Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Tiểu luận: “Phân tích những điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết vấn đề dân tộc.Liên hệthực tiễn giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.34 KB, 19 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề dân tộc là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược của cách mạng XHCN
và hiện nay cũng đang là một vấn đề thực tiễn nóng bỏng. Hàng ngày, hàng giờ
qua các phương tiện thông tin đại chúng, chúng ta luôn được nghe, được thấy các
cuộc chiến tranh đã, đang và nhiều nơi trên thế giới có nguy cơ xảy ra chiến
tranh giữa các dân tộc, sắc tộc. Những vấn đề về chiến tranh dân tộc đang đặt ra
trên thế giới đòi hỏi phải được giải quyết một cách đúng đắn và thận trọng. Thế
giới đã có những giải pháp khác nhau từ đàm phán chính trị đến qn sự…
nhưng nó chỉ có thể tạm lắng xuống vào từng thời điểm và ln có nguy cơ bùng
nổ trở lại. Sở dĩ như vậy là vì các giải pháp đưa ra khơng hồn chỉnh, triệt để,
thậm chí chỉ là những mưu lược để “nén” vấn đề dân tộc lại. Để giải quyết tốt
vấn đề dân tộc, cần hiểu rõ vấn đề dân tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc cần
giải quyết ra sao, qua đó xác định được tầm quan trọng của việc giải quyết vấn
đề dân tộc, xác định xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc và từ đó đề
ra phương hướng giải quyết tốt nhất, triệt để nhất. Điều đó chỉ có thể thực hiện
được trên cơ sở nghiên cứu và vận dụng các quan điểm khoa học và cách mạng
của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc.
Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện đã gặt hái được
những thành tựu to lớn; tuy nhiên, bên cạnh đó các thế lực thù địch thường
xuyên tìm cách phá hoại với thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn; thì vấn đề dân tộc
và đồn kết dân tộc lại càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Vì thế, tơi chọn đề tài:
“Phân tích những điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc giải quyết
vấn đề dân tộc. Liên hệ thực tiễn giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam hiện nay”
làm vấn đề nghiên cứu của bản thân.

2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu


2


Làm sáng tỏ tính khoa học trong giải quyết các vấn đề dân tộc của Chủ nghĩa
Mác – Lênin, sự vận dụng của Đảng ta trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Quan điểm về dân tộc, cương lĩnh dân tộc của Lênin, một số sự kế thừa và
phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta trong giải quyết vấn đề dân
tộc. Đi sâu vào các quan điểm, chủ trương, biện pháp giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập phân tích tài liệu: thơng qua các giáo trình, sách
tham khảo, các bài báo khoa học để làm rõ nội dung của mục tiêu nghiên cứu.
Phương pháp phân loại hệ thống hóa kiến thức: thơng qua các tài liệu thu
thập được nhằm hệ thống và sắp xếp các tài liệu khoa học theo chủ đề, theo đơn
vị kiến thức để nội dung của bài tiểu luận dễ nhận biết và nghiên cứu
5. Ý nghĩa nghiên cứu
Góp phần xây dựng nhận thức đúng đắn về các vấn đề dân tộc, đẩy lùi các
hoạt động chống phá, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với nước
ta trên cơ sở lợi dụng các vấn đề dân tộc.

Chương 1


3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC THEO QUAN
ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VÀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍNH
1.1. Một số vấn đề chung về dân tộc
Dân tộc là cộng đồng người ở ổn định, hình thành trong lịch sử, tạo lập
một quốc gia, trên cơ sở cộng đồng bền vững về: lãnh thổ quốc gia, kinh tế, ngơn
ngữ, truyền thống, văn hóa, đặc điểm tâm lí, ý thức về dân tộc và tên gọi của dân
tộc. Khái niệm này được hiểu:
+ Các thành viên cùng dân tộc sử dụng một ngôn ngữ chung (tiếng mẹ đẻ)
để giao tiếp nội bộ. Các thành viên cùng chung những đặc điểm sinh hoạt văn

