đại hội Đảng lần thứ VII đã chỉ rõ: "Trên cơ sở
chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, ruộng đất được giao cho nông dân sử
dụng lâu dài. Nhà nước quy định bằng luật pháp các vấn đề thừa kế, chuyển
nhượng, sử dụng đất đai". Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
Như vậy, hình thức sở hữu tồn dân ở nước ta đã được xác định theo nội
dung mới.
+ Hình thức thứ hai: Sở hữu nhà nước
Trong cơ chế cũ, sở hữu nhà nước thường khơng có sự tách biệt với sở
hữu toàn dân. Do vậy mà trong một thời gian dài người ta chỉ quan tâm tới
sở hữu toàn dân mà bỏ quên hình thức sở hữu Nhà nước. Vì vậy mà chúng
ta đã ra sức quốc doanh hố nền kinh tế với sù tin chắc chỉ như vậy mới đi
đến chủ nghĩa xã hội. Nhưng sự thực, sở hữu tồn dân khơng thuộc quyền
sở hữu của một cá nhân nào. Hình thức sở hữu nhà nước xét về tổng thể
mới chỉ là kết cấu bên ngoài của sở hữu. Còn kết cấu bên trong của sở hữu
nhà nước ở nước ta là khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực các doanh
nghiệp nhà nước.v.v...
+ Hình thức thứ ba: Sở hữu tập thể
Ở nước ta trước đây, hình thức sở hữu tập thể chủ yếu tồn tại dưới
hình thức hợp tác xã (gồm cả hợp tác xã nông nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp) mà các xã viên là chủ sở hữu chính. Vì vậy mà với hình thức sở
hữu này, quyền mua bán hoặc chuyển nhượng tư liệu sản xuất, trong thực tế
sản xuất và lưu thông ở nước ta đã diễn ra hết sức phức tạp. Quyền của các
tập thể sản xuất thường rất hạn chế, đôi khi cịn có tình trạng lạm phát. Sự
khơng xác định, sự "nhập nhằng" với quyền sở hữu nhà nước và với sở hữu
tư nhân trá hình cũng là hiện tượng phổ biến. Để thốt khỏi tình trạng đó,
trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, cần xác định rõ quyền
mua, bán, chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập thể sản xuất kinh
doanh. Như vậy thì sở hữu tập thể mới trở thành hình thức sở hữu có hiệu

quả.
Như chóng ta biết,hợp tác xã khơng phải là hình thức đặc trưng cho
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà là hình thức sở
hữu tiến bộ trong thời kỳ đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy chúng ta cần duy
trì và phát triển hơn nữa hình thức này khi xây dựng chủ nghĩa xã hội, như
V.I.Lênin đã khẳng định: "chế độ của người xã viên hợp tác xã văn minh là
chế độ xã hội chủ nghĩa".
Tóm lại: Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá, các nhu cầu kinh tế về
vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm đòi hỏi các hộ sản xuất phải hợp tác với
nhau mới có khả năng phát triển. Thực tiễn ở nước ta hiện nay đã có những hình
thức hợp tác xã kiểu mới ra đời cho nhu cầu tồn tại và phát triển trong cơ chế thị
trường. Điều này cho thấy kết cấu bên trong của sở hữu tập thể đã thay đổi phù
hợp với thực tiễn ở nước ta hiện nay.

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

-

Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã
hội chủ nghĩa:

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết
phải có con người xã hội chủ nghĩa, yếu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan
trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi vì con người là chủ thể của mọi sáng tạo,
của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá con người phát triển cao về trí tuệ,
cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động
lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của xã hội chủ nghĩa, chúng

ta phải bắt đầu từ con người, lấy con người làm điểm xuất phát.
Xuất phát từ sự phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng đổi mới ở nước ta
hiện nay không thể xây dựng và phát triển con người nếu thiếu yếu tố kinh tế thị
trường. Việc xây dựng củng cố, hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đồng nghĩa với việc tạo ra điều
kiện vật chất cơ bản để thực hiện chiến lược xây dựng, phát triển con người xã
hội chủ nghĩa.
Trong những năm qua, kinh tế thị trường ở nước ta đã được nhân dân
hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, góp phần khơi dậy
nhiều tiềm năng sáng tạo, làm cho nền kinh tế sống động hơn, bộ mặt thị trường
được thay đổi và sôi động hơn. Đây là những kết quả đáng mừng, đáng được
phát huy. Nó thể hiện sự phát hiện và vận dụng đúng đắn các quy luật khách
quan của xã hội. Quá trình biện chứng đi lên chủ nghĩa xã hội từ khách quan
đang trở thành nhận thức chủ quan trên quy mơ tồn xã hội.
Những phân tích trên đây cho thấy, kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng
con người xã hội chủ nghĩa là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta
hiện nay. Đây chính là hai mặt đối lập của một mâu thuẫn xã hội. Giữa kinh tế
thị trường và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu
tranh. Kinh tế thị trường vừa tạo ra những điều kiện để xây dựng, phát huy
những nguồn lực con người, vừa tạo ra những độc tố huỷ hoại đầu độc con
nguời. Việc giải quyết những mâu thuẫn trên đây là việc làm không hề đơn giản.
Đối với nước ta mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và quá trình xây dựng con
người được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, bằng sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta xác định “Sản xuất hàng hố
khơng đối lập với cộng hịa xã hội mà là thành tựu phát triển nền văn minh nhân
loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và cả
khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”. Như vậy Đảng ta vạch rõ sự thống nhất
giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa . Việc áp dụng cơ
chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của Nhà nước,
đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh.

Thực hiện tốt các vấn đề này sẽ phát huy được những tác động tích cực to lớn
cũng như ngăn ngừa hạn chế khắc phục những tiêu cực, khiếm khuyết của kinh
tế thị trường. Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải hướng vào phục vụ công
cuộc xây dựng nguồn lực con người. Cần phải tiến hành các hoạt động văn hoá
giáo dục nhằm loại bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý coi thường các
giá trị nhân văn, phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần nhân đạo, thẩm mỹ,

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

các di sản văn hoá nghệ thuật của dân tộc như nôị dung của Nghị quyết Trung
ương 5 đã nêu. Đây chính là cơng cụ, là phương tiện quan trọng để tác động, góp
phần giải quyết mâu thuẫn đã nêu trên.
Kết luận:
Việc xuất hiện những mâu thuẫn trong quá trình xây dựng đất nước phải được
coi là một thực thế khách quan bởi giải quyết những mâu thuẫn ấy chính là động lực
để chúng ta có thể phát huy được hết thế mạnh của mình, duy trì sự thống nhất và ổn
định, nhằm mục tiêu chung là phát triển kinh tế, mang lại cuộc sống ấm no hạnh
phúc và một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
XHCN ở nước ta đó đạt được nhiều thành tựu to lớn. Song bên cạnh đó nó đang nảy
sinh hàng loạt mâu thuẫn giữa các kiểu kinh tế thị trường như là một đặc trưng của
CNTB với việc thực hiện kinh tế thị trường ở nước ta, mâu thuẫn giữa sự yếu kém
của quan hệ sản xuất so với trình độ phát triển cả lực lượng sản xuất, giữa việc phát
triển kinh tế thị trường với định hướng XHCN, mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và
mục tiêu xây dựng con người XHCN.
Sự thành công trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta phụ thuộc vào việc
giải quyết các mâu thuẫn trên. Vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu những mâu thuẫn đó

và tìm ra phương hướng giải quyết chúng. Nghiên cứu mâu thuẫn là phải thấy được
mâu thuẫn nào là cơ bản, mâu thuẫn nào là khơng cơ bản, rồi cuối cùng tìm ra
hướng giải quyết, từ đó các mâu thuẫn khơng cơ bản sẽ được giải quyết.

