Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN một số vấn đề về tư TƯỞNG đạo đức của NGUYỄN BỈNH KHIÊM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.8 KB, 20 trang )

TIỂU LUẬN-MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC
CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM

MÔN: LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG VIỆT NAM

Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491 mất năm 1585, tự Hạnh
Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ, cịn có tên khác là Nguyễn Văn Đạt,
người làng Trung An, huyện Vĩnh Lạc (nay là xã Lý học, huyện
Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng). Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh
trưởng trong một gia đình vọng tộc có học vấn, cả hai thân mẫu
đều là những người có văn tài học hạnh nên Nguyễn Bỉnh Khiêm
từ sớm đã hấp thu truyền thống gia giáo kỷ cương. Nhất là phụ
mẫu của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tương truyền bà là người giỏi
giang văn tài và tinh thông địa lý, tướng số. Ngay khi Nguyễn
Bỉnh Khiêm cất tiếng khóc chào đời, thấy con mình có tương mạc
khác thường, bà đã dốc lịng đào tạo con trai thành một tài năng
giúp nước, cứu đời. Niềm thơi thúc đó khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm
sớm tìm thấy thầy học có đạo cao đức cả là cụ bảng nhãn Dương
0


Bắc Bằng. Với trí tuệ mẫn tiệp, thơng minh từ nhỏ, lại gặp thầy
giỏi khác nào như rồng gặp mây. Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm thành
tài năng kiệt suất nổi tiếng.
Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên trong một giai đoạn lịch sử nhà
Lê suy thối, các phe phái trong triều đó kỵ, chém giết lẫn nhau.
Năm 1572 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra một triều đại
mới. Thế là suốt cuộc đời thanh niên trai trẻ Nguyễn Bỉnh Khiêm
phải sống trong ẩn dật, không thi thố được tài năng. Mãi tới năm
1535, lúc này đã 45 tuổi, ông mới đi thi. Ba lần thi hương, thi
hội, thi Đình ơng đều đỗ đầu và đỗ trạng Nguyên. Từ đấy, ông


làm quan với tân triều nhà Mạc phong chức Tả Thị Lang (chức
đứng hàng thứ ba trong Bộ Hình). Triều đình nhà Mạc rất trân
trọng Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là con người quang minh lỗi lạc: khi
gặp minh quân thì ra cứu nước dân dan, khi hồn cảnh khơng cho
phép thì lui về ẩn dật giúp đời (Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ ở triều 8
nặ, ơng đã xin về trí sĩ ở quê rồi dựng am Bạch Vân và mở đường
dạy học). Ở triều đình can đảm nói lời trung thực, khơng kể an
nguy bản thân, về quê dạy dỗ dân lành, nêu gương đạo đức, làm
quan hay dân, giàu hay nghèo vẫn một lịng thanh thản, an bình.
1


Sở dĩ được như vậy, là vì Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thấm nhuần tư
tưởng Nho giáo, đã nghiền ngẫm và hòa nhập tư tưởng đối với
truyền thống Việt, một truyền thống u chuộng hịa bình, u lễ
nghĩ, trọngu điều phải, thương đồng bào. Nhờ đó ơng có thể đứng
vững trước sóng gió thời cuộc, được dân chúng và vua chúa quan
quyền kính trọng u thương. Đến nỗi khi ơng mất (năm 1585,
thọ 94 tuổi, vủa nhà Mạc đã cho lập từ đường để thờ và đích tay
viết haonhf phi trước cổng: “Mạc Triều Trạng Nguyên Tể Tướng
Từ” dù trong cuộc đời, ông chưa bao giờ làm tể tướng.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nàh tư tưởng tiêu biểu của thế
kỷ XVI. Tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là một
khía cạnh quan trọng trong tồn bộ hệ tư tưởng của ơng. Trong
đó ta đi tìm hiểu quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm với chữ
Trung và Nhân nghĩa.
Thế kỷ XVI là thời kỳ đầy biến động của xã hội Việt Nam.
Đất nước phân chia bởi ba tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn Mạc, chiến tranh liên miên, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một đại danh nho, sinh ra trong thời bình

nhưng lớn lên trong cảnh loạn ly, trước thực trạng như vậy, ông
đã có những ứng xử và lý giải của mình.
2