hoá, vật chất, tinh thần, tạo nên bản sắc văn hoá dân tộc.
+ Dân tộc được hiểu theo nghĩa cộng đồng quốc gia dân tộc, là một cộng
đồng chính trị - xã hội, được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một lãnh
thổ chung như: dân tộc Việt Nam, dân tộc Lào, dân tộc Trung Hoa…
Tình hình quan hệ dân tộc trên thế giới
Quan hệ giai cấp, dân tộc diễn biến phức tạp, khó lường do sự tác động
của cách mạng khoa học cơng nghệ, xu thế tồn cầu hố kinh tế diễn ra mạnh
mẽ. Đảng ta nhận định: Tồn cầu hố và các vấn đề toàn cầu làm cho sự hiểu biết
lẫn nhau và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các dân tộc tăng lên, thúc đẩy xu thế khu
vực hoá. Đồng thời các dân tọcc đề cao ý thức độc lập, tự chủ, tự lực tự cường,
chống can thiệp áp đặt và cường quyền
Quan hệ sắc tộc, dân tộc hiện nay trên thế giới vẫn diễn ra rất phức tạp,
nóng bỏng ở cả phạm vi quốc gia, khu vực và quốc tế. Mâu thuẫn, xung đột dân
tộc, sắc tộc, xu hường li khai, chia rẽ dân tộc đang diễn ra ở khắp các quốc gia,
các khu vực, các châu lục trên thế giới. Đảng ta nhận định: “Những cuộc chiến
tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang,
hoạt động can thiệp, lật đôt, li khai, hoạt động khủng bố, những tranh chấp biê


4
giới, lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi
với tính chất ngày càng phức tạp”. Điều này gây nên những hậu quả nặng nề về
kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, mơi trường cho các quốc gia, đe doạ hồ bình,
an ninh khu vực và thế giới
1.2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc và giải
quyết vấn đề dân tộc
Vấn đề dân tộc là những nội dung nảy sinh trong quan hệ giữa các dân tộc
diễn ra trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội tác động xấu đến nỗi dân tộc và quan
hệ giữa các dân tộc, các quốc gia dân tộc với nhau cần phải giải quyết.
Dân tộc là vấn đề rộng lớn, bao gồm những quan hệ về tư tưởng chính trị,

kinh tế, lãnh thỗ, pháp lý, tư tưởng và văn hố giữa các dân tộc, các nhóm dân
tộc và bộ tộc.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá
trình phát triển lâu dài của lịch sử. Mác và Ăngghen đã đặt nền móng tư tưởng
cho việc giải quyết vấn đề dân tộc một cách khoa học.
Hình thức cộng đồng dân tộc tiền dân tộc như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự
phát triển của chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự ra đời của các dân tộc tư bản chủ
nghĩa. Chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế
quốc thi hành chính sách vũ trang xâm lược, cướp bóc, nơ dịch các dân tộc nhỏ
từ đó xuất hiện vấn đề dân tộc thuộc địa. Mác và Ăngghen nêu lên quan điểm cơ
bản có tính chất phương pháp luận để nhận thức và giải quyết vấn đề nguồn gốc,
bản chất của dân tộc, những quan hệ cơ bản của dân tộc, thái độ của giai cấp
công nhân và Đảng của nó về vấn đề dân tộc.
Lênin đã phát triển quan điểm này thành hệ thống toàn diện và sâu sắc về
vấn đề dân tộc, làm cơ sở cho cương lĩnh, đường lối, chính sách của các Đảng
cộng sản về vấn đề dân tộc. Lênin đã đặt ra một loạt các vấn đề có tính ngun lý
và những phương hướng giải quyết các vấn đề dân tộc của chủ nghĩa quốc tế vô


5
sản trong sáng. Ở đó các dân tộc đều có quyền bình đẳng và quyền tự quyết về
vận mệnh của dân tộc mình trên tinh thần hợp tác và xích lại gần nhau giữa các
dân tộc. Đây là sự phát triển, hoàn thiện lý luận chủ nghĩa Mác về vấn đề dân tộc
của Lênin vấn đề dân tộc còn tồn tại lâu dài. Bởi do dân số và trình độ phát triển
kinh tế - xã hội giữa các dân tộc khơng đồng đều; do sự khác biệt về lợi ích; do
sự khác biệt về ngơn ngữ, văn hố, tâm lí; do tàn dư tư tưởng dân tộc lớn, dân
tộc hẹp hịi, tự ti dân tộc; do thiếu sót, hạn chế trong hoạch định, thực thi chính
sách kinh tế - xã hội của nhà nước cầm quyền; do sự thống trị, kích động chia rẽ
của các thế lực phản động đối với các dân tộc
Giải quyết vấn đề dân tộc theo quan điểm của Lênin