III. Sự liên hệ của quy luật trong đời sống học tập của
sinh viên
Bài làm 1:
Họ và tên: Hàn Hạnh Linh
MSV: 21D140205
Mỗi sự vật trong hiện tượng khách quan đều là thể thống nhất của các mặt đối
lập của sự vật hiện tượng, thống nhất với nhau tạo nên mâu thuẫn. Khi mới xuất
hiện mâu thuẫn biểu hiện ở sự khác nhau của hai mặt trong sự vật, khác nhau do dần
dần hình thành sự đối lập khi đó mâu thuẫn rõ nét, hai mặt đối lập đấu tranh với
nhau, sự đấu tranh phát triển đến đỉnh cao thì xảy ra xung đột giữa hai mặt của mâu
thuẫn. Hai mặt đó chuyển hóa với nhau trong những điều kiện nhất định tức là mâu
thuẫn được giải quyết, một sự thống nhất mới xuất hiện, mâu thuẫn cũ mất đi, mâu
thuẫn mới lại hình thành. Có sự mâu thuẫn và đấu tranh thì sẽ đưa đến sự phát triển,
làm cho sự vật vận động và không ngừng phát triển. Từ bài học về mâu thuẫn bản
thân em tại đây xin đưa ra phần vận dụng của bản thân về quy luật mâu thuẫn.
Em đang ở lứa tuổi 18, là thời kỳ hoàn thành và ổn định sau những biến động
sâu sắc của tuổi dậy thì, là giai đoạn đang chuẩn bị cho việc hình thành nghề nghiệp
ổn định và bắt đầu bước vào phạm vi hoạt động lao động. Trong em bắt đầu hình
thành thế giới quan để nhìn nhận, đánh giá cuộc sống, học tập, sinh hoạt hàng ngày.

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

Trong em cũng mang những nhu cầu, khát vọng thành đạt. Học tập ở đại học là cơ

hội tốt để em trải nghiệm bản thân. Vì vậy em rất thích khám phá, tìm tịi cái mới,
đồng thời em ln có mong muốn được khẳng định và thể hiện bản thân, thích học
hỏi, trau dồi vốn sống, hiểu biết, dám đối mặt với thử thách để khẳng định mình.
Mơi trường đại học với một cuộc sống học tập và xã hội ngày càng đổi mới,
mở rộng cho cá nhân em. Trong mơi trường này, để hoạt động học tập có kết quả
địi hỏi bản thân em phải có sự thích nghi với các hoạt động diễn ra trong trường đại
học. Quá trình thích nghi này chủ yếu tập trung ở các mặt: nội dung học tập mang
tính chuyên ngành, phương pháp học tập mới mang tính nghiên cứu và học; mơi
trường sinh hoạt mở rộng, nội dung và cách thức giao tiếp phong phú đa dạng. Có
nhiều bạn dễ dàng và nhanh chóng hịa nhập với mơi trường mới nhưng lại gặp khó
khăn trong việc thích ứng với phương pháp và cách thức học mới… Ở đây bản thân
em xảy ra khá nhiều mâu thuẫn: Mâu thuẫn giữa ước mơ mong muốn của bản thân
với việc thực hiện ước mơ đó, mâu thuẫn giữa mong muốn học tập nghiên cứu sâu
môn học mà mình u thích với u cầu phải thực hiện tồn bộ chương trình học
theo thời gian biểu nhất định, mâu thuẫn giữa lượng thông tin nhiều trong xã hội với
khả năng và thời gian có hạn.
Mâu thuẫn lớn nhất mà em gặp phải là mâu thuẫn giữa việc học và tham gia
các hoạt động. Đầu tiên là vấn đề tự học một trong những khác biệt lớn nhất và dễ
nhận ra nhất giữa học đại học và học phổ thông. Nếu như học phổ thông được các
thầy cô và bố mẹ kèm cặp, nhắc nhở nhưng lên Đại học việc tự học của bản thân sẽ
là yếu tố quyết định nhất với năng lực học tập của bản thân vì đã đủ 18 tuổi - tuổi
của sự trưởng thành. Thêm nữa là sự đa dạng của kiến thức nên muốn giỏi thực sự
đòi hỏi bản thân em chăm chỉ, miệt mài tìm hiểu. Tuy nhiên, sự tự học lại mang đến
nhiều sự tự do thoải mái ví dụ như: học Đại học em có thể đến muộn mà khơng ai
quan tâm… và vấn đề nữa đó là mâu thuẫn giữa việc học và tham gia các hoạt động
xã hội. Bản thân em vừa muốn học tập tốt, nhận được điểm cao, qua môn… tuy
nhiên trong một vài trường hợp sẽ có những lý do khác để bỏ qua việc học tập để
tập trung vào những công việc khác. Ví như việc làm thêm kiếm tiền để khơng dựa
dẫm q nhiều vào bố mẹ vì thế việc học có một chút ảnh hưởng. Bản thân em cũng
muốn trau dồi thêm kỹ năng mềm nên thường xuyên tham gia vào các hoạt động xã

