Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Tiểu luận luật đât đai về hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.37 KB, 54 trang )

BỘ TƯ PHÁP
ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

MÔN HỌC:
PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI MÔI TRƯỜNG
ĐỀ TÀI:
HỆ THỐNG CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI

Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
Mã sinh viên:
Lớp:

Hà Nội, Tháng 3/2022


2

Mục lục


3

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, nó khơng chỉ là tư liệu sản
xuất đặc biệt mà cịn là thành phần quan trọng khơng thể thiếu của môi trường sống, là địa
bàn phân bổ khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc
phịng, có vai trị cực kỳ quan trọng đối với đời sống kinh tế - xã hội loài người. Ngày nay,
khi xã hội ngày càng phát triển mạnh mẽ theo hướng cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa, sức
ép dân số , sự chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang công nghiệp dịch vụ kéo theo nhu


cầu sử dụng đất ngày một tăng cao, cung khơng đủ cầu. Bởi vậy, trong q trình sử dụng
đất, chúng ta cần phải khai thác, bảo vệ và cải tạo đất cho phù hợp, đáp ứng kịp thời nhu
cầu phát triển nhanh chóng của xã hội. khắc phục những vấn đề về ô nhiễm, quá tải dân số,
… Và để làm được điều đó thì cơng tác quản lý đất đai là rất cần thiết, nó địi hỏi phải có
sự thống nhất trong bộ máy quản lý từ trung ương đến địa phương, đặc biệt là hệ thống cơ
quan quản lý về đất đai phải luôn không ngừng củng cổ và cải thiện để sớm hoàn thành
nhiệm vụ đưa công tác quản lý đất đai đi vào nề nếp.
Song, việc cải thiện bộ máy quản lý đất đai như thế nào cho phù hợp khi vẫn còn nhiều hạn
chế như tình trạng chồng chéo trong quản lý, nạn than nhũng, tham ô, những dự án bỏ
hoang, chung cư ma,… vẫn ngày ngày hiện hữu mà sâu xa chính là việc xây dựng hệ thống
quản lý đất đai còn cồng kềnh, chưa sát sao trong hoạt động. Cho nên, việc nghiên cứu,
đánh giá để khơng ngừng hồn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai là điều kiện cần thiết
để đáp ứng cơng nghiệp hóa ,hiện đại hóa, theo kịp thời đại; đồng thời đưa ra những giải
pháp phù hợp nhằm nâng cao năng lực trong hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta
hiện nay.


4
2. Mục đích nghiên cứu
-

Nghiên cứu cơ sở lý luận và sự cần thiết của việc thành lập hệ thống cơ quan quản
lý đất đai ở nước ta; khái quát quá trình hình thành và phát triển trong các giai đoạn
lịch sử phát triển của đất nước.

-

Nghiên cứu đánh giá pháp luật hiện hành về cơ cấu, tổ chức; chức năng, nhiệm vụ
và quyền hạn của hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta.


-

Đánh giá hiệu quả thực trạng hoạt động của hệ thống nhằm chỉ ra tồn tại, hạn chế,
nguyên nhân xuất hiện tồn tại hạn chế đó.

-

Đề xuất một số giải pháp góp phần hồn thiện hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở
nước ta.

3. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta:
-

Hệ thống cơ quan quản lý đất đai có thẩm quyền chung: Chính phủ, UBND cấp
tỉnh, UBND cấp huyện và UBND cấp xã

-

Hệ thống cơ quan quản lý đất đai có thẩm quyền riêng (cịn gọi là hệ thống cơ quan
quản lý có thẩm quyền chuyên ngành): Bộ Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài
nguyên và Mơi trường, Phịng Tài ngun và Mơi trường và cán bộ địa chính cấp
xã, phường, thị trấn.

4. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết vận dụng quan điểm nghiên cứu khoa học của chủ nghĩa Mác- Leeenin; quan
điểm lý luận, đường lối của Đảng; tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước, pháp


5

quyền trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế Quốc tế. Đồng thời sử
dụng các phương pháp cụ thể như: phân tích, đánh giá, bình luận, phương pháp tổng
hợp, so sánh luật học,… trong quá trình nghiên cứu đề tài.

5. Dự kiến kết cấu của đề tài
Bố cục bài viết gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó
phần nội dung chia thành 4 chương:
Chương I: Tổng quan những vấn đề lý luận về hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở
nước ta.
Chương II: Hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta.
Chương III: Thực trạng hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý đất đai ở nước ta
Chương IV: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực và hoàn thiện hệ thống cơ
quan quản lý đất đai ở nước ta hiện nay.