Thứ nhất: Nguyễn Bỉnh Khiêm với chữ trung.
Nguyễn Bỉnh Khiêm sống trọn đời trong thế kỷ XVI - một
thế kỷ đầy biến động của một xã hội Việt Nam, nhà Lê suy vong,
các phe phái trong triều đố kỵ, chém giết lẫn nhau. Mạc Đăng
Dung - một con người người có rất nhiều cơng trạng lúc bấy giờ
đã làm cuộc đảo chính lên ngơi vua. Xem xét thời cuộc, suy
ngẫm hoàn cảnh đến tận tám năm kể từ khi nhà Mạc lên ngơi.
Ơng nói đi thi và làm quan cho họ. Quan niệm về trung xuất phát
từ thời Xuân Thu. Dân trung với vua, vua nghĩ cách làm lợi cho
dân cũng là trung. Trung có nghĩa là tận tâm, thành thật giúp
người chứ không phải nhất định chết theo vua mới là trung.
Trong tư tưởng, trong quan niệm thời Tần Hán mang dấu ấn đậm
nét trong tư tưởng các nhà Nho: Trung được hiểu là trách nhiệm
tuyệt đối của bề dưới đối với bề trên của bề tôi đối với vua.
Nguyễn Bỉnh Khiêm ra làm quan nhà Mạc với mong muốn
mang sự học của mình, đem tài trí của mình để giúp ích cho đời.
ƠNg thật có lý lúc ra giúp nước khi gặp vua hiền hơn là vào Nam
theo mấy ơng tướng như Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hồng Dụ để
phị Vua Lê trên hư vị, song đó là tranh chấp quyền hành.

3


Khổng Tử, người sáng lập ra nho giáo cũng sống trong xã
hội đại loạn nhưng song học thuyết của mình ông lại phản đối

đấu tranh dưới bất kỳ hình thức nào dù là quần chúng nghèo khổ
vùng lên hay giữa giai cấp thống trị với nhau. Còn Mạnh tử cho
rằng “Vua và chư hầu làm hại cho xã tắc thì thay đổi ông vua ấy
mà đặt ông vua khác”. Như vậy tư tưởng của Nguyễn Bỉnh
Khiêm vượt ra tư tưởng của Khổng Tử rất nhiều và tiến bộ hơn cả
so với Mạnh Tử. Ơng cho rằng khơng chỉ có hạng người “thiên
lại” mới có quyền làm cách mạng mà bất kỳ tầng lớp nhân dân
nào cũng có quyền làm như vậy. Sự loạn lạc binh đao đã làm cho
dân chúng khổ sở lầm than, nhà tan cửa nát đã tác động rất lớn
đến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Từ đó phát sinh một quan niệm quốc
gia chân chính: đất nước khơng phải là của riêng ai, hay của một
dòng họ nào, mà là của tồn dân. Tại sao cứ phải hẹp hịi với
những chư “trung quân”, “chính thống” để gây cảnh “binh đao
đầy mắt khổ chưa thôi” cho dân chúng.
Chữ trung của Nguyễn Bỉnh Khiêm khơng chỉ bó hẹp trong
triều quan hệ của vua - tơi, mà cịn gắn liền với các mối quan hệ
khác. Với ông, khái niệm trung đã được mở rộng ra rất nhiều so
với khỏi niệm trang của Nho giáo truyền thống Trung Quốc. Ông
4