Các dân tộc hồn tồn bình đẳng là các dân tộc khơng phân biệt lớn nhỏ,
trình độ phát triển cao hay thấp, đều có quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trên
mọi lĩnh vực, trong quan hệ giữa các dân tộc trong quốc gia đa dân tộc và giữa
các quốc gia dân tộc với nhau trong quan hệ quốc tế; xố bỏ mọi hình thức áp
bức, bóc lột dân tộc. Quyền bình đẳng dân tộc phải được pháp luật hóầ thực
hiện trên thực tế. Đây là quyền thiêng liêng, là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc
tự quyết, xây dựng quan hệ hữu nghị hợp tác giữa các dân tộc
Các dân tộc được quyền tự quyết, là quyền làm chủ vận mệnh của mỗi dân
tộc: quyền tự quyết định chế độ chính trị, con đường phát triển của dân tộc mình,
bao gồm cả quyền tựu do phân lập thành quốc gia riêng và quyền tựu nguyện
liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, phù hợp với lợi
ích chính đáng của các dân tộc. Kiên quyết đấu tranh chống việc lợi dụng quyền
tự quyết để can thiệp, chia rẽ, phá hoại khối đại đồn kết dân tộc.
Liên hiệp cơng nhân tất cả các dân tộc là sự đồn kết cơng nhân các dân
tộc trong phạm vi quốc gia và quốc tế và cả sự đoàn kết quốc tế của các dân tộc,
các lực lượng cách mạng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân để giải quyết
tốt vấn đề dân tộc, giai cấp, quốc tế.


6
1.3. Cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin
Trước tiên, dân tộc là một cộng đồng người ổn định, được hình thành và
phát triển trong lịch sử, sống trên cùng một lãnh thổ nhất định, có chung một mối
quan hệ về kinh tế, ngơn ngữ, văn hóa, tâm lý. Đặc trưng chung cơ bản và quan
trọng nhất của một dân tộc là có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế - đây
là cơ sở nền tảng cho sự vững chắc của cộng đồng dân tộc.
Trên thế giới, sự hình thành của các cộng đồng dân tộc diễn ra không đồng
đều. Ở Châu Âu, dân tộc ra đời gắn liền với sự ra đời và phát triển của CNTB;
còn ở châu Á, trước khi CNTB thâm nhập, do trong quá trình đấu tranh chống
giặc ngoại xâm và thiên nhiên để sinh tồn, các cộng đồng người kết hợp lại với

nhau hình thành một quốc gia độc lập, vì thế dân tộc được ra đời sớm hơn khi
CNTB hình thành.
Từ khi dân tộc ra đời, vấn đề dân tộc luôn luôn được đặt ra và thu hút sự
chú ý của mọi giai cấp và tầng lớp xã hội quan tâm. Nội dung của vấn đề dân
tộc, trước tiên là quan hệ giữa các tộc người trong một xã hội nằm trong khuôn
khổ một quốc gia dân tộc về các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, văn hóa, ngơn ngữ…
và những vấn đề này thường kết hợp với những lợi ích giai cấp, nên các phong
trào dân tộc đều mang tính giai cấp sâu sắc. Ngày nay, tình hình dân tộc trên thế
giới diễn biến rất phức tạp, đa dạng và gay gắt, giảii quyết vấn đề này ở từng lúc,
từng nơi có khi phải bằng vũ trang quân sự. Giải quyết vấn đề dân tộc là một
trong những vấn đề quyết định đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng, tan
rã của một quốc gia dân tộc, như ở Tiệp Khắc cũ, Liên Xô cũ, Nam Tư cũ,
Inđônêsia hay vấn đề ở Đơng Timor... Vấn đề dân tộc cịn đề cập đến quan hệ
giữa các quốc gia dân tộc và sự phát triển của thế giới nói chung với tư cách là
cơng đồng quốc tế của các dân tộc.
Vấn đề dân tộc ln gắn với tính giai cấp và mỗi giai cấp đều xuất phát từ
lợi ích của giai cấp mình trong quan niệm và tham gia phong trào dân tộc. Đối


7
với các nước XHCN thì bao giờ quan hệ dân tộc và quan hệ giai cấp cũng gắn bó
với nhau, giải quyết vấn đề dân tộc chính là giải quyết vấn đề giai cấp và ngược
lại. Còn đối với các nước TBCN thì giai cấp thống trị ln lợi dụng vấn đề dân
tộc để phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị, vì thế quan hệ dân tộc và quan
hệ giai cấp tách rời nhau, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp tách rời nhau.
Khi nghiên cứu vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc trong điều kiện của
CNTB, Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng khách quan trong phong trào dân tộc.
Một là xu hướng phân lập, do sự thức tỉnh, trưởng thành của ý thức dân
tộc mà các cộng đồng dân cư muốn tách ra thành lập quốc gia dân tộc độc lập.
Hai là xu hứơng liên hiệp giữa các dân tộc lại với nhau, do sự phát triển của