CHƯƠNG I TỔNG QUAN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỆ THỐNG CƠ
QUAN QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI Ở NƯỚC TA
1. Sự cần thiết của việc Nhà nước quản lý đất đai
1.1 Vị trí và vai trò của đất đai với con người
Đất đai về mặt thuật ngữ khoa học được hiểu theo nghĩa rộng: “đất đai là một diện
tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các cấu thành của môi trường sinh thái
ngay trên vỏ dưới bề mặt đó bao gồm: khí hậu, bề mặt, thổ nhưỡng, dáng địa hình,
mặt nước (hồ, sơng, suối, đầm lầy,…). Các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước
ngầm và khống sản trong lịng đất, tập đồn thực vật và động vật, trạng thái định cư
của con người, những kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại để lại (san


6
nền, hồ chứa nước hay hệ thống tiêu thoát nước, đường xá, nhà cửa. ..)”. Như vậy,
“đất đai” là khoảng khơng gian có giới hạn, theo chiều thẳng đứng , theo chiều nằm
ngang trên mặt đất giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động sản

xuất cũng như cuộc sống của xã hội loài người. Cùng với quá trình lịch sử kinh tế-xã
hội, đất đai là điều kiện lao động, đất đai đóng vai trò quyết định cho sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người.
Đất là một tài nguyên thiên nhiên quý giá của mỗi quốc gia và nó cũng là yếu tố
mang tính quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và các sinh vật khác trên
trái đất. Các Mác viết: “Đất đai là tài sản mãi mãi với loài người, là điều kiện để sinh
tồn, là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư liệu sản xuất cơ bản trong
nông, lâm nghiệp”. Bởi vậy, nếu khơng có đất đai thì khơng có bất kỳ một ngành sản
xuất nào, con người không thể tiến hành sản xuất ra của cải vật chất để duy trì cuộc
sống và duy trì nịi giống đến ngày nay. Tuy nhiên, đất đai có những đặc trưng rất
riêng khơng giống với các tư liệu sản xuất khác:
Thứ nhất, đất đai không do con người làm ra mà do tự nhiên tạo ra, có trước con
người và bị giới hạn bởi diện tích, khơng gian, bị cố định về vị trí địa lý. Trải qua
một q trình lịch sử lâu dài, con người chiếm hữu đất đai biến chúng từ một sản vật
tự nhiên thành tài sản của cộng động, của quốc gia; cứ như vậy đi cùng nhu cầu sử
dụng đất ngày càng tăng, đất đai cũng trở nên khan hiếm và có giá trị cao.
Thứ hai, cũng giống như bất kỳ tư liệu sản xuất khác, đất đai cũng có độ khấu hao.
Độ khấu hao của đất được chuyển hóa thành giá thành sản phẩm qua mỗi chu kỳ sử
dụng. Song khác với các tư liệu đó, đất đai không bao giờ mất hết độ khấu hao nếu
con người biết cách cải tạo, bồi bổ đất đai sau mỗi chu kỳ sử dụng.
Thứ ba, do giá trị ngày càng cao, có tính bền vững và ổn định về vị trí địa lý nên đất
đai trở thành tài sản bảo đảm trong các quan hệ thế chấp, bảo lãnh vay vốn và được


7
dùng làm vốn góp liên doanh, liên kết trong hoạt động kinh tế, thậm chí cịn trở
thành di sản thừa kế, của hồi môn,…
Thứ tư, đất đai không những liên quan đến lợi ích của cá nhân trong xã hội mà cịn
liên quan đến lợi ích của Nhà nước, là một thành tố quan trọng hàng đầu của môi
trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây dựng cơ sở kinh tế, văn hóa, xã

hội, chính trị, an ninh quốc phòng nên việc sử dụng đất phải tuân thủ nghiêm ngặt
các quy tắc chung do Nhà nước đặt ra.

Khác với các quốc gia trên thế giới đất đai thuộc quyền sở hữu khá nhau như tư
nhân, Nhà nước tập thể,…tại Việt Nam, theo điều 53 Hiến pháp 2013: “Đất đai, tài
nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên
thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản cơng thuộc
sở hữu tồn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Đất đai là
lãnh thổ thiêng liêng của quốc gia, là tư liệu sản xuất chủ yếu, nguồn lực quan trọng
để phát triển đất nước. Vì vật, theo quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta đã được xác định từ năm 1980 đến nay là đất đai thuộc sở hữu toàn dân,
do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý thì việc khai thác, sử dụng
đất đai mới bảo đảm hiệu quả cao, nhằm phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã
hội, củng cố quốc phòng, an ninh của đất nước. Quy định này xuất phát từ nhu cầu
nội tại của việc đoàn kết sức mạnh toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh chống ngoại
xâm, giành và giữ nền độc lập, đồng thời việc xác định và tuyên bố đất đai thuộc
quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý còn mang ý nghĩa khẳng
định chủ quyền, tính độc lập và tồn vẹn lãnh thổ quốc gia.


8
Việc quy định đất đai là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện
chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của Hiến pháp là cần thiết và đúng
đắn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nước ta hiện nay, bảo đảm sự thống nhất lợi
ích của người dân và lợi ích quốc gia. Bởi vật mà đất đai ln địi hỏi phải có sự
quản lý chặt chẽ, thống nhất, sát sao và đồng bộ nhằm bảo đảm sử dụng đất đúng
mục đích, tiết kiệm và mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.