hội, tiêu tốn quá nhiều thời gian vào các hoạt động này mà không cân đối được thời
gian học tập nên dẫn đến kết quả học tập không tốt. Trước khi vào đại học bản thân
em đã đặt ra khá nhiều mục tiêu và ước mơ. Nhưng khi va chạm thực tế, do cách
học sai lệch nên tạo ra rất nhiều áp lực cho chính bản thân mình. Đó chính là sự
mâu thuẫn giữa ước mơ và hành động thực tế của bản thân. Khơng phải vì ước mơ
quá viển vông, phi thực tế mà thực sự em cảm thấy bản thân chưa làm được việc gì
để biến ước mơ đấy thành hiện thực. Em không thể chỉ học mà không quan tâm đến
các hoạt động xã hội.
Cuộc sống sinh viên luôn bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác. Có người muốn
tập trung học thay vì tham gia các hoạt động xã hội bên ngoài. Một số người lại
muốn có cuộc sống tự lập, tự bươn chải làm thêm phụ giúp bố mẹ nên thời gian học
tập ít hẳn đi hay những người khác lại thích tham gia các hoạt động xã hội quá tích
cực dẫn đến thời gian tự học bị thu hẹp… Đây là một trong những mâu thuẫn mà
chính bản thân em và mọi người gặp phải. Các mặt đối lập vừa bài trừ lẫn nhau

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

nhưng không thể chỉ tồn tại một mặt duy nhất mà phải tồn tại đồng thời cùng nhau
hay còn gọi là sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
Từ bài học về mâu thuẫn em nhận ra được rất nhiều bài học cho bản thân khi
sống trong một môi trường xa lạ, vội vã. Việc tìm hiểu về quy luật mâu thuẫn đã
giúp em có những thay đổi tích cực: bản thân em đã năng động hơn, biết học hỏi,
tìm tịi về kiến thức, học hỏi những điều bổ ích về cuộc sống từ bạn bè và ngoài xã
hội để thích nghi nhanh nhất, tốt nhất với mơi trường mới này. Từ việc nghiên cứu
về quy luật của việc mâu thuẫn, em đã hịa hợp tốt hơn với mơi trường học tập mới
có tính chất tập trung chun sâu cao, cân bằng giữa học tập và vui chơi, nghiên cứu
và giải trí trong cuộc sống, đồng thời có được định hướng tốt cho tương lai và hơn

