Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Quyền ưu tiên thanh toán của người giải chấp theo pháp luật dân sự việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24.04 MB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỐ CHÍ MINH

LÝ THƠ HIỀN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ VÀ TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỊNH HƢỚNG ỨNG DỤNG

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỐ CHÍ MINH

Chuyên ngành: Luật Dân Sự và Tố Tụng Dân Sự
Định hƣớng ứng dụng
Mã số chuyên ngành: 8380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đỗ Văn Đại
Học viên: Lý Thơ Hiền
Lớp: Cao học Luật Phú n, khóa 1

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan danh dự Luận văn này là kết quả của quá trình tổng hợp và
nghiên cứu nghiêm túc của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS Đỗ Văn Đại. Nội dung của Luận văn có tham khảo và sử dụng một số
thơng tin từ các nguồn sách, tạp chí, tài liệu... được liệt kê trong danh mục tài


liệu tham khảo.
Tác giả Luận văn

Lý Thơ Hiền


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

GĐT

Giám đốc thẩm

HĐTP

Hội đồng Thẩm phán

LTHADS

Luật Thi hành án dân sự

Nxb

Nhà xuất bản

PGS


Phó Giáo sư

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TS

Tiến sĩ


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. CĂN CỨ PHÁT SINH QUYỀN ƢU TIÊN THANH TOÁN
CỦA NGƢỜI GIẢI CHẤP ................................................................................ 13
1.1. Ngƣời giải chấp trực tiếp trả tiền cho ngân hàng để giải chấp tài
sản ............................................................................................................... 15
1.1.1. Bất cập ................................................................................................. 15
1.1.2. Kiến nghị hoàn thiện............................................................................ 21
1.2. Ngƣời giải chấp trả tiền mua tài sản cho ngƣời bán để giải chấp tài
sản ............................................................................................................... 21
1.2.1. Bất cập trong việc xác định ai là người giải chấp .............................. 21
1.2.2. Kiến nghị hoàn thiện............................................................................ 26
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ................................................................................... 27
CHƢƠNG 2. THỨ TỰ VÀ PHẠM VI ƢU TIÊN THANH TOÁN CỦA
NGƢỜI GIẢI CHẤP.......................................................................................... 28

2.1. Thứ tự ƣu tiên thanh toán của ngƣời giải chấp................................ 28
2.1.1. Bất cập ................................................................................................. 28
2.1.2. Kiến nghị hoàn thiện............................................................................ 34
2.2. Phạm vi ƣu tiên thanh toán của ngƣời giải chấp ............................. 35
2.2.1. Bất cập ................................................................................................. 35
2.2.2. Kiến nghị hoàn thiện............................................................................ 38
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ................................................................................... 39
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thực tế đời sống, các giao dịch dân sự có biện pháp bảo đảm bằng
hình thức thế chấp tài sản và chuyển giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ là phổ biến. Khi các giao dịch dân sự có biện pháp bảo đảm
bằng hình thức thế chấp bị vi phạm thì tài sản thế chấp được xử lý, và quyền ưu
tiên thanh toán sẽ phát sinh. Để bảo vệ bên nhận thế chấp hoặc bên nhận chuyển
giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng hình thức thế
chấp, Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 và BLDS năm 2015 đã quy định cụ thể
về căn cứ phát sinh quyền ưu tiên thanh toán, thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý
tài sản thế chấp. Đặc biệt, trong BLDS năm 2015 đã phát triển, củng cố quyền
ưu tiên thanh toán của người nhận thế chấp tài sản trong mối quan hệ đối kháng
với người thứ ba.
Trong thực tiễn, tranh chấp giành quyền ưu tiên thanh toán do thực hiện
thay nghĩa vụ trả tiền để giải chấp tài sản1 xảy ra khá phổ biến, điển hình là tình
huống: Một người đã thực hiện thay nghĩa vụ trả tiền của bên thế chấp để xóa
đăng ký thế chấp tài sản (sau đây gọi là “người giải chấp”2) và họ muốn được ưu

tiên thanh toán khoản tiền trả nợ thay khi xử lý khối tài sản giải chấp3. Tuy nhiên,
trong BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 nói riêng và pháp luật dân sự Việt
Nam hiện nay nói chung khơng có quy định về căn cứ phát sinh quyền ưu tiên
thanh toán của người giải chấp; thứ tự và phạm vi ưu tiên thanh toán của người
giải chấp. Chính điều này làm Tịa án giải quyết tranh chấp rất lúng túng, khơng
có sự áp dụng thống nhất pháp luật, không đảm bảo sự công bằng đối với những
vụ án có tình huống pháp lý giống nhau nhưng kết quả giải quyết rất khác nhau.
Trong pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay, quyền ưu tiên thanh toán khi
xử lý tài sản thế chấp chỉ dành cho người nhận thế chấp tài sản. Khi áp dụng chế
định chuyển giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì
người nhận chuyển giao quyền u cầu cũng sẽ có quyền ưu tiên thanh tốn của
người nhận thế chấp có quyền ban đầu. Tuy nhiên, việc thực hiện thay nghĩa vụ
Giải chấp là giải trừ tài sản thế chấp, là xóa đăng ký thế chấp tài sản.
Trong phạm vi đề tài này, “người giải chấp” được định nghĩa là: Người thực hiện thay nghĩa vụ trả tiền cho
bên thế chấp, trực tiếp hoặc gián trả nợ cho ngân hàng nhằm xóa đăng ký thế chấp tài sản.
3
Tài sản giải chấp là tài sản được xóa đăng ký thế chấp.
1
2


2
trả tiền để giải chấp tài sản có phải là hành vi pháp lý đương nhiên làm phát sinh
sự chuyển giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hay
khơng thì pháp luật dân sự hiện nay khơng nói rõ. Do đó, căn cứ phát sinh quyền
ưu tiên thanh toán của người giải chấp là một bất cập. Đồng thời, khi nghiên cứu
quyền ưu tiên thanh tốn của người giải chấp thì các vấn đề về thứ tự và phạm vi
ưu tiên thanh toán của người giải chấp cũng phải được nghiên cứu vì pháp luật
chưa có quy định cụ thể.
Xuất phát từ những bất cập của pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay và

thực tiễn giải quyết tranh chấp nêu trên, tác giả chọn đề tài “Quyền ưu tiên thanh
toán của người giải chấp theo pháp luật dân sự Việt Nam” để làm đề tài nghiên
cứu Luận văn thạc sỹ luật học của mình, nhằm góp phần nghiên cứu những quy
định của pháp luật về chuyển giao quyền yêu cầu trong phần Nghĩa vụ và Hợp
đồng của Bộ luật Dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các chủ đề chuyển giao quyền yêu cầu, quyền ưu tiên thanh toán khi xử lý
tài sản thế chấp đã được trình bày, phân tích trong một số giáo trình chuyên
ngành luật dân sự, các sách chuyên khảo của một số tác giả nghiên cứu khoa học
như tác phẩm “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2005”, “Luật nghĩa vụ dân sự
và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự - Bản án và bình luận án”, một số bài báo
đăng trên các tạp chí khoa học như “Chuyển giao quyền yêu cầu trong Bộ luật
Dân sự”, “Áp dụng chế định chuyển giao quyền yêu cầu qua thực tiễn một vụ án
dân sự”, “Chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ dân sự”, “Trở
thành người thế quyền khi đã thực hiện thay nghĩa vụ trong quan hệ dân sự?”,
“Vấn đề pháp lý về quyền ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm”, … mỗi
tác giả đã nêu, phân tích một hoặc một số vấn đề pháp lý. Tuy nhiên, nhìn tổng
quan thì chưa có cơng trình khoa học nghiên cứu chun sâu pháp luật dân sự
theo định hướng ứng dụng về đề tài “Quyền ưu tiên thanh toán của người giải
chấp theo pháp luật dân sự Việt Nam”.
(i) Giáo trình, sách chuyên khảo:
- Trường Đại học luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam,
Nhà xuất bản chính trị quốc gia, tập II.