1.2 Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc Nhà nước quản lý đất đai


Luật đất đai 2013 đã quy định rõ tại Điều 4 Sở hữu đất đai: “Đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao
quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này”. Vai trò đại
diện chủ sở hữu đất đai được thực hiện bằng việc Nhà nước thực hiện quyền điều
tiết các nguồn lợi từ đất đai thơng qua chính sách tài chính về đất đai; trao quyền
SDĐ cho người SDĐ thơng qua hình thức giao đất, cho thuê đất, công nhận QSDĐ
đối với người SDĐ ổn định, quy định quyền và nghĩa vụ của người SDĐ,… theo các
Điều 5-8 của Bộ luật này.
Có thể nói, việc Nhà nước quản lý tồn bộ vốn đất đai dựa trên những cơ sở lý luận
và thực tiễn sau:
Thứ nhất, xét về bản chất chính trị, Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước do
nhân dân lao động lập nên, đại diện cho ý chí, nguyện vọng, quyền và lợi ích của
nhân dân; do dân vì dân, lợi ích của Nhà nước đồng nhất với lợi ích của nhân dân.
Mặt khác, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, để quản lý toàn bộ vốn đất đai ( ~327.480
km²), nhân dân với tư cách cộng đồng xã hội không thể tự mình đứng ra thực hiện
các nội dung cụ thể của hoạt động quản lý đất đai mà phải cử người thay mặt mình


9
thực hiện nhiệm vụ này và đó chính là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Thứ hai, Nhà nước ra đời là một tổ chức chính trị do xã hội lập nên với chức năng cơ
bản là thay mặt xã hội quản lý, điều phối, đồng bộ mọi hoạt động của con người theo
một quỹ đạo chung đảm bảo sự vận động và phát triển của xã hội khơng rơi vào tình
trạng rối loạn, vơ tổ chức. Đất đai có vị trí quan trọng đối với tồn xã hội, là nguồn
sống vì thế nó khơng thể khơng chịu sự quản lý của Nhà nước nhằm dung hịa lợi
ích chung giữa cá nhân và cá nhân, cá nhân và cộng đồng trong quá trình SDĐ.
Thứ ba, Nhà nước là tổ chức chính trị - quyền lực được nhân dân trao quyền công
quản lý xã hội. Để thực hiện chức năng của mình, nhà nước có quyền đề ra các biện
pháp thu thuế, ban hành pháp luật,… nhằm đảo bảo tính nghiêm chỉnh của pháp luật.

Do đó phương thức quản lý Nhà nước là cách hiệu quả nhất để quản lý đất đai.
Thứ tư, ngoài các khu vực kinh tế phát triển vẫn tồn tại diện tích đất tự nhiên chưa
sử dụng tập trung ở các vùng nú, vùng sâu vùng xa – đây là những vùng địa lý đất
đai khơ cằn, chậm phát triển nhất cả nước. Vì vậy việc tìm và sử dụng chúng vào
đúng mục đích tạo sự thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, kéo ngắn khoảng cách giàu
nghèo cần một nguồn vốn rất lớn mà ngồi Nhà nước khơng có tổ chức, cá nhân nào
có điều kiện thực hiện được.
Thứ năm, đối với một nước nơng nghiệp có khoảng 80% dân số nơng nghiệp như
Việt Nam, “đất chật người đơng”, diện tích đất canh tác bình quân đầu người vào
loại thấp trên thế giới trong khi sự phát triển dân số tỉ lệ nghịch ngày càng cao, việc
quản lý chặt chẽ, khai thác sử dụng hiệu quả đất thì khơng thể thiếu sự quản lý của
Nhà nước. Đặc biệt là để xây dựng và củng cố quyền lực nhà nước trung ương tập
quyền thì việc nắm và quản lý tồn bộ đất đai nói chung là điều kiện cần thiết và cấp
bách.


10

1.3 Khái niệm quản lý nhà nước về đất đai
1.3.1 Khái niệm
Theo từ điển, quản lý nhà nước: “Quản lý nhà nước là hoạt động thực thi quyền lực
nhà nước do các cơ quan nhà nước thực hiện nhằm xác lập một trật tự ổn định, phát
triển xã hội theo những mục tiêu mà tầng lớp cầm quyền theo đuổi.”
“Quản lý Nhà nước theo nghĩa rộng là bao gồm toàn bộ hoạt động của cả bộ máy
nhà nước từ lập pháp, hành pháp đến tư pháp vận hành như một thực thể thống
nhất.”
“Quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp là chấp hành, điều hành, quản lý hành chính do
cơ quan hành pháp thực hiện đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.”
Trên cơ sở khái niệm về quản lý nhà nước nói chung, ta có khái niệm quản lý đất đai
và quản lý nhà nước đối với đất đai như sau:

“Quản lý đất đai là hoạt động thiết lập các cơ chế, chính sách, các cơng cụ quản lý,
biện pháp quản lý và việc vận hành cơ chế đó nhằm quản lý, sử dụng đất hợp lý, tiết
kiệm và đạt hiệu quả kinh tế cao”
“ Quản lý nhà nước đối với đất đai là tổng hợp các hoạt động của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để thực hiện và bảo vệ quyền sở hữu nhà nước về đất đai.”
Nội dung quản lý nhà nước về đất đai được quy định tại Điều 22 Bộ luật Đất đai và
Môi trường năm 2013.
1.3.2 Đặc điểm của quản lý nhà nước về đất đai


11
-

Nhà nước thống nhất quản lý NN về đất đai từ trung ương đén địa phương đảm bảo
đất đai sử dụng đúng pháp luật, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nhằm khai thác và
sử dụng đất ổn định, lâu dài thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về đất đai.

-

Nhà nước đóng vai trị chính trong việc hình thành chính sách đất đai và các ngun
tắc của hệ thống quản lý nhà nước về đất đai, bao gồm pháp luật đất đai và pháp
luật liên quan đến đất đai. Nhà nước quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan nhà nước: Chính phủ, Hội đồng nhân dân, UBND các cấp trong quản lý nhà
nước về đất đai trên cả nước cũng như tại địa phương.

1.3.3 Các nguyên tắc của quản lý nhà nước đối với đất đai
Nguyên tắc quản lý nhà nước về đất đai là các quy tắc xử sự chung, những tiêu chuẩn
hành vi mà các cơ quan quản lý nhà nước và các chủ sử dụng đất phải tuân thủ trong
quá trình quản lý và sử dụng. Quản lý nhà nước về đất đai có các ngun tắc sau: a)
Cơng khai minh bạch

Đất đai là tài nguyên của quốc gia, là tài sản chung của tồn dân. Vì vậy, khơng thể có
bất kỳ một cá nhân hay một nhóm người nào chiếm đoạt tài sản chung thành tài sản
riêng của mình được. Chỉ có Nhà nước - chủ thể duy nhất đại diện hợp pháp cho tồn
dân mới có tồn quyền trong việc quyết định số phận pháp lý của đất đai, thể hiện sự
tập trung quyền lực và thống nhất của Nhà nước trong quản lý nói chung và trong lĩnh
vực đất đai nói riêng.
Vấn đề này được quy định tại Điều 54, Hiến pháp 2013 “Nhà nước thống nhất quản
lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và
có hiệu quả” và được cụ thể hơn tại Điều 4, Luật Đất đai 2013 “Đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước trao
quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này”. Tuy nhiên, sự


12
tập trung và thống nhất quản lý nhà nước về đất đai cũng phải đảm bảo tính cơng khai
minh bạch bằng việc công khai thông tin đất đai, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
trên cổng thông tin điện tử của các cơ quan có thẩm quyền quản lý.
b) Đảm bảo quyền lợi ích của chủ thể sử dụng đất
Từ khi Hiến pháp 1980 ra đời quyền sở hữu đất đai ở nước ta chỉ nằm trong tay Nhà
nước còn quyền sử dụng đất đai vừa có ở Nhà nước, vừa có ở trong từng chủ sử dụng
cụ thể.
Nhà nước không trực tiếp sử dụng đất đai mà thực hiện quyền sử dụng đất đai thông
qua việc thu thuế, thu tiền sử dụng... từ những chủ thể trực tiếp sử dụng đất đai. Vì
vậy, để sử dụng đất đai có hiệu quả Nhà nước phải giao đất cho các chủ thể trực tiếp
sử dụng và phải quy định một hành lang pháp lý cho phù hợp để vừa đảm bảo lợi ích
cho người trực tiếp sử dụng, vừa đảm bảo lợi ích của Nhà nước.
Vấn đề này được thể hiện ở Điều 5, Luật Đất đai 2013 “Người sử dụng đất được Nhà
nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển quyền sử
dụng đất theo quy định của Luật này…”. Như vậy, theo quy định trên, đất đai thuộc
sở hữu toàn dân, Nhà nước với tư cách đại diện chủ sỡ hữu và thống nhất quản lý sẽ

trao quyền sử dụng đất cho các chủ thể sử dụng đất (người sử dụng đất) dưới các hình
thức Nhà nước giao đất, cho th đất, cơng nhận quyền sử dụng đất, nhận chuyển
quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai năm 2013. Muốn đảm bảo kết tốt
quyền sở hữu toàn dân và quyền từng ngườisử dụng phải có cơ chế kết hợp, trong đó,
quyền và trách nhiệm của các bên (Nhà nước và người sử dụng) phải được cơng nhận
và thể chế hóa bằng các văn bản pháp luật. c) Đảm bảo yêu cầu kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế
Nhà nước ta đã tham gia vào các tổ chức kinh tế thế giới để đảm bảo nhu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế trong thời gian tới nhà nước cần phải có các nguyên tắc quản lý đất đai