LLSX, của khoa học và cơng nghệ. Ngày nay, các dân tộc có xu hướng liên kết, hợp
tác với nhau trong quan hệ thị trường mở rộng dựa trên nguyên tắc tự nguyện, bình
đẳng và cùng có lợi (Ví dụ như thị trường chung châu Âu, châu Á (ASEAN)…).
Tuy nhiên, hai xu thế này là một thể thống nhất, mỗi nước đều có chủ
quyền độc lập, quyền tự chủ, tự quyết nhằm xây dựng quốc gia dân tộc mình
phồn vinh, cơng bằng, văn minh bên cạnh sự hòa nhập cộng đồng quốc tế. Hiện
nay, vấn đề dân tộc, giai cấp đã trở thành một vấn đề vừa có tính quốc gia, vừa
có tính quốc tế, vừa có tính thời sự vừa có tính lâu dài.
Dựa trên sự phân tích hai xu hướng khách quan của phong trào dân tộc và
dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm phong trào cách mạng thế giới trong việc gỉai
quyết vấn đề dân tộc, Lênin đã đưa ra Cương lĩnh Dân tộc với 3 vấn đề chính
bao gồm :
- Một là các dân tộc hồn tồn bình đẳng: Quyền bình đẳng của các dân
tộc là quyền thiêng liêng, khơng phân biệt dân tộc đơng người hay ít người, lớn
hay nhỏ, trình độ phát triển cao hay thấp, khơng phân biệt chủng tộc, màu da….
Nghĩa là tất cả đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau. Thực chất của bình
đẳng dân tộc là xóa bỏ sự nơ dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác. Từng


8
bước xóa bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc. Bình đẳng
phải được thực hiện trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội….
Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải
được pháp luật bảo vệ và phải được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Trên phạm vi giữa các quốc gia, đấu tranh cho quyền bình đẳng dân tộc
trong giai đoạn hiện nay phải gắn với cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc,
chống chủ nghĩa sôvanh (nước lớn bắt nạt nước bé), chống sự áp bức, bóc lột của
các nước tư bản phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
- Hai là các dân tộc được quyền tự quyết: là quyền làm chủ của mỗi dân tộc
đối với vận mệnh của dân tộc mình, quyền tự quyết định chế độ chính trị xã hội và

con đường phát triển riêng không bị lệ thuộc vào bên ngoài. Đây cũng là quyền
thiêng liêng cơ bản của mỗi dân tộc. Bao gồm: Quyền tự do độc lập về chính trị,
quyền thành lập một quốc gia dân tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc chứ khơng
phải xuất phát từ mưu đồ lợi ích của một nhóm người nào đó. Và quyền tự nguyện
liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi để có đủ sức mạnh
chống nguy cơ xâm lược từ bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia dân
tộc. Khi xem xét quyền tự quyết của dân tộc cần phải đứng trên lập trường giai cấp
công nhân, kiên quyết đấu tranh chống âm mưu thủ đoạn, lợi dụng chiêu bài dân tộc
tự quyết để can thiệp vũ trang và áp bức các dân tộc khác.
- Ba là liên hiệp cơng nhân giữa các dân tộc: đó là sự đồn kết của giai
cấp cơng nhân các dân tộc trên toàn thế giới để đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch, nhằm hồn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng
nhân. Đó là tư tưởng cơ bản trong Cương lĩnh, nó phản ánh bản chất quốc tế của
phong trào công nhân. Điều đó xuất phát từ bản chất quốc tế, tinh thần quốc tế
vô sản của giai cấp công nhân giải phóng dân tộc mình và giải phóng các dân tộc
khác cùng cảnh ngộ; do chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư sản trong các nước tư bản
cấu kết nhau, bắt tay nhau chống lại phong trào công nhân, phong trào cách


9
mạng. Vì vậy, giai cấp cơng nhân phải đồn kết liên hiệp lại với nhau để đấu
tranh chống lại chúng. Vì vậy đồn kết giai cấp cơng nhân giữa các quốc gia dân
tộc là nhân tố quan trọng để giải quyết các vấn đề dân tộc .
Cả ba nội dung trên đều quan trọng, khi vận dụng cần sáng tạo không
được xem nhẹ vấn đề nào. Thực tiễn cách mạng trên thế giới trong thời gian qua
đã chứng minh được tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của Cương lĩnh.
Những nơi nào, thời điểm nào quốc gia nào vận dụng đúng đem lại thành quả hết
sức to lớn, ngược lại khi vận dụng sai hoặc bóp méo lý luận dẫn đến thất bại, trì
trệ thậm chí bị tan rã, sụp đổ ….
Nhìn chung, Cương lĩnh dân tộc của Lênin đã có những tác dụng tích cực