3
Trong tài liệu này, đã đề cập và phân tích việc thay đổi chủ thể có quyền
yêu cầu (chuyển giao quyền yêu cầu, thế quyền) và chủ thể thực hiện nghĩa vụ
(chuyển giao việc thực hiện nghĩa vụ, thế nghĩa vụ). Giáo trình chỉ đề cập đến
việc chuyển giao quyền u cầu thơng qua thỏa thuận, phân tích bản chất của

việc chuyển giao quyền yêu cầu là người thứ ba thế quyền của người có quyền
ban đầu, trở thành chủ thể có quyền mới; người có quyền ban đầu chấm dứt tư
cách chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ và không phải chịu trách nhiệm về khả năng
thực hiện nghĩa vụ của người có nghĩa vụ.
Giáo trình phân tích chi tiết về điều kiện, hình thức thực hiện chuyển giao
quyền yêu cầu theo thỏa thuận; nghĩa vụ của các bên khi thực hiện chuyển giao
quyền yêu cầu theo thỏa thuận được quy định trong BLDS 2005, từ Điều 309
đến Điều 314. Giáo trình khơng đề cập đến chuyển giao quyền yêu cầu do luật
định như trong quan hệ thừa kế (Điều 636)… Nội dung giáo trình được xây dựng
trong bối cảnh BLDS 2005 có hiệu lực pháp luật nên ứng dụng vào hồn cảnh
hiện tại thì khơng cịn phù hợp với các quy định của BLDS 2015.
Trong luận văn, tác giả sẽ tiếp tục phân tích làm sáng tỏ các vấn đề giáo
trình chưa đề cập đến như chuyển giao quyền yêu cầu do luật định trong mối
quan hệ giữa người thực hiện thay nghĩa vụ và chuyển giao quyền yêu cầu có
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của BLDS 2015.
- Đỗ Văn Đại (2012), Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự, Bản án và bình luận án, Tập 1, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – Sự
thật, Hà Nội.
Trong tác phẩm, tác giả bình luận một số bản án để nêu, phân tích căn cứ
phát sinh chuyển giao quyền yêu cầu theo thỏa thuận và theo pháp luật, hệ quả
pháp lý của chuyển giao quyền yêu cầu trong mối quan hệ giữa chủ thể thế
quyền và chủ thể có nghĩa vụ và vai trị của chủ thể có quyền ban đầu.
Trong tác phẩm này, tác giả đã đề cập đến trường hợp thế quyền sau khi thực
hiện thay nghĩa vụ, theo tác giả thì trường hợp này khá phổ biến và nêu ra vấn đề
pháp lý là “sau khi thanh tốn cho người có quyền thì người trả thay có được thế
vào người có quyền khơng?”. Theo tác giả, trong BLDS 2005 chưa có điều luật cụ
thể nào đề cập đến trường hợp này. Viện dẫn các bản án để chứng minh trong thực


4

tiễn xét xử thì tịa án đã chấp nhận việc thế quyền này. Tác giả đã so sánh luật dân
sự Việt Nam với luật nước ngoài và đưa ra ý tưởng về việc bổ sung quy định của
luật về trường hợp thế quyền sau khi thực hiện thay nghĩa vụ dân sự.
Về hệ quả pháp lý, thì sự chuyển giao quyền yêu cầu chỉ thay đổi về chủ
thể quyền, còn nội dung, bản chất và đối tượng của nghĩa vụ dân sự thì khơng
thay đổi. Do đó nếu chuyển giao quyền có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự thì các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự cũng tiếp tục được
duy trì. Nội dung này sẽ được tiếp thu và triển khai theo hướng viện dẫn các bản
án để chứng minh thực tiễn xét xử đã có xu hướng chấp nhận quan điểm này.
Tuy nhiên, thời điểm ra đời của tác phẩm là BLDS 2005 có hiệu lực; và
tác phẩm chưa phân tích trường hợp thế quyền khi thực hiện thay nghĩa vụ trả nợ
để giải chấp tài sản có phát sinh quyền ưu tiên thanh tốn hay khơng. Nội dung
này sẽ được phân tích làm rõ trong luận văn theo quy định của BLDS 2015.
- Hồng Thế Liên (2009), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự 2005, Tập
II, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Trong tác phẩm, tác giả đã phân tích các điều luật trong BLDS 2005 về
chuyển giao quyền yêu cầu từ Điều 309 đến Điều 314, giới thiệu giá trị và ý
nghĩa của từng điều luật thông qua ý chí của nhà làm luật. Phân tích và lý giải
các trường hợp không được chuyển giao quyền yêu cầu như cấp dưỡng, yêu cầu
bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe … Trong tác phẩm chưa đề cập một
cách có hệ thống đến chuyển giao quyền yêu cầu theo luật định. Chỉ phân tích
đơn thuần về mặt lý luận và thiếu các dẫn chứng thực tiễn để chứng minh; chưa
chỉ ra được các hạn chế trong chế định chuyển giao quyền yêu cầu.
(ii) Tạp chí:
- Đỗ Văn Đại (2014), “Chuyển giao quyền yêu cầu trong Bộ luật Dân sự”,
Tạp chí Kiểm sát, số 3 (số tết), tr 40-41, 62.
Trong bài viết này, tác giả đã đề cập về cách thức chuyển giao quyền yêu
cầu theo thỏa thuận và “chuyển giao quyền yêu cầu mà không phụ thuộc vào ý
chí của các chủ thể liên quan” trong quan hệ thừa kế quy định tại Điều 636 BDS
2005 hay trong phần hợp đồng bảo hiểm quy định tại khoản 1 Điều 577 BLDS