thế em đã trả lời được các câu hỏi: Tại sao mình học đại học, mình thích gì và muốn
có được gì trong tương lai, làm sao để thực hiện được điều mình mong muốn…
Bài làm 2:
Họ và tên: Lù Thị Nhẫn Lan
MSV: 21D140294
Như ta đã chứng minh, quy luật mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi
sự phát triển. Hay nói cách khác, bản chất của sự phát triển chính là tìm ra và giải
quyết các mâu thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng. Trong thực tế mâu thuẫn cũng là
một hiện tượng khách quan mang tính phổ biến được hình thành từ những cấu trúc
thuộc tính vốn có của sự vật.
Việc học của sinh viên cũng vậy, cũng chịu sự tác động của quy luật mâu
thuẫn. Đây là một quá trình tăng trưởng về mặt tri thức và đồng thời áp dụng những
tri thức đó vào đời sống thực tế. Vì vậy ta cần phải biết áp dụng đúng đắn quy luật
này vào thực tiễn đời sống nói chung và việc rèn luyện, học tập nói riêng để có thể
thúc đẩy sự phát triển của bản thân.
Đầu tiên chúng ta cần ln ln cố gắng tìm hiểu để phát hiện mâu thuẫn,
phân tích đầy đủ các mặt đối lập để nắm bắt bản chất và khuynh hướng phát triển.
Đối với bản thân sinh viên chúng ta, việc tìm hiểu và tơn trọng mâu thuẫn chính là
tìm hiểu đầy đủ các môn học của Nhà trường, chọn ra các môn phù hợp với định
hướng tương lai, vạch ra kế hoạch học tập, tham gia các hoạt động chung của lớp
cũng như của trường đề ra.
Trong cuộc sống hay trong học tập cũng vậy, ta sẽ gặp rất nhiều những thử
thách, nhưng chúng ta khơng được né tránh mà cần tìm ra giải pháp để khắc phục.
Có như vậy chúng ta mới ngày một hồn thiện hơn, có thêm tự tin và kinh nghiệm
để giải quyết các mâu thuẫn phát sinh sau này. Là một sinh viên, khi gặp bài giảng
không hiểu, hay bài tập không giải được, ta cần phải chủ động tìm tịi trên các trang
mạng, các diễn đàn học tập, hỏi các anh chị hay các bạn khác... Chúng ta cần đặc
biệt tránh xa việc ngại hỏi bài, học lại, bổ sung để củng cố kiến thức. Bởi chỉ có cố
gắng học hỏi thì bản thân chính chúng ta mới phát triển hơn được. Bên cạnh đó, nếu
chúng ta có kiến thức thì cũng cần chia sẻ chúng cho những người chưa biết. Chia


Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

sẻ và học hỏi là cách tốt nhất để giải quyết các mâu thuẫn gặp phải trong việc học
tập của chúng ta.
Bởi vì mâu thuẫn ln tồn tại, nên nó buộc con người ta khơng bao giờ được
nghĩ mình có đầy đủ tri thức, mà phải liên tục học thêm các tri thức mới để giải
quyết các vấn đề mới. Để làm được điều đó, con người- đặc biệt là sinh viên chúng
ta, cần phải luôn luôn đổi mới, sáng tạo ra các tri thức mới. Đồng thời, quy luật
mâu thuẫn cũng buộc chúng ta phải biết vượt qua mọi định kiến để bài trừ những
cái cũ, khơng cịn phù hợp và tiếp thu, chọn lọc cái mới còn chưa quen thuộc. Có
thể nói quy luật mâu thuẫn chính là nền tảng cho kho tàng tri thức vô cùng vô tận
đang trở nên phong phú hơn qua mỗi ngày của nhân loại. Quy luật này địi hỏi sinh
viên phải tìm tịi, học hỏi các kiến thức mới chứ khơng được ngủ quên trên một vài
kiến thức nhất định nào đó. Điều đó giúp cho sinh viên thêm phần sáng tạo, là yếu
tố rất có ích cho cả việc học lẫn sự nghiệp sau này. Tuy nhiên, việc ln phải tìm
tịi, sáng tạo và đổi mới trong học tập là vậy nhưng chúng ta cũng cần tiếp thu kiến
thức một cách có hệ thống. Bởi kiến thức cũng là một thể thống nhất chứ khơng
riêng lẻ, ta cần nhìn nhận sự tương tác, tương hỗ giữa các kiến thức, các ngành nghề
khác nhau để tìm ra sự thiếu sót của nhau, đồng thời loại bỏ những kiến thức thừa
thãi. Cần biết vận dụng khả năng tổng hợp, phân tích để tiếp thu và ghi nhớ những
kiến thức cần thiết.
 Vậy, qua những điều đã nói ở trên, có thể thấy việc vận dụng nhuần nhuyễn
quy mâu thuẫn vào thực tiễn đời sống nói chung và việc học tập nói riêng là cực kỳ
cần thiết đối với mỗi sinh viên chúng ta. Đó là nền tảng sự phát triển của bản thân,
là bàn đạp để quyết định thành bại trong sự nghiệp sau này. Là sinh viên, mỗi chúng
ta cần phải biết áp dụng những điểm có lợi của quy luật thống nhất và đấu tranh