cho các nước trong tiến trình cách mạng XHCN. Đó là cơ sở cho đồn kết cơng
nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc; đồn kết giai cấp cơng nhân gắn
với phong trào giải phóng dân tộc giúp cho các nước bị thực dân, đế quốc xâm
lược có lối thốt trên cơ sở đó tạo điều kiện cho cách mạng vơ sản ở các nước
sớm nổ ra. Đồng thời, cương lĩnh còn giúp cho các nước khi giai cấp công nhân
và nhân dân lao động giành được chính quyền, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới thực hiện chính sách dân tộc phù hợp với cương lĩnh mà Lênin đã nêu ra.
Chương 2
CHÍNH SÁCH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Khái quát đặc điểm của các dân tộc ở Việt Nam hiện nay
Việt Nam là một quốc gia dân tộc thống nhất gồm 54 dân tộc cùng sinh
sống. Các dân tộc Việt Nam có các đặc trưng sau:
Một là, các dân tộc ở Việt Nam có truyền thống đồn kết, gắn bó xây dựng
quốc gia dân tộc thống nhất. Đây là đặc điểm nổi bật trong quan hệ giữa các dân
tộc ở Việt Nam. Các dân tộc Việt Nam đều có chung cội nguồn, chịu ảnh hưởng
chung của điều kiện tự nhiên, xã hội, chung vận mệnh dân tộc, chung lợi ích cơ


10
bản - quyền được tồn tại, phát triển. Đoàn kết, thống nhất đã trở thành giá trị tinh
thần truyền thống quí báu của dân tộc, là sức mạnh để dân tộc ta tiếp tục xây
dựng và phát triển đất nước
Hai là, các dân tộc thiểu số ở Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ trên địa
bàn rộng lớn, chủ yếu là miền núi, biên giới, hải đảo. Không có dân tộc thiểu số
nào cư trú duy nhất trên một địa bàn mà không xen kẽ với một vài dân tộc khác.
Nhiều tỉnh miền núi các dân tộc thiểu số chiếm đa số dân như: Cao Bằng, Lạng
Sơn, Tuyên Quang, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu…
Ba là, các dân tộc ở nước ta có qui mơ dân số và trình độ phát triển khơng
đồng đều. Theo số liệu điều tra dân số năm 1992, nước ta có 54 dân tộc, trong đó

dân tộc Kinh có 65,9 triệu người, chiếm 86,2% dân số cả nước, 53 dân tộc thiểu
số có 10,5 triệu người, chiếm 13,8 dân số cả nước. Dân số của các dân tộc thiểu
số cũng chênh lệch. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc khơng
đều nhau. Có dân tộc đã đạt đến trình độ phát triển cao, đời sống đã tương đối
khá như dân tộc Kinh, Hoa, Tày, Mường, Thái…, nhưng cũng có những dân tộc
trình độ phát triển cịn thấp, đời sống cịn gặp nhiều khó khăn như một số dân tộc
ở Tây Bắc, Trường Sơn, Tây Nguyên
Bốn là, mỗi dân tộc ở Việt Nam đều có sắc thái văn hố riêng, góp phần
làm nên sự đa dạng, phong phú, thống nhất của văn hố Việt Nam. Các dân tộc
đều có sắc thái văn hố về nhà cửa, ăn mặc, ngơn ngữ, phong tục tập qn, tín
ngưỡng, tơn giáo và ý thức dân tộc riêng. Đồng thời các dân tộc cũng có điểm
chung thống nhất về văn hố, ngơn ngữ, phong tục tập qn, tín ngưỡng, tơn
giáo, ý thức quốc gia dân tộc. Sự thống nhất trong đa dạng là đặc trưng của văn
hoá các dân tộc ở Việt Nam
2.2. Quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Trong các giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn có quan điểm nhất qn:
“Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc tạo mọi


11
điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó
mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam”. Công tác
dân tộc ở nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước ta tập trung
Khắc phục sự cách biệt về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các dân
tộc; nâng cao đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số, giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hoá các dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hịi, kì thị, chia
rẽ dân tộc, lợi dụng vấn đề dân tộc gây mất ổn định chính trị - xã hội, chống phá
cách mạng; thực hiện bình đẳng, đồn kết, tơn trọng giúp đỡ nhau cùng tiến bộ
giữa các dân tộc nhằm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm cho tất cả các dân
tộc ở Việt Nam đều phát triển, ấm no, hạnh phúc