nói: “Hiếu với cha, thuận giữa anh em, hịa giữa vợ chồng, tín
giữa bạn bè thì là trung vậy”. Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm chữ trung
không chỉ gắn với an “hiếu, tín” mà cịn gắn với việc giải quyết
tư lợi. “Thấy của mà không tham, thấy lợi mà không tranh, vui
điều nghĩa mà rộng lượng với người, đem lòng thành mà đối đãi
với người, đó là trung” Bên cạnh đó, chữ trung còn gắn liền với
chữ thiện. Như vậy, chữ “Trung” trong quan niệm của Nguyễn
Bỉnh Khiêm khơng chỉ bó hẹp trong quan niệm nho giáo truyền
thống, mà còn được mở rộng, đào sâu bởi các chuẩn mực giá trị

đạo đức khác như hiếu, tín, lợi. thiện…
Trong cuộc đời gần một thế kỷ của mình khi ra triều chính
hay về ở ẩn. Nguyễn Bỉnh Khiêm ln trung thành với cách nhìn
trên của ông. Mọi suy nghĩ và hành động mà ông đưa ra có thể
thâu tóm vào hai chữ trung - chính. Trung chính cũng là trung,
nghĩa là để có được trung đúng thì phải chính - chính đáng, ngay
thẳng phù hợp với sự biến động của thời thế. Ở ông trung và
chính hỗ trợ cho nhau, tạo cho ơng một phong cách sống và cao
hơn đó là một triết lý, một đạo xử thế. Có thể nói, triết lý của ông
với chữ trung là nền tảng đã dần vươn tới sự minh triết của tư
tưởng Việt Nam.
5


Thứ hai, Nguyễn Bỉnh Khiêm với quan niệm về nhân nghĩa.
Quan niệm về nhần nghĩa của Nho giáo là một trong là một
trong những quan niệm đạo đức chung chung. “Nhân” là yêu
người (“ái nhân”), “nghĩa” là điều nên làm. Nho giáo chủ trương
cùng nhân nghĩa để trị nhân. Chủ trương đó gọi là nhân trị. Trong
quan niệm về nhân trị “tu - thân” là khởi điểm. Theo đó con
người khơng sửa mình thành nhân thì càng làm việc (chính) càng
vơ ích, khơng có kết quả gì. Các nhà sáng lập Nho giáo đã thấy
được mối quan hệ giữa đạo đức của người cầm quyền với chính
trị. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng nhận ra mối quan hệ đó: “Nhà dột
ở đâu nhà dột nóc. Khi nào dột nóc có thể chon von”. Và ơng đưa
quan niệm của mình về đạo đức của người bề tren: “Quan trọng
nhất là bậc đế vương phải nêu cao nhân nghĩa. Trong chiến tranh,
nhân nghĩa được ông đề cập ở khía cạnh “đánh dẹp quân bạo tàn,
nhân ái bầy ra ở ngoài sự khống chế. Theo ông, không chỉ vua
mới có nhân nghĩa mà những người giúp việc vua cũng cần phải

“nhân nghĩa như son khi dâng tờ sớ căn ngăn vua. Chẳng vậy mà
sau tám năm làm quan, nhận thấy vua tôi nhà Mạc đã đi theo vết
xe đỏ của lịch sử, khơng lo chính sự, quyền thần tham nhũng, ông
đã làm đơn chém các lộng thần. Không được ông về ở ẩn.
6