2005. Theo tác giả, BLDS 2005 có quy định về thế quyền theo thỏa thuận (quy


5
định chung) và theo pháp luật (trong những hoàn cảnh cá biệt); trong BLDS
2005 đã ghi nhận rõ ràng việc chuyển giao quyền yêu cầu theo thỏa thuận nhưng
“chưa thấy các quy định về chuyển giao quyền yêu cầu mà khơng có thỏa
thuận”. Tác giả so sánh với pháp luật của nước ngồi (BLDS Napoléon của
Pháp) có quy định cho phép thế quyền đương nhiên trong trường hợp người tiếp
nhận bất động sản khi người này sử dụng tiền mua bất động sản để thanh tốn
cho người có quyền đã nhận thế chấp bất động sản. Tác giả đề xuất hướng
nghiên cứu bổ sung vào phần “Nghĩa vụ dân sự” của BLDS những quy định về
chuyển giao quyền yêu cầu theo pháp luật.
Trong luận văn sẽ tiếp thu quan điểm cho phép thế quyền đương nhiên
trong trường hợp người tiếp nhận bất động sản khi người này sử dụng tiền mua
bất động sản để thanh tốn cho người có quyền đã nhận thế chấp bất động sản.
Nêu và phân tích thực tiễn xét xử để chứng minh quan điểm “Quyền ưu tiên
thanh toán cho người giải chấp theo pháp luật dân sự Việt Nam”.
- Bùi Đức Giang (2012), “Quyền ưu tiên thanh tốn của bên nhận thế chấp
quyền địi nợ”, Tạp chí Ngân hàng, số 17, tr58-61.
Trong bài viết, tác giả đã nêu, phân tích quyền ưu tiên thanh tốn của bên
nhận thế chấp quyền đòi nợ được xử lý theo quy định tại các điều 336, 355
BLDS 2005. Tuy nhiên, khi áp dụng trong thực tiễn thì có xung đột pháp luật.
Cụ thể: Xung đột lợi ích giữa bên nhận thế chấp với bên nhận chuyển giao
quyền đòi nợ. Theo tác giả, khoản 4 Điều 22 Nghị định 163/2006/NĐ-CP cấp
quyền ưu tiên thanh tốn trong trường hợp quyền địi nợ vừa có thế chấp, vừa
được chuyển giao thì theo thứ tự đăng ký giao dịch bảo đảm là mâu thuẫn với
quy định của khoản 3, 4 Điều 349 BLDS 2005. Vì quyền địi nợ, sau khi được
thế chấp chỉ được chuyển giao khi bên nhận thế chấp đồng ý; nếu chuyển giao
mà khơng có sự đồng ý của bên nhận thế chấp thì vơ hiệu vì vi phạm điều cấm

của pháp luật (Điều 128 BLDS 2005).
Bài viết còn đề cập đến xung đột lợi ích giữa bên nhận thế chấp với bên có
quyền trong giao dịch thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba; với các
chủ nợ thực hiện quyền kê biên; với các bên cùng nhận thế chấp quyền đòi nợ;
với các chủ nợ khác.


6
Bài viết chưa đề cập đến quyền ưu tiên thanh toán của người trả nợ thay để
giải chấp tài sản quyền địi nợ sẽ như thế nào? Có được phép chuyển giao quyền
địi nợ sang bên giải chấp hay khơng?. Trong luận văn sẽ đề cập đến nội dung
này, phân tích theo hướng xem quyền địi nợ như tài sản khác và người trả nợ
thay để giải chấp quyền đòi nợ cũng trở thành người thế quyền.
- Trương Thị Mỹ Hạnh (2015), “Quy định về chuyển giao quyền yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ dân sự trong Bộ luật Dân sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
số 14 (294), tr 25-29.
Bài viết đã giới thiệu một cách tổng quan về chuyển giao quyền yêu cầu
được quy định trong BLDS 2005. Phân tích quy định chuyển giao quyền yêu cầu
theo thỏa thuận từ Điều 309 đến Điều 314 BLDS 2005. Phân tích chuyển giao
quyền yêu cầu theo pháp luật quy định tại Điều 367 BLDS 2005 trong quan hệ
bảo lãnh: Khi bên nhận bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh
thì người nhận bảo lãnh thế quyền bên bảo lãnh trong phạm vi nghĩa vụ đã thực
hiện thay. Theo tác giả, quy định này ngầm hiểu là chuyển giao quyền yêu cầu
thực hiện nghĩa vụ theo pháp luật.
Phân tích Điều 577 BLDS 2005 về “Chuyển u cầu hồn trả” trong hợp
đồng bảo hiểm. “Trong trường hợp người thứ ba có lỗi mà gây thiệt hại cho bên
được bảo hiểm và bên bảo hiểm đã trả tiền bảo hiểm thì bên bảo hiểm có quyền
u cầu người thứ ba hồn trả khoản tiền mà mình đã trả”. Đây là trường hợp
chuyển giao quyền yêu cầu theo luật định, không cần có sự thỏa thuận giữa các
bên, bên bảo hiểm đương nhiên thế quyền bên bị thiệt hại để kiện địi lại khoản

tiền bảo hiểm đã chi trả.
Phân tích điều 636 BLDS 2005, xác định trong quan hệ thừa kế, ghi nhận
sự chuyển giao quyền yêu cầu mà không cần thỏa thuận “Kể từ thời điểm thừa
kế, người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”.
Trong bài viết, tác giả cũng chỉ ra thực tiễn xét xử áp dụng chuyển giao
quyền yêu cầu. Tác giả trích dẫn nội dung của Bản án số 96/2008/DSPT ngày
22/4/2008 của TAND tỉnh An Giang và Quyết định số 88/2007/DS-GĐT của Tòa
dân sự Tòa án nhân dân tối cao để chứng minh Tòa án thừa nhận sự thế quyền sau
khi đã thực hiện thay nghĩa vụ, mặt dù chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh.


7
Trên cơ sở phân tích sự chuyển giao quyền, tác giả đề xuất bổ sung vào
phần “Nghĩa vụ dân sự” trong BLDS một điều luật quy định về người thực hiện
thay nghĩa vụ sẽ trở thành người thế quyền và đây là trường hợp chuyển giao
quyền yêu cầu theo pháp luật, bên thực hiện nghĩa vụ thay có đầy đủ quyền của
người có quyền ban đầu.
Bài viết này của tác giả Trương Thị Mỹ Hạnh cũng có ý tưởng tương tự tác
giả Đỗ Văn Đại trong bài viết “Chuyển giao quyền yêu cầu trong Bộ luật Dân
sự”4. Phân tích việc chuyển giao quyền yêu cầu trong thời điểm BLDS 2005 có
hiệu lực pháp luật; chưa nêu, phân tích thực tiễn xét xử để chứng minh quan điểm
“Quyền ưu tiên thanh toán cho người giải chấp theo pháp luật dân sự Việt Nam”.
- Phan Hải Hồ (2007), “Áp dụng chế định chuyển giao quyền yêu cầu qua
thực tiễn một số vụ án dân sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số chuyên đề hiến
kế pháp luật, số 21 (94), tr 57 – 59.
Bài viết đã nêu, viện dẫn nội dung một số vụ án được TAND giải quyết sơ
thẩm và phúc thẩm. Theo đó, tác giả phân tích đương sự có quyền chuyển giao
yêu cầu thực hiện nghĩa vụ dân sự đúng quy định của BLDS 2005 nhưng Tịa án
khơng chấp nhận sự chuyển giao quyền yêu cầu, làm ảnh hưởng đến quyền lợi
của đương sự trong vụ án. Từ đó, tác giả đề xuất giải pháp tiến hành bồi dưỡng