Văn kiện Đại hội X chỉ rõ quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà
nước ta hiện nay là: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu
dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam
bình đẳng, đồn kết, tơn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện
thắng lợi sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và
tinh thần, xố đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hố, tiêng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc.
Thực hiện tốt chiến lược phát triẻn kinh tế - xã hội ở miền núi, vùng sâu,
vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ địa cách mạng; làm tốt công tác định canh
định cư và xây dựng vùng kinh tế mới. Quy hoạch, phân bổ, sắp xếp lại dân cư,
gắn phát triển kinh tế với bảo đảm an ninh, quốc phòng. Củng cố và nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện
ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là người dân tộc thiểu số. Cán
bộ công tác ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập
quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt cơng tác dân vận. Chống các biẻu
hiện kì thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc”


12
Đại hội XI tiếp tục khẳng định: “Thực hiện chính sách bình đẳng, đồn
kết, tơn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc
cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc
Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hố, ngơn ngữ, truyền thống tốt đẹp
của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân tộc. Các chính sách kinh tế
- xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân tộc, nhất là các dân
tộc thiểu số”.
Tại Đại hội XIII đã có những ghi nhận và xác định các vấn đề về dân tộc
trong đó nhìn lại 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đảng ta đánh giá “toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân đã nỗ lực phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, thách thức,

thực hiện thắng lợi các mục tiêu, các nhiệm vụ trọng tâm, đạt được nhiều thành tựu
rất quan trọng”, đồng thời khẳng định: “Nguyên nhân quan trọng nhất là sự đoàn
kết, thống nhất, sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, có hiệu quả, kịp thời của Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ đảng trong việc triển khai
thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII”. Riêng trong năm 2020, đất nước ta đã
trở thành điểm sáng trong bức tranh toàn cầu khi vừa kiểm soát tốt đại dịch
COVID-19, vừa phát triển kinh tế - xã hội. Có được kết quả đó là “Do phát huy
được sức mạnh đại đồn kết toàn dân tộc, sự ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự
tham gia đồng bộ, quyết liệt của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo đúng đắn
của Đảng, sự đồng lòng ủng hộ của nhân dân”. Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, trực
tiếp là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đảng ta đã rút ra bài học phải “phát
huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước; khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo
vệ Tổ quốc trong tình hình mới”.
Nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc,
Đại hội XIII đã tiếp tục khẳng định đây là một quan điểm, chủ trương lớn cần được


13
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nỗ lực củng cố, tăng cường trong chặng đường
tiếp theo của cách mạng nước ta. Quan điểm chỉ đạo của Đại hội XIII xác định:
“Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đồn
kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.
Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định
bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu xây
dựng một nước Việt Nam hồ bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh làm điểm tương đồng; xố bỏ
mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác
nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền

thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận
chung, tăng cường đồng thuận xã hội.
Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về
số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn,
kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động; đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố và hội nhập quốc tế; bảo vệ quyền
lợi, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cơng nhân. Xây dựng, phát huy vai
trị của giai cấp nơng dân; nâng cao trình độ giác ngộ giai cấp, tạo điều kiện hỗ
trợ, khuyến khích nơng dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và
áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ; nâng cao chất lượng cuộc sống để giai cấp
nông dân thực sự là chủ thể của q trình phát triển nơng nghiệp, nông thôn và
xây dựng nông thôn mới. Xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, có chất lượng cao;
tơn trọng, phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo; coi trọng
vai trò tư vấn, phản biện của các cơ quan khoa học trong việc hoạch định đường
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với trí
thức, giữa trí thức với Đảng, Nhà nước. Có chính sách trọng dụng trí thức, đặc biệt


14
đối với nhân tài của đất nước. Tạo điều kiện xây dựng, phát triển đội ngũ doanh
nhân lớn mạnh, có đạo đức và trách nhiệm xã hội cao; phát huy tiềm năng và vai
trị tích cực của đội ngũ doanh nhân trong phát triển sản xuất kinh doanh, tạo việc
làm, thu nhập cho người lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo dựng và giữ
gìn thương hiệu hàng hố Việt Nam. Làm tốt cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống, tạo điều kiện học tập, lao động, giải
trí, phát triển thể lực, trí tuệ cho thế hệ trẻ; khuyến khích, cổ vũ thanh niên ni
dưỡng ước mơ, hồi bão lớn, xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, cơng nghệ
hiện đại; hình thành một lớp thanh niên ưu tú trên mọi lĩnh vực, kế tục trung thành
và xuất sắc sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Nâng cao trình độ mọi
mặt và đời sống vật chất, tinh thần của phụ nữ, tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện

tốt vai trị của mình trong gia đình và xã hội; kiên quyết đấu tranh chống các tệ
nạn xã hội và các hành vi bạo lực, xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Phát
huy truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà
nước, bảo vệ nhân dân, giáo dục lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ của cựu chiến binh. Quan tâm chăm sóc sức
khoẻ, tạo điều kiện để người cao tuổi sống vui, sống khoẻ, sống hạnh phúc; phát
huy trí tuệ, kinh nghiệm sống trong xã hội và gia đình.
Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tơn trọng, giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tiếp tục hồn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo phù hợp với quan
điểm của Đảng trong giai đoạn mới của đất nước; tôn trọng những giá trị đạo đức,
văn hoá tốt đẹp của các tơn giáo; động viên chức sắc, tín đồ, các tổ chức tôn giáo
sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho cơng cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Đồng bào định cư ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của
cộng đồng dân tộc Việt Nam; Nhà nước ban hành các cơ chế, chính sách để hỗ trợ,
giúp đỡ đồng bào ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy bản sắc