13
đảm bảo yêu cầu kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Xây dựng các phương án quy
hoạch, kế hoạch sử dụng đất, có tính khả thi cao. Quản lý và giám sát tốt việc thực
hiện các phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Có như vậy, quản lý nhà nước
về đất đai mới phục vụ tốt cho chiến lược phát triển kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế mà vẫn đạt được mục đích đề ra.
Xuất phát từ vai trị vị trí của đất đai đối với sự sống và phát triển của xã hội lồi
người nói chung, phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia nói riêng, mà đất đai địi
hỏi phải có sự quản lý của nhà nước. Đất đai là tài sản quốc gia thể hiện quyền lãnh
thổ của quốc gia đó. Vì vậy, cần thiết có sự quản lý Nhà nước về đất đai.
Ngoài các yếu tố trên trong điều kiện hiện nay khi chuyển sang nền kinh tế thị trường,
những yếu tố thị trường, trong đó có sự hình thành và phát triển của thị trường bất
động sản. Đất đai và nhà ở là nhu cầu vật chất thiết yếu của con người, là những yếu
tố quan trọng bậc nhất cấu thành thị trường bất động sản. Hiện nay, thị trường hàng
hoá, dịch vụ phát triển nhanh nhưng còn mang nhiều yếu tố tự phát, thiếu định hướng,
thị trường bất động sản, thị trường sức lao động chưa có thể chế rõ ràng, phát triển
cịn chậm chạp, tự phát, thị trường vốn và cơng nghệ cịn yếu kém. Do vậy, việc hình
thành đồng bộ các loại thị trường nói chung và hình thành, phát triển thị trường bất
động sản nói riêng tạo động lực phát triển cho nền kinh tế. Tăng cường năng lực và

hiệu quả QLNN đối với đất đai được bắt nguồn từ nhu cầu khách quan của việc sử
dụng có hiệu quả tài nguyên đất đáp ứng nhu cầu đời sống của xã hội, do tính định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta quy định. Khi tham gia vào nền kinh tế thị trường,
đất đai có sự thay đổi căn bản về bản chất kinh tế - xã hội: Từ chỗ là tư liệu sản xuất,
là điều kiện sống chuyển sang là tư liệu sản xuất chứa đựng yếu tố sản xuất hàng hoá,
phương diện kinh tế của đất trở thành yếu tố chủ đạo quy định sự vận động của đất
đai theo hướng ngày càng nâng cao hiệu quả. Chính vì vậy, việc quản lý nhà nước về
đất đai là hết sức cần thiết nhằm phát huy những yêu cầu của kinh tế thị trường, hội


14
nhập quốc tế và hạn chế những khuyết tật của thị trường khi sử dụng đất đai, ngoài ra
cũng làm tăng tính pháp lý của đất đai.
2. Lịch sử hình thành và phát triển hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra một kỷ nguyên mới của
nước Việt Nam, kỷ nguyên dân tộc độc lập, dân quyền và dân chủ. Đến nay, trải qua 73
năm xây dựng và phát triển, ngành Quản lý đất đai Việt Nam đã trải qua nhiều giai
đoạn lịch sử khác nhau và ở mỗi giai đoạn, Ngành đều có những đóng góp to lớn cho
sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, có thể tóm tắt như sau:
❖ Giai đoạn 1945 – 1959
Sau khi nước nhà giành được độc lập, Chủ tịch nước đã ban hành Sắc lệnh số 41 ngày
03/10/1945 tiếp nhận Sở Trước bạ - Văn tự - Quản thủ điền thổ và Thuế Trực thu của
Phủ Toàn quyền Đơng Dương về trực thuộc Bộ Tài chính. Năm 1946, cơ quan này
được đổi tên thành Nha Trước bạ, Công sản và Điền thổ theo Sắc lệnh số 75 ngày
29/5/1946 của Chủ tịch nước, với hệ thống các đơn vị trực thuộc ở 3 cấp tỉnh, huyện,
xã nhằm duy trì, bảo vệ chế độ sở hữu ruộng đất và thu thuế điền thổ. Song song với
hoạt động của Nha Trước bạ,
Cơng sản, Điền thổ cịn có Nha Địa chính. Năm 1947, Nha Địa chính được sáp nhập
vào Bộ Canh nông theo Sắc lệnh số 11-b/SL ngày 02/02/1947 của Chủ tịch nước.
Năm 1950, Nha Công sản - Trực thu - Địa chính được thành lập trên cơ sở hợp nhất

Nha Trước bạ - Công sản - Điền thổ với Nha Địa chính theo Sắc lệnh số 112/SL ngày
11/7/1950 của Chủ tịch nước.
Đến năm 1958, thực hiện Chỉ thị số 334-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngành Quản lý
đất đai có tên gọi là Sở Địa chính thuộc Bộ Tài chính, hệ thống các cơ quan ngành dọc
của Sở trực thuộc Ủy ban hành chính các cấp để để quản lý ruộng đất.