kiến thức pháp lý về chế định chuyển giao quyền yêu cầu của BLDS cho cán bộ
tư pháp, đặc biệt là thẩm phán; cần có văn bản hướng dẫn thi hành về chuyển
giao quyền yêu cầu.
Bài viết chưa đề cập một cách có hệ thống về chế định chuyển giao quyền
yêu cầu; chưa nêu được sự cần thiết phải quy định chuyển giao quyền yêu cầu do
luật định trong phần “Nghĩa vụ dân sự” của BLDS. Trong luận văn sẽ nêu, viện
dẫn, phân tích thực tiễn xét xử của Tịa án các cấp hiện nay đã có xu hướng chấp
nhận sự chuyển giao quyền yêu cầu không do thỏa thuận (do luật định); xác định
“Quyền ưu tiên thanh toán của người giải chấp theo pháp luật dân sự Việt Nam”.
- Tưởng Duy Lượng (2018), “Chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao
nghĩa vụ dân sự”, Tạp chí Kiểm sát, số 16, tr 3-11.
Đỗ Văn Đại (2014), “Chuyển giao quyền yêu cầu trong Bộ luật Dân sự”, Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, số 3 (số tết), tr 40-41, 62.
4


8
Bài viết đã nêu căn cứ pháp lý và phân tích việc chuyển giao quyền yêu cầu
theo quy định của BLDS 2015 dưới hình thức là một thỏa thuận trong giao dịch dân
sự giữa bên chuyển giao quyền yêu cầu với bên nhận chuyển giao. Phân tích nghĩa
vụ thơng báo việc chuyển giao quyền yêu cầu cho bên có nghĩa vụ biết khơng phải
là điều kiện bắt buộc để có hiệu lực, vì “việc chuyển giao quyền u cầu khơng cần
có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ” (khoản 2 Điều 365 BLDS 2015).
Bài viết cũng nêu, phân tích trường hợp chuyển giao quyền yêu cầu có
biện pháp bảo đảm thì việc chuyển giao quyền yêu cầu bao gồm cả biện pháp
bảo đảm. Do đó, thỏa thuận chuyển giao quyền yêu cầu không đề cập đến biện
pháp bảo đảm thì vẫn phải xác định việc chuyển giao quyền yêu cầu đó bao gồm
cả biện pháp bảo đảm. Về nội dung này, tác giả Tưởng Duy Lượng cũng có quan
điểm giống với tác giả Đỗ Văn Đại5.
Bài viết cũng phân tích khơng phải quyền u cầu nào cũng được phép chuyển

giao và chỉ ra ba trường hợp không được chuyển giao theo quy định của luật.
Bài viết không đề cập đến việc chuyển giao quyền yêu cầu không do thỏa
thuận. Do đó, trong luận văn sẽ tiếp thu và triển khai thêm quan điểm chuyển
giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm sẽ bao gồm quyền ưu tiên thanh tốn
của biện pháp bảo đảm mà khơng cần có thỏa thuận.
- Phạm Yến Nhi (2020), “Vấn đề pháp lý về quyền ưu tiên thanh toán khi
xử lý tài sản bảo đảm”, Tạp chí Tài chính, số 728, tr 70-72.
Bài viết trình bày khái quát chung về quyền ưu tiên thanh toán và thứ tự
ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm được quy định trong BLDS 2015.
Tác giả chỉ ra trong BLDS 2015 không định nghĩa về quyền ưu tiên mà quyền ưu
tiên được đề cập trong trường hợp có nhiều chủ nợ bảo đảm khác nhau đối với
cùng một tài sản. So sánh BLDS 2015 với quy định của BLDS Nhật Bản và
BLDS Pháp để chứng mimh pháp luật các nước đã có quy định về quyền ưu tiên
của các chủ nợ trong quan hệ giao dịch bảo đảm.
Bài viết nêu, phân tích các nguyên tắc áp dụng quyền ưu tiên thanh toán.
Thứ nhất, nếu các biện pháp bảo đảm đều phát sinh hiệu lực đối kháng với người
Đỗ Văn Đại (2012), Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, Bản án và bình luận án,
Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr 392.
5


9
thứ ba thì thứ tự thanh tốn được xác định theo thứ tự xác lập hiệu lực đối kháng.
Thứ hai, nếu có biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ
ba và có biện pháp bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba
thì nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người thứ ba được
thanh toán trước. Thứ ba, nếu các biện pháp bảo đảm đều không phát sinh hiệu
lực đối kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh tốn được xác định theo thứ tự
xác lập biện pháp bảo đảm.
Luận văn không nghiên cứu sâu vào vấn đề quyền ưu tiên thanh toán khi

xử lý tài sản bảo đảm mà tập trung vào nội dung: Quyền ưu tiên thanh toán theo
pháp luật dân sự Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm nghiên cứu những quy định của
Bộ luật Dân sự về quyền ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản thế chấp, sự chuyển
giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và quyền ưu tiên
thanh tốn của người giải chấp, từ đó phát hiện, chỉ ra những vướng mắt trong
thực tiễn giải quyết của Tịa án. Trên cơ sở đó, đưa ra kiến nghị về giải pháp
pháp lý để giúp các cơ quan, người có thẩm quyền khi giải quyết các tranh chấp
về quyền ưu tiên thanh toán của người giải chấp theo pháp luật dân sự Việt Nam
có hướng vận dụng pháp luật đúng đắn, thuyết phục; đảm bảo lẽ công bằng,
quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của cơng dân.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu, làm sáng tỏ quy định của pháp
luật Việt Nam về quyền ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản thế chấp, sự chuyển
giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người nhận thế
chấp cho người giải chấp tài sản; căn cứ phát sinh quyền ưu tiên thanh toán của
người giải chấp; thứ tự và phạm vi ưu tiên thanh toán của người giải chấp theo
pháp luật dân sự Việt Nam.
Nghiên cứu pháp luật dân sự một số nước quy định về quyền ưu tiên thanh
toán của người giải chấp, từ đó rút ra khía cạnh pháp lý cần nghiên cứu, học tập.