15
văn hoá dân tộc, hướng về Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tập hợp,
đoàn kết nhân dân, thực hiện dân chủ, tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, phát
triển kinh tế, văn hố, xã hội, tăng cường quốc phịng, an ninh, giám sát và phản
biện xã hội, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước.
2.3. Đấu tranh phòng chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân
tộc chống phá cách mạng Việt Nam.
Vấn đề dân tộc là một trong những lĩnh vực trọng yếu mà các thế lực thù
địch lợi dụng để chống phá cách mạng, cùng với việc lợi dụng trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, tư tưởng để chuyển hố chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam;
xố bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam với toàn xã hội, thực hiện

âm mưu “không đánh mà thắng”. Với âm mưu đó, chúng lợi dụng vấn đề dân tộc
nhằm các mục tiêu cụ thể sau:
Trực tiếp phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ dân tộc đa số với dân
tộc thiểu số và giữa các dân tộc thiểu số với nhau, chia rẽ đồng bào theo tôn giáo
và không theo tôn giáo, giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, hịng làm
suy yếu khối đại đồn kết dân tộc.
Kích động các dân tộc thiểu số, tín đồ chức sắc các tơn giáo chống lại
chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; đối lập dân tộc, các tơn giáo
với sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam; vơ hiệu hố sự quản lí của Nhà nước đối với các
lĩnh vực đời sống xã hội, gây mất ổn định chính trị - xã hội, nhất là vùng dân tộc,
tôn giáo. Coi tôn giáo là lực lượng đối trọng với Đảng và Nhà nước ta nên chúng
thường xuyên hậu thuẫn, hỗ trợ về vật chất, tinh thần để các phần tử chống đối
trong các dân tộc, tơn giáo chống đối Đảng, Nhà nước, chuyển hố chế độ chính
trị ở Việt Nam.


16
Thế nhưng thời gian qua Đảng, Nhà nước ta vẫn ln hết sức quan tâm,
với nhiều chính sách để phát triển, giúp đỡ các vùng khó khăn, vùng dân tộc
thiểu số, tạo điều kiện cho nhân dân cả nước thật sự bình đẳng về mọi mặt, chăm
lo cuộc sống người dân ngày càng tốt lên cả về vật chất và tinh thần. Ngay trong
đại dịch Covid-19 mà nước ta đang gồng mình chống đỡ vẫn có thể thấy sáng
ngời tinh thần đồn kết dân tộc, khơng phân biệt dân tộc, tôn giáo, tuổi tác, vùng
miền, tất cả đều chung tay, đồng lịng quyết tâm đánh tan dịch bệnh, khơng để ai
bị bỏ lại phía sau. Dù các thế lực thù địch có ra sức kêu gào, xuyên tạc thế nhưng
thực tế đã chứng minh những chính sách nhất quán của Đảng ta về dân tộc là
đúng đắn và tinh thần đoàn kết dân tộc đã trở thành biểu tượng tinh thần to lớn
của đất nước ta trong mắt bạn bè thế giới.
Hiện nay các thế lực thù địch đang tạo dựng các tổ chức phản động trong

các dân tộc thiểu số, các tôn giáo như Giáo hội phật giáo Việt Nam thống nhất,
Hội thánh tin lành Đề Ga, Hội thánh Đức chúa trời, Pháp Luân công.... Nhà nước
Đề Ga độc lập, Mặt trận giải phóng Khơme Crơm, Mặt trận Chămpa để tiếp tục
chống phá cách mạng Việt Nam.
Thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc chống phá cách mạng Việt Nam của các
thế lực thù địch rất thâm độc, tinh vi, xảo trá, đê tiện dễ làm cho người ta tin và
làm theo. Chúng thường sử dụng chiêu bài “nhân quyền”, “dân chủ”, “tự do”;
những vấn đề lịch sử để lại; những đặc điểm văn hóa, tâm lí của đồng bào các
dân tộc, tơn giáo; những khó khăn trong đời sống vật chất tinh thần của các dân
tộc, tôn giáo; những thiếu sót trong thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội,
chính sách dân tộc, tơn giáo của Đảng, Nhà nước ta để chống phá cách mạng
Việt Nam. Thủ đoạn đó được biểu hiện cụ thể ở các dạng sau:
Một là, chúng tìm mọi cách xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Chúng lợi dụng những