giữa các mặt đối lập vào học tập để hồn thành mục tiêu của mình.

Bài làm 3:
Họ và tên: Bùi Tùng Lâm
Mã sinh viên: 21D140015
Lời mở đầu:
Như đã chứng minh ở trên, quy luật mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của
mọi sự phát triển. Hay nói cách khác, bản chất của sự phát triển chính là tìm ra và
giải quyết các mâu thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng. Trong thực tế, mâu thuẫn
cũng là một hiện tượng khách quan mang tính phổ biến được hình thành từ những
cấu trúc thuộc tính vốn có của sự vật.Việc học của sinh viên là một quá trình tăng
trưởng về mặt tri thức và đồng thời ta cũng học cách áp dụng những tri thức đó vào
đời sống thực tế. Vậy nên quá trình học tập của sinh viên cũng khơng ngoại lệ mà
nó chịu sự tác động của quy luật mâu thuẫn. Chính vì thế, ta cần phải biết áp dụng

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

quy luật mâu thuẫn vào thực tiễn đời sống nói chung và sự học nói riêng để có thể
thúc đẩy sự phát triển của bản thân sinh viên:
a) Phải biết tôn trọng mâu thuẫn.
Con người cần luôn luôn cố gắng tìm hiểu để phát hiện mâu thuẫn, phân tích
đầy đủ các mặt đối lập để nắm bắt bản chất và khuynh hướng phát triển. Đối với
sinh viên, tôn trọng mâu thuẫn chính là tìm hiểu đầy đủ những mơn học của nhà
trường, chọn ra các môn phù hợp với định hướng, mục tiêu tương lai vạch ra kế
hoạch học tập, tham gia các hoạt động đoàn thể và thực hiện kế hoạch.
b) Không sợ mâu thuẫn, không né tránh mâu thuẫn.
Khi gặp vấn đề không được tránh né, mà cần tìm ra giải pháp khắc phục, như