10
Đánh giá thực tiễn giải quyết, áp dụng pháp luật của Tòa án khi giải quyết
tranh chấp về quyền ưu tiên thanh toán của người giải chấp. Kiến nghị, đề xuất
với Tòa án nhân dân tối cao trong việc lựa chọn bản án làm án lệ về căn cứ phát
sinh quyền ưu tiên thanh toán của người giải chấp, thứ tự và phạm vi ưu tiên
thanh toán của người giải chấp.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định cụ thể của pháp luật dân
sự Việt Nam về vấn đề quyền ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản thế chấp; sự
chuyển giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; căn cứ
phát sinh quyền ưu tiên thanh toán của người giải chấp; thứ tự và phạm vi ưu
tiên thanh toán của người giải chấp. Đồng thời nghiên cứu thực tiễn xét xử của
tòa án các cấp khi giải quyết tranh chấp quyền ưu tiên thanh toán của người
giải chấp.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu về không gian: Đề tài sẽ giới hạn phạm vi nghiên
cứu các tài liệu trong nước; thực tiễn xét xử của tòa án sơ thẩm, phúc thẩm và
giám đốc thẩm ở Việt Nam; có so sánh với pháp luật của nước ngoài.
- Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu
ở BLDS năm 2015. Tuy nhiên, do bối cảnh BLDS năm 2005 vẫn còn giá trị
áp dụng trong giải quyết các tranh chấp xảy ra trước thời điểm BLDS năm
2015 có hiệu lực nên trong luận văn có xem xét, nghiên cứu những quy định
có liên quan của BLDS năm 2005. Thời gian nghiên cứu từ ngày 01/01/2006
đến nay.
- Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu vấn
đề giải quyết tranh chấp quyền ưu tiên thanh toán của người giải chấp theo pháp
luật dân sự Việt Nam; sự chuyển giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm thế
chấp từ người nhận thế chấp sang người giải chấp; căn cứ phát sinh quyền ưu
tiên thanh toán của người giải chấp; thứ tự và phạm vi ưu tiên thanh toán của
người giải chấp.


11
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đề tài được nghiên cứu có hiệu quả, tác giả sử dụng phương pháp luận

của chủ nghĩa duy vật biện chứng làm kim chỉ nam cho lý luận và nhận thức liên
quan đến đề tài.
Bên cạnh đó, tác giả sử dụng phương pháp bình luận bản án, phân tích
tổng hợp và so sánh xuyên suốt quá trình nghiên cứu Luận văn.
Phương pháp so sánh được sử dụng để làm rõ căn cứ phát sinh quyền ưu
tiên thanh toán của người nhận thế chấp tài sản và người giải chấp khi xử lý tài
sản thế chấp được quy định trong BLDS năm 2015 các các luật khác có liên
quan, phương pháp này được sử dụng trong phần đầu của chương 1 và chương 2.
Phương pháp bình luận bản án được sử dụng để phân tích thực tiễn giải
quyết tranh chấp của Tòa án về quyền ưu tiên thanh tốn của người giải chấp để
tìm ra vướng mắc trong quy định pháp luật với thực tiễn giải quyết của Tịa án.
Phương pháp bình luận bản án được sử dụng trong phần cuối của các chương 1
và 2. Trên sở sở bình luận bản án sẽ tổng hợp và đề xuất hướng áp dụng thống
nhất pháp luật.
Kết thúc mỗi chương, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp song
song với phương pháp phân tích để đánh giá khái quát kết quả nghiên cứu
của từng chương.
Kết luận luận văn, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp để khái qt
những phân tích trong phần nội dung, từ đó rút ra kết luận những vấn đề trọng
tâm cần đạt được, nhằm giúp cho người đọc có cách nhìn tổng qt, rõ ràng hơn
về nội dung của đề tài.
6. Dự kiến kết quả nghiên cứu
Dự kiến đề tài sẽ gồm 02 chương về 02 vấn đề độc lập có liên quan đến
nội dụng đề tài nghiên cứu. Trong mỗi chương sẽ gồm 02 vấn đề, và trong mỗi
vấn đề sẽ bình luận bản án để phân tích, đánh giá, tổng hợp thực tiễn xét xử
thông qua 01 hoặc 02 bản án của Tòa án nhân dân trong phạm vi lãnh thỗ Việt
Nam. So sách, đối chiếu pháp luật Việt Nam với pháp luật nước ngoài để tổng
kết, rút ra vấn đề pháp lý cần giải quyết và đề xuất hướng giải quyết cụ thể.



12
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn gồm 2 Chương được bố cục
như sau:
Chƣơng 1. Căn cứ phát sinh quyền ưu tiên thanh toán của người giải chấp.
Chƣơng 2. Thứ tự và phạm vi ưu tiên thanh toán của người giải chấp.
Kết cấu này được xây dựng xuất phát từ những bất cập cơ bản và chính
yếu khi nghiên cứu về quyền ưu tiên thanh toán của người giải chấp theo pháp
luật dân sự Việt Nam.
Thứ nhất, để xác định quyền ưu tiên thanh toán của người giải chấp, cần
làm rõ các căn cứ pháp lý được quy định trong BLDS và LTHADS. Theo quy
định tại các điều 297, 308 BLDS năm 2015, căn cứ phát sinh quyền ưu tiên
thanh tốn khi có tranh chấp giữa các bên cùng nhận tài sản bảo đảm; giữa bên
nhận bảo đảm với người thứ ba; và Điều 47 LTHADS quy định căn cứ phát sinh
quyền ưu tiên thanh toán cho bên nhận cầm cố, thế chấp. Như vậy, đối chiếu với
các quy định nêu trên thì pháp luật dân sự Việt Nam khơng nói rõ người giải
chấp được quyền ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản thế chấp; và, đương nhiên
cũng khơng có quy định đề cập đến thứ tự và phạm vi ưu tiên thanh tốn của
người giải chấp. Do đó, Luận văn sẽ chia thành hai chương tương ứng để triển
khai đề tài nghiên cứu.


13
CHƢƠNG 1
CĂN CỨ PHÁT SINH QUYỀN ƢU TIÊN THANH TOÁN
CỦA NGƢỜI GIẢI CHẤP
Ưu tiên thanh toán là một quyền quan trọng trong pháp luật dân sự, nó có
tác dụng cân bằng lợi ích kinh tế giữa các chủ thể có quyền ưu tiên với nhau
trong mối quan hệ đối kháng về lợi ích trên ngun tắc đảm bảo lẽ cơng bằng
cho các bên tham gia giao dịch dân sự; đồng thời thể hiện đặc quyền của chủ thể

có quyền ưu tiên trước các chủ thể khơng có quyền ưu tiên. Trong pháp luật dân
sự Việt Nam, quyền ưu tiên thể hiện qua quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán.
Trên thế giới, một số nước đã quy định quyền ưu tiên thành chế định
riêng, như trong BLDS Pháp, Thiên XVIII quy định về “Quyền ưu tiên và quyền
thế chấp”. Điều 2095 BLDS Pháp định nghĩa “Quyền ưu tiên là quyền của người
có quyền được ưu tiên thanh tốn nghĩa vụ trước những người có quyền khác, kể
cả người có quyền đã nhận thế chấp.”. Tương tự, Bộ luật dân sự Nhật Bản cũng
quy định quyền ưu tiên thanh toán, trong tác phẩm Bình luận khoa học Bộ luật
dân sự Nhật Bản, các tác giả Xaca Vacaxum và Tori Aritdumi đã viết “Quyền ưu
tiên cũng là một quyền bảo đảm tài sản và thể hiện bằng việc người có thẩm
quyền, trong một số nghĩa vụ do luật định, được ưu tiên đáp ứng quyền của mình
từ tài sản nhất định của người mắc nợ (Điều 303 Bộ luật dân sự)6.”.
Pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay chưa định nghĩa quyền ưu tiên hay
quyền ưu tiên thanh toán. Tuy nhiên, khi nghiên cứu các căn cứ phát sinh thứ tự
ưu tiên thanh tốn, ta có thể hiểu: Quyền ưu tiên thanh tốn là quyền tài sản cho
phép chủ thể có quyền được yêu cầu chủ thể có nghĩa vụ phải thanh tốn cho
mình trước các chủ thể có quyền khác từ tài sản của người có nghĩa vụ theo mức
độ ưu tiên thanh toán.
Dựa vào căn cứ phát sinh, quyền ưu tiên thanh tốn có thể được chia làm
02 nhóm:
+ Thứ nhất, nhóm quyền ưu tiên thanh tốn phát sinh từ biện pháp bảo
đảm. Đây là nhóm quyền ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm với
Bộ Tư pháp, Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý (1995), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Nhật Bản, tác
giả Xaca Vacaxum và Tori Aritdumi, Nxb. Chính trị quốc gia, tr 277.
6