Như vậy theo quan điểm của Nguyễn Bỉnh Khiêm khác xa
với đường lối nhân nghĩa của các nhà Nho cũ. Quan niệm của các
nhà Nho cũ là ràng buộc con người. Mục đích của nó là thơng
qua giáo hóa để củn cố và tăng cường địa vị thống trị của một
ơng vua một dịng họ. Cịn đường lối nhân nghĩa của Nguyễn
Bỉnh Khiêm là đường lối của một nhà Nho gắn bó với dân. Do
Nguyễn Bỉnh Khiêm họ sống gần dân, hịa tâm tư và tình cảm với
nhân dân, ơng đã nói lên được mong ước làm người của nhân
dân, đã thể hiện thái độ ứng xử của nhân dân thành những nguyên
tắc sống động, có lợi cho sự rèn luyện của con người. Nguyễn
Bỉnh Khiêm cũng lấy đức trị người nhưng với mục đích giáo hóa
con người, chứ khơng phải lấy hệ thống tam cương để bó buộc
con người.
Đường lối nhân nghĩa của Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể
hiện bằng chính sách chăm lo đời sống của dân, nhất là đối với
người dân nghèo … Cụ thể là đất nước phải hịa bình, triều đinh
phải cứu vớt những người nghèo khổ, nhà vua phải soi xét đến
đời sống dân nghèo, “Quân vương như hữu quang minh chúc, ủng
chiếu cùng lư bộ ốc dân” (Nếu nhà vùa có bó đuốc sáng thì nên
soi đến dân ở nơi nhà nát xóm nghèo - cảm hứng). Đó rõ ràng là
7



một đường lối chính trị yêu nước thương dân, đường lối mang tên
vương đạo ở bên ngồi, nhưng có thực chất nhân dân ở bên trong.
Đường lối đó là kế tục nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thế kỷ XV.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử của các cuộc đấu tranh dựng
nước và giữ nước. Các nhà nghiên cứu cho rằng truyền thống cơ
bản của dân tộc Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa
nhân đạo. Hai yếu tố đó ln gắn bó chặt chẽ với nhau - thương
nước tức là thương dân, thương dân tức là thương người - mà
theo quan niệm của Nho giáo, đó chính là nhân nghĩa. Điều đó
chứng tỏ răng quan niệm về nhân nghĩa của Nguyễn Bỉnh Khiêm
là sự kết tinh những yếu tố tích cực của tư tưởng nhân nghĩa
truyền thống đã có từ lâu đời ở Việt Nam. Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm
, mỗi số phận con người đều được ông chú ý. Trong tư tưởng của
ông đã xuất hiện những từ “vợ góa”, “con cơi”… mà trong Nho
giáo và ngay cả trong quan niệm của Nguyễn Trãi đều gọi chung
là dân đen.
Tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa xuất phát từ
những giáo lý của Nho giáo, vừa xuất phát từ chính yếu của cuộc
sống. Do vậy bên cạnh những đặc điểm khác với Nho giáo truyền
thống, trong tư tưởng của ơng vẫn cịn những bế tắc nhất định.
8


Chúng ta khơng thể địi hỏi ơng vượt khỏi quy định nghiêm ngặt
của lịch sử. Mặc dù vậy, những tư tưởng của ơng đã góp một
phần khơng nhỏ trong tư tưởng đạo đức truyền thống dân tộc.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một kẻ sĩ với lòng yêu nước thương
dân, cả đời bận tâm đến sự an nguy hạnh phúc của dân hơn cả
chính bản thân mình. Nguyễn Bỉnh Khiêm mãi mãi thanh khiết
như “vầng mây trắng”, nhưng lại không ở trên cao xa xôi, mà lại

luôn gần gũi bao bọc dân chúng, yêu mến quê hương. Dù ngay
trong thời gian ở ẩn, “sống chung dung ưu nhàn trên 40 năm, mà
tâm địa chưa từng ngày nào quên đời, lòng lo đời và thương
người thế tục thể hiện ra văn thơ”. Ông vẫn lo dùy trì đạo đức
cho dân, và địa tạo cho đất nước một thế hệ tương lai ưu trú. Quả
thật ông là một người “công tuy không trùn thiên hạ nhưng đức
có thể sánh với trăng sao”. Chúng ta có thể dùng chính câu thơ
của ơng để nói về ông rằng: Nguyễn Bỉnh Khiêm “Vầng Mây
Trắng” thanh cao.

Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm 1491 mất năm 1585, tự Hạnh
Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ, cịn có tên khác là Nguyễn Văn Đạt,
người làng Trung An, huyện Vĩnh Lạc (nay là xã Lý học, huyện
9


Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng). Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh
trưởng trong một gia đình vọng tộc có học vấn, cả hai thân mẫu
đều là những người có văn tài học hạnh nên Nguyễn Bỉnh Khiêm
từ sớm đã hấp thu truyền thống gia giáo kỷ cương. Nhất là phụ
mẫu của Nguyễn Bỉnh Khiêm, tương truyền bà là người giỏi
giang văn tài và tinh thông địa lý, tướng số. Ngay khi Nguyễn
Bỉnh Khiêm cất tiếng khóc chào đời, thấy con mình có tương mạc
khác thường, bà đã dốc lòng đào tạo con trai thành một tài năng
giúp nước, cứu đời. Niềm thôi thúc đó khiến Nguyễn Bỉnh Khiêm
sớm tìm thấy thầy học có đạo cao đức cả là cụ bảng nhãn Dương
Bắc Bằng. Với trí tuệ mẫn tiệp, thơng minh từ nhỏ, lại gặp thầy
giỏi khác nào như rồng gặp mây. Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm thành
tài năng kiệt suất nổi tiếng.
Nguyễn Bỉnh Khiêm lớn lên trong một giai đoạn lịch sử nhà

Lê suy thối, các phe phái trong triều đó kỵ, chém giết lẫn nhau.
Năm 1572 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê lập ra một triều đại
mới. Thế là suốt cuộc đời thanh niên trai trẻ Nguyễn Bỉnh Khiêm
phải sống trong ẩn dật, không thi thố được tài năng. Mãi tới năm
1535, lúc này đã 45 tuổi, ông mới đi thi. Ba lần thi hương, thi
hội, thi Đình ơng đều đỗ đầu và đỗ trạng Nguyên. Từ đấy, ông
10


làm quan với tân triều nhà Mạc phong chức Tả Thị Lang (chức
đứng hàng thứ ba trong Bộ Hình). Triều đình nhà Mạc rất trân
trọng Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là con người quang minh lỗi lạc: khi
gặp minh quân thì ra cứu nước dân dan, khi hồn cảnh khơng cho
phép thì lui về ẩn dật giúp đời (Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ ở triều 8
nặ, ơng đã xin về trí sĩ ở quê rồi dựng am Bạch Vân và mở đường
dạy học). Ở triều đình can đảm nói lời trung thực, không kể an
nguy bản thân, về quê dạy dỗ dân lành, nêu gương đạo đức, làm
quan hay dân, giàu hay nghèo vẫn một lịng thanh thản, an bình.
Sở dĩ được như vậy, là vì Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thấm nhuần tư
tưởng Nho giáo, đã nghiền ngẫm và hòa nhập tư tưởng đối với
truyền thống Việt, một truyền thống yêu chuộng hịa bình, u lễ
nghĩ, trọngu điều phải, thương đồng bào. Nhờ đó ơng có thể đứng
vững trước sóng gió thời cuộc, được dân chúng và vua chúa quan
quyền kính trọng yêu thương. Đến nỗi khi ông mất (năm 1585,
thọ 94 tuổi, vủa nhà Mạc đã cho lập từ đường để thờ và đích tay
viết haonhf phi trước cổng: “Mạc Triều Trạng Nguyên Tể Tướng
Từ” dù trong cuộc đời, ông chưa bao giờ làm tể tướng.