17
thiếu sót, sai lầm trong thực hiện chính sách dân tộc để gây mâu thuẫn, tạo cớ
can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam
Hai là, chúng lợi dụng những vấn đề dân tộc để kích động tư tưởng dân
tộc hẹp hịi, dân tộc cực đoan, li khai; kích động, chia rẽ quan hệ lương – giáo và
giữa các dân tộc, tơn giáo khác nhau hịng làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc
Ba là, chúng tập trung phá hoại các cơ sỏ kinh tế xã hội, mua chuộc, lôi
kéo, ép buộc đồng bào các dân tộc, tôn giáo chống đối chính quyền, vượt biên
trái phép, gây mất ổn định chính trị - xã hội, bạo loạn, tạo các điểm nóng để vu
khống Việt Nam đàn áp các dân tộc, tôn giáo vi phạm dân chủ, nhân quyền để cô
lập, làm suy yếu cách mạng Việt Nam
Bốn là, chúng tìm mọi cách để xây dựng, ni dưỡng các tổ chức phản
động người Việt Nam ở nước ngoài; tập hợp, tài trợ, chỉ đạo lực lượng phản
động trong chống phá cách mạng Việt Nam.

Mặc dù hiện nay chủ nghĩa xã hội thế giới sau những biến động khủng
hoảng, sụp đổ đã có những dấu hiệu phát triển tích cực, nhiều nước khu vực Mỹ
- Latinh tuyên bố xây dựng chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI, sự nghiệp đổi mới xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta sau hơn 35 năm tiến hành đã đạt những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn đang ráo riết
thực hiện âm mưu “diễn biến hồ bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu
bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hịng làm thay đổi chế độ
chính trị ở nước ta. Hơn nữa, ngay một bộ phận nhân dân ta, trong đó có cả
những cán bộ, đảng viên đã một thời khơng tiếc máu xương cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc, nhưng đứng trước những khó khăn trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường kết hợp với sự chống
phá quyết liệt của kẻ thù đã mất phương hướng chính trị, dao động về lập trường
tư tưởng ... Do vậy, đòi hỏi chúng ta phải vững tin vào con đường Bác Hồ đã lựa


18
chọn, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn cách
mạng hiện nay.
KẾT LUẬN
Vấn đề dân tộc ln ln là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với sự
nghiệp cách mạng nước ta cả trong giai đoạn hiện nay và sau này. Đảng và Nhà
nước ta luôn chú trọng tới vấn đề dân tộc và đại đồn kết dân tộc, coi đó là
nguồn sức mạnh, là động lực đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác. Do đó, nhận thức sâu sắc về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc
của Đảng là một nhiệm vụ quan trọng và cần thiết.
Dân tộc Việt Nam được hình thành và phát triển trải qua hàng ngàn năm
lịch sử; lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử dựng nước đi đơi với đấu tranh giữ
nước. Trong tiến trình lịch sử đó, đại đồn kết dân tộc là một nhân tố đóng vai
trị quyết định như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Đồn kết, đồn kết, đại đồn
kết. Thành công, thành công, đại thành công”.

Đối với thế hệ trẻ, cần nhận thức sâu sắc hơn nữa Chủ nghĩa Mác – Lênin,
Tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng. Tin tưởng
vào sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng cộng sản Việt Nam, tin vào sự nghiệp cách
mạng Việt Nam và con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Kiên quyết
đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Muốn vậy,
thì trước hết mỗi chúng ta cần có lịng tự tơn dân tộc, cố gắng học tập nâng cao
trình độ chun mơn để góp phần vào sự phát triển chung của nước nhà. Là sinh
viên nghành Quản lý Văn hóa càng phải nhận thức rõ các vấn đề về dân tộc, từ
đó có các hoạt động tích cực, đúng đắn, hiệu quả ngay trên ghế nhà trường và
cơng tác sau này để góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam,
những tinh hoa của dân tộc mãi trường tồn và phát triển theo thời gian.


19

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 19, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
2. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Matxcơva.
3.

C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 17, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.

4.

C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Tồn tập, tập 22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội..
5. Hồ Chí Minh, Tồn tập, (2002), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
10. Nguyễn Phú Trọng: Sự phát triển nhận thức của Đảng ta từ Cương lĩnh năm
1991 đến nay



×