14
nhau (Điều 308 BLDS năm 2015) gồm các biện pháp bảo đảm cầm cố, thế chấp;
và quyền ưu tiên thanh tốn của bên nhận bảo đảm với bên khơng bảo đảm (Điều

297 BLDS năm 2015). Trong nhóm này, thứ tự ưu tiên thanh tốn có thể thay
đổi, nếu các bên cùng nhận bảo đảm có thỏa thuận thay đổi thứ tự ưu tiên thanh
tốn cho nhau.
+ Thứ hai, nhóm quyền ưu tiên thanh tốn khơng phát sinh từ biện pháp
bảo đảm. Đây là nhóm quyền ưu tiên thanh tốn các nghĩa vụ tài sản và các
khoản chi phí liên quan đến thừa kế (Điều 658 BLDS năm 2015) và thứ tự thanh
toán khi thi hành án dân sự (Điều 47 Luật Thi hành án dân sự).
Cả hai nhóm quyền này đều được quy định trong luật. Tuy nhiên, các căn
cứ pháp lý nêu trên chưa điều chỉnh bao quát hết tồn bộ quan hệ dân sự, cịn
nhiều trường hợp nhà làm luật chưa dự liệu được, khơng có quy phạm pháp luật
điều chỉnh kịp thời, cịn bỏ ngõ gây khó khăn trong hoạt động thực tiễn giải
quyết xét xử tại Tịa án. Điển hình là các tranh chấp liên quan đến việc mua tài
sản đang thế chấp ngân hàng là bất động sản7. Do tài sản mua bán (chuyển
nhượng) đang thế chấp đảm bảo nghĩa vụ trả nợ khoản vay tín dụng cho ngân
hàng nên người mua (nhận chuyển nhượng) tài sản đã trực tiếp hoặc gián tiếp
thanh toán tiền cho ngân hàng để chấm dứt nghĩa vụ tài sản của bên bán (chuyển
nhượng) nhằm giải chấp tài sản; sau khi tài sản được giải chấp, hai bên tiến hành
thủ tục mua bán (chuyển nhượng) thì bị ngăn chặn, hợp đồng giao kết bị vô hiệu.
Trong trường hợp này, khi giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu thì số
tiền bỏ ra trả nợ cho ngân hàng để giải chấp tài sản có được ưu tiên thanh toán
cho người giải chấp (bên mua, nhận chuyển nhượng tài sản) hay khơng thì pháp
luật chưa quy định rõ và cịn bất cập. Thơng qua việc đánh giá thực tiễn xét xử
của Tòa án khi giải quyết các tranh chấp nêu trên sẽ chỉ ra sự bất cập, đặc biệt là
tính khơng thống nhất khi áp dụng pháp luật. Để làm rõ người giải chấp có
quyền ưu tiên thanh tốn hay khơng trong các tình huống pháp lý nêu trên, tác
giả sẽ khảo sát và phân tích các căn cứ pháp lý cũng như cơ sở lý luận phát sinh
quyền ưu tiên thanh toán của người giải chấp.
Khoản 1 Điều 107 BLDS năm 2015 quy định “1. Bất động sản bao gồm: a) Đất đai; b) Nhà, cơng trình xây
dựng gắn liền với đất đai; c) Tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, cơng trình xây dựng; d) Tài sản khác theo
quy định của pháp luật.”

7


15
1.1. Ngƣời giải chấp trực tiếp trả tiền cho ngân hàng để giải chấp
tài sản
1.1.1. Bất cập
a. Bất cập về căn cứ pháp lý
Thế chấp là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, theo đó, bên thế
chấp dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và
không giao tài sản cho bên nhận thế chấp (các điều 292, 317 BLDS năm 2015).
Mục đích thế chấp là dùng tài sản của bên có nghĩa vụ (hoặc bên thứ ba) bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ cho bên có quyền tài sản, tài sản bảo đảm sẽ bị xử lý khi:
(i) Đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; (ii) Bên có nghĩa vụ phải thực hiện
nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc
theo quy định của luật; (iii) Trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc luật có
quy định (Điều 299). Số tiền có được từ việc xử lý tài sản thế chấp sau khi thanh
tốn chi phí bảo quản, thu giữ và xử lý tài sản được thanh toán theo thứ tự ưu
tiên quy định tại Điều 308 BLDS năm 2015, cụ thể:
“1. Khi một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì thứ
tự ưu tiên thanh toán giữa các bên cùng nhận bảo đảm được xác định như sau:
a) Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều phát sinh hiệu lực đối kháng
với người thứ ba thì thứ tự thanh tốn được xác định theo thứ tự xác lập hiệu lực
đối kháng;
b) Trường hợp có biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với
người thứ ba và có biện pháp bảo đảm không phát sinh hiệu lực đối kháng với
người thứ ba thì nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng với người
thứ ba được thanh toán trước;
c) Trường hợp các biện pháp bảo đảm đều không phát sinh hiệu lực đối

kháng với người thứ ba thì thứ tự thanh tốn được xác định theo thứ tự xác lập
biện pháp bảo đảm.
2. Thứ tự ưu tiên thanh tốn quy định tại khoản 1 Điều này có thể thay đổi,
nếu các bên cùng nhận bảo đảm có thỏa thuận thay đổi thứ tự ưu tiên thanh toán