11



Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nàh tư tưởng tiêu biểu của thế
kỷ XVI. Tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng là một
khía cạnh quan trọng trong tồn bộ hệ tư tưởng của ơng. Trong
đó ta đi tìm hiểu quan niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm với chữ
Trung và Nhân nghĩa.
Thế kỷ XVI là thời kỳ đầy biến động của xã hội Việt Nam.
Đất nước phân chia bởi ba tập đoàn phong kiến Trịnh - Nguyễn Mạc, chiến tranh liên miên, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một đại danh nho, sinh ra trong thời bình
nhưng lớn lên trong cảnh loạn ly, trước thực trạng như vậy, ơng
đã có những ứng xử và lý giải của mình.
Thứ nhất: Nguyễn Bỉnh Khiêm với chữ trung.
Nguyễn Bỉnh Khiêm sống trọn đời trong thế kỷ XVI - một
thế kỷ đầy biến động của một xã hội Việt Nam, nhà Lê suy vong,
các phe phái trong triều đố kỵ, chém giết lẫn nhau. Mạc Đăng
Dung - một con người người có rất nhiều cơng trạng lúc bấy giờ
đã làm cuộc đảo chính lên ngơi vua. Xem xét thời cuộc, suy
ngẫm hoàn cảnh đến tận tám năm kể từ khi nhà Mạc lên ngơi.
Ơng nói đi thi và làm quan cho họ. Quan niệm về trung xuất phát
từ thời Xuân Thu. Dân trung với vua, vua nghĩ cách làm lợi cho
12


dân cũng là trung. Trung có nghĩa là tận tâm, thành thật giúp
người chứ không phải nhất định chết theo vua mới là trung.
Trong tư tưởng, trong quan niệm thời Tần Hán mang dấu ấn đậm
nét trong tư tưởng các nhà Nho: Trung được hiểu là trách nhiệm
tuyệt đối của bề dưới đối với bề trên của bề tôi đối với vua.
Nguyễn Bỉnh Khiêm ra làm quan nhà Mạc với mong muốn

mang sự học của mình, đem tài trí của mình để giúp ích cho đời.
ƠNg thật có lý lúc ra giúp nước khi gặp vua hiền hơn là vào Nam
theo mấy ơng tướng như Trịnh Duy Sản, Nguyễn Hồng Dụ để
phị Vua Lê trên hư vị, song đó là tranh chấp quyền hành.
Khổng Tử, người sáng lập ra nho giáo cũng sống trong xã
hội đại loạn nhưng song học thuyết của mình ơng lại phản đối
đấu tranh dưới bất kỳ hình thức nào dù là quần chúng nghèo khổ
vùng lên hay giữa giai cấp thống trị với nhau. Còn Mạnh tử cho
rằng “Vua và chư hầu làm hại cho xã tắc thì thay đổi ơng vua ấy
mà đặt ơng vua khác”. Như vậy tư tưởng của Nguyễn Bỉnh
Khiêm vượt ra tư tưởng của Khổng Tử rất nhiều và tiến bộ hơn cả
so với Mạnh Tử. Ơng cho rằng khơng chỉ có hạng người “thiên
lại” mới có quyền làm cách mạng mà bất kỳ tầng lớp nhân dân
nào cũng có quyền làm như vậy. Sự loạn lạc binh đao đã làm cho
13


dân chúng khổ sở lầm than, nhà tan cửa nát đã tác động rất lớn
đến Nguyễn Bỉnh Khiêm. Từ đó phát sinh một quan niệm quốc
gia chân chính: đất nước khơng phải là của riêng ai, hay của một
dịng họ nào, mà là của toàn dân. Tại sao cứ phải hẹp hịi với
những chư “trung qn”, “chính thống” để gây cảnh “binh đao
đầy mắt khổ chưa thôi” cho dân chúng.
Chữ trung của Nguyễn Bỉnh Khiêm khơng chỉ bó hẹp trong
triều quan hệ của vua - tơi, mà cịn gắn liền với các mối quan hệ
khác. Với ông, khái niệm trung đã được mở rộng ra rất nhiều so
với khỏi niệm trang của Nho giáo truyền thống Trung Quốc. Ơng
nói: “Hiếu với cha, thuận giữa anh em, hòa giữa vợ chồng, tín
giữa bạn bè thì là trung vậy”. Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm chữ trung
khơng chỉ gắn với an “hiếu, tín” mà còn gắn với việc giải quyết