15
Trong giai đoạn này, nhiệm vụ của Ngành chủ yếu bảo vệ chế độ sở hữu ruộng đất và
thu thuế điền thổ, huy động thuế nông nghiệp phục vụ kháng chiến, kiến quốc. Sau cải
cách ruộng đất ở miền Bắc, để góp phần thực hiện nhiệm vụ khơi phục kinh tế của đất
nước, ngành Địa chính đã tổ chức đo đạc, lập bản đồ giải thửa và sổ sách địa chính để
nắm diện tích ruộng đất, phục vụ kế hoạch hóa và hợp tác hóa nơng nghiệp, tính thuế
ruộng đất, xây dựng đô thị.
Thời kỳ này kết quả thực hiện nhiệm vụ quản lý đất đai của Ngành đã đạt được một số
thành tựu nổi bật như: (1) tham mưu trình Quốc hội ban hành Luật Thuế trực thu Việt
Nam, Luật Cải cách ruộng đất năm 1953 góp phần thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất
của người dân, đảm bảo người cày có ruộng. Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
pháp luật về đất đai, trong đó có 26 sắc lệnh của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa về quản lý, sử dụng đất đai và thuế điền thổ. (2) Công tác xây dựng bản đồ
thổ nhưỡng, đo đạc lập bản đồ giải thửa, thống kê, kiểm kê đất nông nghiệp được tổ
chức thực hiện để thay thế tài liệu cũ của thực dân Pháp để lại nhằm phục vụ công tác
quản lý đất đai trong thời kỳ mới.
❖ Giai đoạn 1960 – 1978

Do sự phát triển quan hệ ruộng đất ở nông thôn và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, ngành Quản lý ruộng đất được thiết lập theo Nghị định số 70-CP và Nghị định
số 71CP ngày 09/12/1960 của Hội đồng Chính phủ, chuyển từ Bộ Tài chính sang Bộ
Nơng nghiệp với nhiệm vụ quản lý mở mang, sử dụng và cải tạo ruộng đất trong nông
nghiệp. Hệ thống quản lý ruộng đất được tổ chức thành 04 cấp gồm Trung ương, tỉnh,

huyện và xã.
Trong giai đoạn này, nhiệm vụ chủ yếu của Ngành là: "Quản lý việc mở mang, sử dụng
và cải tạo ruộng đất trong nông nghiệp", ngành Quản lý ruộng đất đã có đóng góp to lớn


16
trong việc mở rộng và sử dụng có hiệu quả diện tích đất nơng nghiệp, xây dựng kinh tế
hợp tác xã và phát triển nông thôn.
Thời kỳ này kết quả thực hiện nhiệm vụ quản lý đất đai của Ngành đã đạt được một số
thành tựu nổi bật như: (1) Ngành đã xây dựng trình cơ quan có thẩm quyền ban hành
các chính sách đất đai chủ yếu tập trung khôi phục kinh tế nông nghiệp và cải tạo Chủ
nghĩa Xã hội đối với các thành phần kinh tế. (2) Lập bản đồ thổ nhưỡng và phân hạng
đất nông nghiệp đã được thực hiện ở các tỉnh miền Bắc trước năm 1975. Năm 1976
triển khai xây dựng bản đồ đất Việt Nam tỷ lệ 1/1.000.000, xây dựng bản đồ thổ
nhưỡng cấp tỉnh của các tỉnh phía nam. (3) Đo đạc chỉnh lý bản đồ giải thửa trên diện
tích gần 7.800.000 ha của 5.000 xã ở các tỉnh phía Bắc. (4) Việc thanh tra, kiểm tra, giải
quyết tranh chấp đất đai bắt đầu được quan tâm tổ chức thực hiện.

❖ Giai đoạn 1979 – 2002

Để tăng cường công tác quản lý đất đai, thống nhất các hoạt động quản lý nhà nước về
đất đai vào một hệ thống thống nhất, năm 1979, Tổng cục Quản lý ruộng đất được
thành lập theo Nghị quyết số 548/NQQH ngày 24/5/1979 của Ủy Ban Thường Vụ
Quốc Hội và Nghị định số 404-CP ngày 09/11/1979 của Hội đồng Chính phủ. Cơ quan
quản lý đất đai ở địa phương được thành lập theo 03 cấp: cấp tỉnh là Ban quản lý ruộng
đất trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện là Phòng Quản lý ruộng đất, cấp xã
là cán bộ quản lý ruộng đất.
Trước yêu cầu về tổ chức lại các cơ quan quản lý Nhà nước và tăng cường công tác
quản lý đất đai, năm 1994 Tổng cục Quản lý ruộng đất và Cục Đo đạc và Bản đồ Nhà
nước được hợp nhất và tổ chức lại thành Tổng cục Địa chính theo Nghị định số 12/CP

ngày 22/02/1994 và Nghị định số 34/CP ngày 23/4/1994 của Chính phủ. Sau khi thành
lập Tổng cục Địa chính, các địa phương đã thành lập Sở Địa chính trực thuộc UBND