16
cho nhau. Bên thế quyền ưu tiên thanh toán chỉ được ưu tiên thanh toán trong
phạm vi bảo đảm của bên mà mình thế quyền”.
Như vậy, quyền ưu tiên thanh toán của người nhận thế chấp được phát
sinh từ quan hệ hợp đồng, và quan hệ hợp đồng này phải phù hợp với quy định
của pháp luật dân sự. Để phát sinh quyền ưu tiên thanh toán, hợp đồng thế chấp
phải tuân thủ về điều có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại Điều 117 của
BLDS năm 2015, bao gồm các điều kiện: i) Các bên tham gia hợp đồng thế chấp
phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi; ii) Các bên phải hoàn tồn tự
nguyện; iii) mục đích và nội dung của hợp đồng thế chấp không vi phạm điều
cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; iv) hình thức của hợp đồng thế chấp
phải bằng văn bản, có cơng chứng hoặc chứng thực hợp pháp và phải được đăng
ký biện pháp bảo đảm.
Trong thực tiễn xét xử, có nhiều bản án áp dụng các quy định xử lý tài sản
thế chấp để dành quyền ưu tiên thanh toán cho bên giải chấp tài sản sau khi quan
hệ thế chấp đã chấm dứt, hợp đồng thế chấp đã được xóa đăng ký giao dịch bảo
đảm. Điển hình như các vụ án sau đây:
[1] Vụ án thứ nhất: Quyết định giám đốc thẩm số 24/2019/DS-GĐT ngày
28/5/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao Đà Nẵng (viết tắt là quyết định 24 cấp cao
Đà Nẵng). Nội dung vụ án như sau: Vợ chồng Dũng, Trang có nhà hàng Kim Gia
Trang đang thế chấp Ngân hàng để đảm bảo cho nghĩa vụ vay 8.500.000.000đ.
Ngày 17/8/2018, vợ chồng ông Hưng, Quyên trả 8.500.000.000đ cho Ngân hàng
thay vợ chồng Dũng, Trang để giải chấp và hai bên ký hợp đồng chuyển nhượng
nhà hàng Kim Gia Trang. Khi tiến hành đăng ký sang tên thì bị ngăn chặn.

Quyết định 24 cấp cao Đà Nẵng nhận định: Cần làm rõ số tiền vợ chồng
Hưng, Quyên nộp vào Ngân hàng để giải chấp tài sản, từ đó ưu tiên thanh toán
cho vợ chồng Hưng, Quyên khi xử lý nhà hàng Kim Gia Trang.
Từ tình huống của vụ án thứ nhất [1] thì rõ ràng Tịa án cấp cao Đà Nẵng
đã chấp nhận theo hướng cho người giải chấp được quyền ưu tiên thanh toán số
tiền đã trả thay vào Ngân hàng mà khơng đưa ra căn cứ pháp lý.
Tịa án cấp cao Đà Nẵng nhận định “Tòa án cấp sơ thẩm cần xác minh làm
rõ số tiền ông Hưng, bà Quyên nộp vào Ngân hàng để giải chấp tài sản (nếu có),


17
từ đó ưu tiên thanh tốn cho vợ chồng ơng Hưng, bà Quyên khi xử lý khối tài
sản là nhà hàng Kim Gia Trang”. Nhận định này không chỉ ra căn cứ pháp lý làm
phát sinh quyền ưu tiên thanh tốn mà đưa ra kết luận: Nếu có căn cứ trả nợ thay
vào ngân hàng để giải chấp thì đương nhiên được ưu tiên thanh toán lại số tiền
trả nợ thay để giải chấp khi xử lý khối tài sản được giải chấp đó.
Từ phân tích vụ án nêu trên, cho thấy pháp luật dân sự Việt nam hiện nay
chưa có quy định về căn cứ phát sinh quyền ưu tiên thanh toán cho người giải chấp
nhưng thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng thì dành quyền ưu
tiên thanh tốn cho người giải chấp, quyết định giám đốc thẩm này mang tính định
hướng cho Tòa án nhân dâp cấp dưới xử lý các tình huống tương tự, điều này là rất
nguy hiểm vì phá vỡ nguyên tắc áp dụng pháp luật của Tòa án. Bởi lẽ, mọi phán
quyết của Tòa án cần phải được dựa trên căn cứ pháp lý rõ ràng, vững chắc.
Thực tiễn xét xử những tình huống pháp lý tương tự như vụ án thứ nhất
[1] cũng có Tịa án không chấp nhận dành cho người giải chấp quyền ưu tiên
thanh tốn. Ví dụ vụ án sau đây:
[2] Vụ án thứ hai: Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2020/DSST ngày
11/6/2020 của Tịa án nhân dân thị xã Sơng Cầu (viết tắt bản án 13 Sông Cầu).
Nội dung vụ án như sau: Vợ chồng Hải, Hương có một ngơi nhà và hai tàu cá,
các tài sản này đều đang được thế chấp cho Ngân hàng bảo đảm khoản nợ vay

704.131.944đ. Vợ chồng Hà, Hiếu trả nợ số tiền 704.131.944đ cho Ngân hàng
thay vợ chồng Hải, Hương để giải chấp tài sản. Sau đó, vợ chồng Hải, Hương
làm hợp đồng chuyển nhượng nhà và hai tàu cá cho vợ chồng Hà, Hiếu, khi làm
thủ tục sang tên thì bị ngăn chặn.
Bản án 13 Sông Cầu nhận định “Xét yêu cầu của ông Võ Ngọc Hà đề nghị
được ưu tiên thanh toán số tiền 704.131.944đ là khơng có căn cứ chấp nhận. Vì
khoản tiền này chỉ là khoản tiền thanh tốn cho Hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất và 02 hợp đồng mua bán tàu cá; không phải là giao dịch bảo đảm
nên khơng được ưu tiên thanh tốn theo quy định tại các điều 307, 308 BLDS
năm 2015”.
Khi so sánh vụ án thứ hai [2] với vụ án thứ nhất [1] cho thấy thực tiễn xét
xử trong các trường hợp này trái ngược nhau mà nguyên nhân là do pháp luật


18
chưa có quy định về căn cứ phát sinh quyền ưu tiên thanh toán của người giải
chấp, là bất cập do quy phạm pháp luật dân sự chưa dự liệu điều chỉnh và thay
đổi chậm hợp so với quan hệ xã hội dân sự đang tồn tại.
b. Bất cập về căn cứ chuyển giao quyền yêu cầu ưu tiên thanh toán
Chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ là một chế định được
quy định trong BLDS 2015, kế thừa tinh thần của BLDS 1995 và BLDS 2005.
Khoản 1 Điều 365 BLDS 2015 quy định: “Bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa
vụ có thể chuyển giao quyền yêu cầu đó cho người thế quyền theo thỏa thuận”.
Từ Điều 365 đến 369 BLDS 2015 quy định chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện
nghĩa vụ theo thỏa thuận và không đề cập đến chuyển giao quyền yêu cầu thực
hiện nghĩa vụ đương nhiên phát sinh theo căn cứ do luật định. Tìm hiểu chế định
này trong BLDS 1995 và BLDS 20058 cũng chỉ quy định chuyển giao quyền yêu
cầu theo thỏa thuận.
Nghiên cứu sâu hơn, ta thấy pháp luật dân sự cũng có quy định chuyển
giao quyền yêu cầu do luật định nhưng không được quy định chung trong chế