thế mới có thể phát triển bản thân, có thêm tự tin và kinh nghiệm để giải quyết mâu
thuẫn phát sinh sau này. Sinh viên cũng vậy, khi gặp bài giảng không hiểu, hay bài
tập khơng giải được, cần phải tìm tịi trên các trang mạng, diễn đàn học vấn, hỏi và
tiếp thu từ các giảng viên, các đàn anh, đàn chị hay cả những bạn học. Sinh viên
không được ngại việc học lại, học bổ sung để củng cố kiến thức của mình. Bên cạnh
đó, sinh viên cũng cần phải biết chia sẻ kiến thức của mình cho những người cần
chúng. Chia sẻ và học hỏi là cách tốt nhất để giải quyết các mâu thuẫn gặp phải đối
với sự học của một sinh viên.
c) Vận dụng quy luật mâu thuẫn liên tục tìm tịi, đổi mới và sáng tạo trong tri thức:
Bởi vì mâu thuẫn ln tồn tại, nên nó buộc người ta khơng bao giờ được nghĩ
mình có đầy đủ tri thức, mà phải liên tục học thêm các tri thức mới để giải quyết các
vấn đề mới. Để làm được điều đó, con người cần phải ln ln đổi mới, sáng tạo ra
các tri thức mới. Đồng thời, quy luật mâu thuẫn cũng buộc chúng ta phải biết vượt
qua mọi định kiến để bài trừ những cái cũ, khơng cịn phù hợp và tiếp thu, chọn lọc
cái mới còn chưa quen thuộc. Có thể nói quy luật mâu thuẫn chính là nền tảng cho
kho tàng tri thức vô cùng vô tận đang trở nên phong phú hơn qua mỗi ngày của
nhân loại. Quy luật này đòi hỏi sinh viên phải tìm tịi, học hỏi các kiến thức mới chứ
khơng được ngủ quên trên một vài kiến thức nhất định nào đó. Điều đó giúp cho
sinh viên thêm phần sáng tạo, là yếu tố rất có ích cho cả việc học lẫn sự nghiệp sau
này. Cũng bởi vì thế mà qua mỗi năm, các trường đại học, học viện phải tái bản một
số cuốn sách để đổi mới kiến thức cho các sinh viên.
d) Quy luật mâu thuẫn đòi hỏi con người tiếp thu kiến thức một cách có hệ thống.
Bởi vì, kiến thức khơng đi riêng lẻ, mà ta phải nhìn nhận được sự tương tác,
tương hỗ giữa các kiến thức, của các ngành nghề khác nhau để bổ trợ cho sự thiếu
sót của nhau, đồng thời loại bỏ những kiến thức thừa thãi. Cũng như vậy, sinh viên
cần tìm hiểu sự tương tác qua lại giữa các môn học, ngành học, qua đó đánh giá và
chọn lọc được một chỉnh thể những môn học phù hợp với bản thân. Cần biết vận
dụng khả năng tổng hợp, phân tích để tiếp thu và ghi nhớ những kiến thức cần thiết.

Downloaded by tran quang ()



lOMoARcPSD|9242611

LỜI KẾT
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến hình thành từ những cấu
trúc và thuộc tính trong vốn có tự thân của tất cả các sự vật, hiện tượng trong bản
thân thế giới khách quan... do đó trong hoạt động thực tiễn muốn phát hiện mâu
thuẫn cần tìm ra thể thống nhất của các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng, từ đó
tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Cần nắm vững nguyên tắc để giải quyết mâu thuẫn. Đó là sự đấu tranh giữa
hai mặt đối lập diễn ra theo quy luật phá vỡ những cái cũ để thiết lập cái mới tiến bộ
hơn. Vì vậy, trong đời sống xã hội, mọi hành vi đấu tranh cần được coi là chân
chính khi nó thúc đẩy sự phát triển.
Dưới sự chủ trương và lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp đổi mới của nước ta đã
giành được nhiều thắng lợi bước đầu, có ý nghĩa quyết định trong q trình chuyển
đổi nền kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường dưới sự quản lý
của Nhà nước sang định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong công cuộc chuyển đỏ đã đạt
được nhiều thành công to lớn, nhưng trong những thành cơng đó ln tồn tại những
mâu thuẫn cản trở sự phát triển của công cuộc đổi mới. Các nhu cầu phải được giải
quyết, và phát triển kinh tế sẽ chỉ được thúc đẩy nếu mâu thuẫn được giải quyết.

Downloaded by tran quang ()


lOMoARcPSD|9242611

DANH MỤC THAM KHẢO
[1]. Giáo trình Triết học Mác – Lênin – Trường Đại học Thương mại
[2]. />[3]. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập - Wikipedia

/>%E1%BA%A5t_v%C3%A0_%C4%91%E1%BA%A5u_tranh_gi%E1%BB
%AFa_c%C3%A1c_m%E1%BA%B7t_%C4%91%E1%BB%91i_l%E1%BA
%ADp
[4]. Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập – Thế giới luật
/>[5]. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập – Học luật
/>
Downloaded by tran quang ()



×