17
cấp tỉnh. Tại cấp huyện là Phịng Địa chính trực thuộc UBND cấp huyện, tại cấp xã, có
cán bộ địa chính xã.
Trong thời kỳ này thời kỳ này Ngành đã đạt được một số thành tựu nổi bật như: (1)
Trình Quốc hội ban hành Luật Đất đai năm 1987 và Luật Đất đai năm 1993; (2) Xây
dựng bản đồ đất Việt Nam tỷ lệ 1/1.000.000, bản đồ thổ nhưỡng cấp tỉnh của các tỉnh
phía nam, hồn thành năm 1985; (3) Triển khai thí điểm phân hạng đất phục vụ thu thuế
nông nghiệp ở một số xã, huyện ở các vùng sản xuất lúa, mầu, đến năm 1986 có 65%
diện tích đất lúa đã được phân hạng; (4) Công tác quy hoạch sử dụng đất bắt đầu được
chú trọng từ nghiên cứu cơ sở lý luận đến xây dựng hệ thống văn bản quy phạm và triển
khai thực hiện trong thực tế để làm cơ sở giao đất, cho thuê đất và cho phép chuyển
mục đích sử dụng đất (5) Cơng tác đo đạc lập bản đồ giải thửa về cơ bản đã hoàn thành
trong cả nước theo Chỉ thị số 299/TTg của Thủ tướng Chính phủ; (6) Ứng dụng cơng
nghệ định vị toàn cầu (GPS) để lập bản đồ địa chính có tọa độ được bắt đầu triển khai
từ năm 1990, đến năm 2001 đã thực hiện tổ chức xây dựng lưới cơ sở địa chính phủ
trùm lãnh thổ; (7) Cả nước đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 92,0% hộ sử
dụng đất nông nghiệp với diện tích đạt trên 91,0% diện tích đất nơng nghiệp; đã tổ chức
đăng ký đất đai cho 2.712.490 hộ sử dụng đất đô thị, cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho trên 855.000 hộ chiếm 26,8% số hộ sử dụng đất đô thị; (8) Từ năm
1990, hàng năm, công tác thống kê đất đai và công tác kiểm kê đất đai (5 năm một lần)
được Ngành thực hiện hiệu quả. Số liệu thống kê, kiểm kê đất đai được cung cấp cho
các ngành, các cấp sử dụng vào công tác quy hoạch ngành, lĩnh vực; phục vụ thu thuế
nông nghiệp; (9)
Tham mưu cho Nhà nước ban hành Luật Đất đai năm 1993; việc ban hành Luật Đất đai
năm 1993 đánh dấu bước phát triển quan trọng trong quản lý đất đai với việc Nhà nước
cơng nhận đất có giá đã tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước và thị trường

bất động sản dần hình thành và phát triển. (10) Nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học,


18
chương trình, dự án quốc tế đã góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn và kinh
nghiệm quốc tế cho cơng tác xây dựng chính sách, pháp luật đất đai và hỗ trợ đáng kể
cho công tác quản lý đất đai; (11) Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, tranh chấp về đất đai đã được Ngành quan tâm, chú trọng, phát hiện và xử lý nhiều
vi phạm, giải quyết nhiều vụ khiếu kiện liên quan đất đai, trong đó có nhiều vụ khiếu
kiện đông người.
❖ Giai đoạn 2002 đến nay
Đến năm 2002, theo định hướng thành lập các Bộ đa ngành, Bộ Tài nguyên và Môi
trường được thành lập theo Nghị quyết số 02/2002/QH11 của Quốc hội khoá XI và
Nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính phủ. Ở địa phương thành lập
Sở Tài nguyên và Môi trường trên cơ sở hợp nhất Sở Địa chính, các đơn vị quản lý nhà
nước về tài ngun nước, tài ngun khống sản, mơi trường, khí tượng thuỷ văn, đo
đạc và bản đồ.
Để tăng cường hoạt động quản lý nhà nước về tài nguyên và mơi trường, năm 2008,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 25/2008/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Tổng cục Quản lý đất
đai được thành lập trong Bộ Tài nguyên và Môi trường nhằm tập trung các hoạt động
quản lý nhà nước về đất đai ở cấp Trung ương về một đầu mối chuyên trách.
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 134/2008/QĐ-TTg và Quyết định số
25/2011/QĐ-TTg quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng
cục Quản lý đất đai trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường. Hiện nay, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Quản lý đất đai được quy định tại
Quyết định số 02/2018/QĐ-TTg ngày 17/01/2018 của Thủ tướng chính phủ.
Về cơ cấu tổ chức bộ máy, đến nay Tổng cục Quản lý đất đai có 13 đơn vị trực thuộc,
trong đó có 9 đơn vị quản lý nhà nước, 01 đơn vị nghiên cứu và 03 đơn vị sự nghiệp.