tư lợi. “Thấy của mà không tham, thấy lợi mà không tranh, vui
điều nghĩa mà rộng lượng với người, đem lòng thành mà đối đãi
với người, đó là trung” Bên cạnh đó, chữ trung cịn gắn liền với
chữ thiện. Như vậy, chữ “Trung” trong quan niệm của Nguyễn
Bỉnh Khiêm khơng chỉ bó hẹp trong quan niệm nho giáo truyền
thống, mà còn được mở rộng, đào sâu bởi các chuẩn mực giá trị
đạo đức khác như hiếu, tín, lợi. thiện…
14


Trong cuộc đời gần một thế kỷ của mình khi ra triều chính
hay về ở ẩn. Nguyễn Bỉnh Khiêm ln trung thành với cách nhìn
trên của ơng. Mọi suy nghĩ và hành động mà ơng đưa ra có thể
thâu tóm vào hai chữ trung - chính. Trung chính cũng là trung,
nghĩa là để có được trung đúng thì phải chính - chính đáng, ngay
thẳng phù hợp với sự biến động của thời thế. Ở ơng trung và
chính hỗ trợ cho nhau, tạo cho ông một phong cách sống và cao
hơn đó là một triết lý, một đạo xử thế. Có thể nói, triết lý của ơng
với chữ trung là nền tảng đã dần vươn tới sự minh triết của tư
tưởng Việt Nam.
Thứ hai, Nguyễn Bỉnh Khiêm với quan niệm về nhân nghĩa.
Quan niệm về nhần nghĩa của Nho giáo là một trong là một
trong những quan niệm đạo đức chung chung. “Nhân” là yêu
người (“ái nhân”), “nghĩa” là điều nên làm. Nho giáo chủ trương
cùng nhân nghĩa để trị nhân. Chủ trương đó gọi là nhân trị. Trong
quan niệm về nhân trị “tu - thân” là khởi điểm. Theo đó con
người khơng sửa mình thành nhân thì càng làm việc (chính) càng
vơ ích, khơng có kết quả gì. Các nhà sáng lập Nho giáo đã thấy
được mối quan hệ giữa đạo đức của người cầm quyền với chính
trị. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng nhận ra mối quan hệ đó: “Nhà dột

15


ở đâu nhà dột nóc. Khi nào dột nóc có thể chon von”. Và ơng đưa
quan niệm của mình về đạo đức của người bề tren: “Quan trọng
nhất là bậc đế vương phải nêu cao nhân nghĩa. Trong chiến tranh,
nhân nghĩa được ơng đề cập ở khía cạnh “đánh dẹp quân bạo tàn,
nhân ái bầy ra ở ngoài sự khống chế. Theo ơng, khơng chỉ vua
mới có nhân nghĩa mà những người giúp việc vua cũng cần phải
“nhân nghĩa như son khi dâng tờ sớ căn ngăn vua. Chẳng vậy mà
sau tám năm làm quan, nhận thấy vua tôi nhà Mạc đã đi theo vết
xe đỏ của lịch sử, không lo chính sự, quyền thần tham nhũng, ơng
đã làm đơn chém các lộng thần. Không được ông về ở ẩn.
Như vậy theo quan điểm của Nguyễn Bỉnh Khiêm khác xa
với đường lối nhân nghĩa của các nhà Nho cũ. Quan niệm của các
nhà Nho cũ là ràng buộc con người. Mục đích của nó là thơng
qua giáo hóa để củn cố và tăng cường địa vị thống trị của một
ông vua một dòng họ. Còn đường lối nhân nghĩa của Nguyễn
Bỉnh Khiêm là đường lối của một nhà Nho gắn bó với dân. Do
Nguyễn Bỉnh Khiêm họ sống gần dân, hịa tâm tư và tình cảm với
nhân dân, ơng đã nói lên được mong ước làm người của nhân
dân, đã thể hiện thái độ ứng xử của nhân dân thành những nguyên
tắc sống động, có lợi cho sự rèn luyện của con người. Nguyễn
16