định “Chuyển giao quyền yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ” tại Mục 5 Chương
XIII của BLDS 2015. Cụ thể:
+ Điều 614 BLDS 2015 quy định “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những
người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”. Với quy định
này, người thừa kế đương nhiên được chuyển giao quyền và nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại mà không cần có sự thỏa thuận.
+ Điều 49 Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2009 quy định “Trong trường
hợp người thứ ba có lỗi gây thiệt hại cho người được bảo hiểm và doanh nghiệp
bảo hiểm đã trả tiền bồi thường cho người được bảo hiểm thì người được bảo
hiểm phải chuyển quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà mình đã
nhận bồi thường cho doanh nghiệp bảo hiểm”.
Từ điều 315 đến điều 320 BLDS 1995 và từ Điều 309 đến Điều 314 BLDS 2005.
Luật Kinh doanh bảo hiểm số 24/2000/QH10 ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội, có hiệu lực kể từ
ngày 01 tháng 4 năm 2001, được sửa đổi, bổ sung bởi:
1. Luật số 61/2010/QH12 ngày 24 tháng 11 năm 2010 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Kinh doanh bảo hiểm, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2011;
2. Luật số 42/2019/QH14 ngày 14 tháng 6 năm 2019 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 11 năm 2019.
8
9


19
+ Điều 176 Bộ luật Hàng hải năm 2015 quy định “Người thuê vận chuyển
có thể chuyển giao quyền theo hợp đồng cho người thứ ba mà không cần người
vận chuyển đồng ý, nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện hợp đồng
đã giao kết”.
+ Điều 7 Luật Thi hành án dân sự quy định “Chuyển giao quyền được thi
hành án cho người khác”.
Từ các quy định được viện dẫn nêu trên cho thấy: BLDS 2015 nói riêng và

pháp luật dân sự Việt Nam hiện nay nói chung có quy định về việc chuyển giao
quyền u cầu khơng do thỏa thuận mà do luật quy định. Tuy nhiên, các quy
định này còn tản mạn và chưa được hệ thống hóa trong một chế định cụ thể; và
khơng có quy định trường hợp đương nhiên chuyển giao quyền yêu cầu cho
người trả nợ ngân hàng thay người mắc nợ để giải chấp tài sản. Hạn chế này làm
công tác xét xử, áp dụng pháp luật của Tòa án trong một số trường hợp cụ thể
gặp nhiều lúng túng, không thống nhất.
Nghiên cứu pháp luật một số nước trên thế giới, như Bộ luật dân sự cộng
hịa Pháp, với tình huống pháp lý tương tự nêu trên đã dành quyền ưu tiên thanh
toán cho bên mua nhà, cụ thể Điều 1251 Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp quy định
“Việc thay thế người có quyền là đương nhiên trong các trường hợp sau đây: …
2. Người mua bất động sản dùng số tiền mua bất động sản để thực hiện nghĩa vụ
đối với những người có quyền thế chấp trên bất động sản đó”. Như vậy, Bộ luật
dân sự Cộng hòa Pháp sử dụng lý thuyết thế quyền yêu cầu của người mua bất
động sản để dành quyền ưu tiên thanh tốn cho người giải chấp.
Dưới góc độ nghiên cứu lý luận, một số học giả đã chỉ ra bất cập và nêu quan
điểm giải quyết tình huống pháp lý trên. Ví dụ, trong bài viết “Chuyển giao quyền
yêu cầu trong Bộ luật Dân sự10”, tác giả Đỗ Văn Đại đưa ra quan điểm cần nghiên
cứu bổ sung trong phần “Nghĩa vụ dân sự” của BLDS những quy định về chuyển
giao quyền yêu cầu theo pháp luật, trong đó có trường hợp thế quyền do đã trả thay
cho người có nghĩa vụ như quy định của Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp.
Tương tự, trong bài viết “Trở thành người thế quyền khi đã thực hiện thay
nghĩa vụ trong quan hệ dân sự?”, tác giả Trương Thị Mỹ Hạnh cũng đề cập vấn
10

Đỗ Văn Đại, Chuyển giao quyền yêu cầu trong Bộ luật Dân sự, (4), tr.40, 41, 62.


20
đề pháp lý như tác giả Đỗ Văn Đại và đề nghị được “bổ sung vào phần Nghĩa vụ

dân sự ít nhất một điều luật ghi nhận người thực hiện thay nghĩa vụ sẽ trở thành
người thế quyền và đây thuộc trường hợp chuyển quyền yêu cầu thực hiện nghĩa
vụ dân sự theo pháp luật, bên đã thực hiện thay nghĩa vụ có đầy đủ quyền của
người có quyền ban đầu, nghĩa là tất cả những thỏa thuận ban đầu giữa bên có
quyền và bên có nghĩa vụ sẽ hồn tồn có giá trị áp dụng cho bên đã đứng ra
thực hiện thay nghĩa vụ (lúc này trở thành bên có quyền)”11.
Bản thân người viết cũng thống nhất với quan điểm cần có quy định về
đương nhiên chuyển giao quyền yêu cầu cho người giải chấp để được thế quyền
ưu tiên thanh toán. Tuy nhiên, do người nhận thế chấp ban đầu có rất nhiều
quyền liên quan đến tài sản thế chấp như: Yêu cầu bên thế chấp hoặc người thứ
ba giữ tài sản thế chấp giao tài sản đó cho mình để xử lý khi bên thế chấp khơng
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; quyền bán tài sản hoặc nhận
chính tài sản thế chấp để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên thế chấp
(nếu có thỏa thuận)… Do đó, cần xác định rõ chỉ chuyển giao quyền ưu tiên
thanh toán khi xử lý khối tài sản được giải chấp chứ không phải chuyển giao
toàn bộ quyền của bên nhận thế chấp theo quy định tại các điều 299, 303, 305,
323 của BLDS. Điều này sẽ đảm bảo được lẽ công bằng trong giao lưu dân sự,
tránh trường hợp câu kết tẩu tán tài sản của người có nghĩa vụ.
Trong tình huống pháp lý vụ án thứ nhất [1], nếu vợ chồng Hưng, Quyên
không bỏ tiền trả nợ vào Ngân hàng để giải chấp tài sản thì Ngân hàng sẽ xử lý
tài sản thế chấp và có quyền ưu tiên thanh tốn khi xử lý tài sản thế chấp trong
phạm vi bảo đảm trước các khoản nợ khơng có bảo đảm khác của người mắc nợ.
Việc trả nợ thay để giải chấp tài sản là nguyên nhân trực tiếp giúp bảo tồn giá trị
tài sản của người mắc nợ. Do đó, khi xử lý khối tài sản này, cần ưu tiên thanh
toán số tiền đã bỏ ra để giải chấp mới đảm bảo lẽ công bằng cho người giải chấp.
Mặt khác, việc thừa nhận quyền ưu tiên thanh toán của người giải chấp sẽ góp
phần giải phóng nợ xấu tại ngân hàng, giúp mơi trường tín dụng được lành
mạnh, thơng suốt; sớm đưa tài sản quay lại q trình lưu thơng thúc đẩy phát
triển nền kinh tế.
Trương Thị Mỹ Hạnh (2015), “Trở thành người thế quyền khi đã thực hiện thay nghĩa vụ trong quan hệ

dân sự?”, Khoa học kiểm sát, số 02-2015, tr.53, 54, 55, 56.
11


×