Bỉnh Khiêm cũng lấy đức trị người nhưng với mục đích giáo hóa
con người, chứ khơng phải lấy hệ thống tam cương để bó buộc
con người.
Đường lối nhân nghĩa của Nguyễn Bỉnh Khiêm được thể

hiện bằng chính sách chăm lo đời sống của dân, nhất là đối với
người dân nghèo … Cụ thể là đất nước phải hịa bình, triều đinh
phải cứu vớt những người nghèo khổ, nhà vua phải soi xét đến
đời sống dân nghèo, “Quân vương như hữu quang minh chúc, ủng
chiếu cùng lư bộ ốc dân” (Nếu nhà vùa có bó đuốc sáng thì nên
soi đến dân ở nơi nhà nát xóm nghèo - cảm hứng). Đó rõ ràng là
một đường lối chính trị yêu nước thương dân, đường lối mang tên
vương đạo ở bên ngoài, nhưng có thực chất nhân dân ở bên trong.
Đường lối đó là kế tục nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thế kỷ XV.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử của các cuộc đấu tranh dựng
nước và giữ nước. Các nhà nghiên cứu cho rằng truyền thống cơ
bản của dân tộc Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa
nhân đạo. Hai yếu tố đó ln gắn bó chặt chẽ với nhau - thương
nước tức là thương dân, thương dân tức là thương người - mà
theo quan niệm của Nho giáo, đó chính là nhân nghĩa. Điều đó
chứng tỏ răng quan niệm về nhân nghĩa của Nguyễn Bỉnh Khiêm
17


là sự kết tinh những yếu tố tích cực của tư tưởng nhân nghĩa
truyền thống đã có từ lâu đời ở Việt Nam. Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm
, mỗi số phận con người đều được ông chú ý. Trong tư tưởng của
ơng đã xuất hiện những từ “vợ góa”, “con cơi”… mà trong Nho
giáo và ngay cả trong quan niệm của Nguyễn Trãi đều gọi chung
là dân đen.
Tư tưởng đạo đức của Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa xuất phát từ
những giáo lý của Nho giáo, vừa xuất phát từ chính yếu của cuộc
sống. Do vậy bên cạnh những đặc điểm khác với Nho giáo truyền
thống, trong tư tưởng của ơng vẫn cịn những bế tắc nhất định.
Chúng ta khơng thể địi hỏi ông vượt khỏi quy định nghiêm ngặt

của lịch sử. Mặc dù vậy, những tư tưởng của ơng đã góp một
phần không nhỏ trong tư tưởng đạo đức truyền thống dân tộc.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một kẻ sĩ với lòng yêu nước thương
dân, cả đời bận tâm đến sự an nguy hạnh phúc của dân hơn cả
chính bản thân mình. Nguyễn Bỉnh Khiêm mãi mãi thanh khiết
như “vầng mây trắng”, nhưng lại không ở trên cao xa xôi, mà lại
luôn gần gũi bao bọc dân chúng, yêu mến quê hương. Dù ngay
trong thời gian ở ẩn, “sống chung dung ưu nhàn trên 40 năm, mà
tâm địa chưa từng ngày nào quên đời, lòng lo đời và thương
18


người thế tục thể hiện ra văn thơ”. Ông vẫn lo dùy trì đạo đức
cho dân, và địa tạo cho đất nước một thế hệ tương lai ưu trú. Quả
thật ông là một người “công tuy không trùn thiên hạ nhưng đức
có thể sánh với trăng sao”. Chúng ta có thể dùng chính câu thơ
của ơng để nói

19



×