19
Tại cấp tỉnh, nhiều địa phương đã thành lập Chi cục Quản lý đất đai thuộc Sở Tài
nguyên và Môi trường. Đến nay, tổ chức của Ngành ở cấp tỉnh có cơ cấu hồn chỉnh
gồm 63 Sở Tài ngun và Mơi trường với đầy đủ các phịng, ban chức năng về quản lý
đất đai và các đơn vị sự nghiệp, trong đó có: Trung tâm Phát triển quỹ đất, Văn phịng
Đăng ký đất đai hoạt động theo mơ hình một cấp, Quỹ phát triển đất... Tại cấp huyện,
cơ quan quản lý đất đai là Phịng Tài ngun và Mơi trường; tại cấp xã có cơng chức
địa chính xã.
Hiện tại, tồn ngành có gần 20.000 người, trong đó: Trung ương có hơn 700 công chức,
viên chức và người lao động; cấp tỉnh có 2.2000 cơng chức, viên chức; cấp huyện có
5.200 cơng chức, viên chức; cấp xã, phường, thị trấn có khoảng 11.000 cán bộ địa
chính. Hiện nay, Ngành tập trung vào thực hiện 15 nhiệm vụ chính, so với thời kỳ trước
Ngành được bổ sung nhiệm vụ điều tra, đánh giá tài nguyên đất; điều tra xây dựng giá
đất; xây dựng hệ thống thơng tin đất đai; kiểm sốt quản lý, sử dụng đất đai.
Thời kỳ này kết quả thực hiện nhiệm vụ quản lý đất đai của Ngành đã đạt được một số
thành tựu nổi bật như (1) trình Quốc hội thông qua Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất
đai năm 2013; (2) Công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ngày càng có bước
tiến rõ rệt về chất lượng. Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất
5 năm (2011-2015) cấp quốc gia đã được Quốc hội phê duyệt. Chính phủ đã xét duyệt
quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu (20112015) cho 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; (3) Ngành đã thực hiện tốt việc
giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và chuyển mục đích
sử dụng đất. Đến nay, tổng diện tích đất đã giao, đã cho thuê là khoảng 25,5 triệu ha,
chiếm 71% tổng diện tích tự nhiên của cả nước; (4) Năm 2014, đánh dấu mốc quan
trọng, cả nước ta cơ bản hồn thành cơng tác cấp giấy chứng nhận lần đầu. Cả nước đã
cấp được hơn 41,6 triệu Giấy chứng nhận. (5) Với mục tiêu quản lý đến từng thửa đất
bằng công nghệ số, từ năm 2000 đến nay, Ngành đã từng bước chuẩn hóa dữ liệu địa


20

chính và xây dựng cơ sở dữ liệu số đến từng thửa đất. Đến nay một số địa phương đã
xây dựng xong và vận hành cơ sở dữ liệu đất đai tồn tỉnh; (6) Hệ thống chính sách tài
chính về đất đã tiếp cận và ngày càng phù hợp hơn với cơ chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nguồn thu từ đất là một trong những nguồn lực quan trọng cho
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; (7) Ngành đã thực hiện tốt chủ trương cải cách
thủ tục hành chính, đã rà sốt và cắt giảm được nhiều thủ tục hành chính trong Luật Đất
đai năm 2013 và các văn bản quy định chi tiết thi hành, được dư luận xã hội đánh giá
cao; (8) Công tác nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh đã
đóng góp cơ sở lý luận và thực tiễn, những kinh nghiệm quốc tế trong việc quản lý đất
đai; (9) Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp về đất đai
trong thời gian qua đã được Ngành tích cực thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Các vi phạm phát hiện qua thanh tra, kiểm tra đất đai đã được xử lý và chấn chỉnh, ngăn
chặn các sai phạm; giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai, hướng
dẫn cho các tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp
luật.


21
CHƯƠNG II HỆ THỐNG CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY
1. Hệ thống các cơ quan quản lý đất đai ở nước ta hiện nay
1.1.Khái niệm hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai
Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ra đời gắn liền với sự xuất hiện của một hình
thức quản lý đất đai con người: Quản lý nhà nước về đất đai. Hệ thống cơ quan này được
Nhà nước thành lập và bằng pháp luật. Nhà nước quy định cơ cấu, tổ chức, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn nhằm giúp Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ vốn đất đai trong cả
nước theo quy hoạch, kế hoạch chung.
Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai là hệ thống cơ quan do Nhà nước thành
lập, thống nhất từ trung ương xuống địa phương có cơ cấu, tổ chức chặt chẽ và có mối
quan hệ mật thiết với nhau theo quan hệ “song trùng trực thuộc” thực hiện chức năng,

nhiệm vụ giúp Nhà nước thống nhất quản lý tồn bộ vơn đất đai trong phạm vi cả nước và
ở mỗi địa phương theo quy hoạch, kế hoạch chung;
Hệ thống cơ quan này có đặc trưng là hệ thống cơ quan chuyên ngành được giao nhiệm vụ
quản lý nhà nước về đất đai. Trong hoạt động, cơ quan quản lý đất đai cấp dưới chịu sự chỉ
đạo về chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan quản lý đất đai cấp trên; đồng thời chịu sự lãnh
đạo trực tiếp, toàn diện của UBND cùng cấp. Đây là tính chất song trùng trực thuộc trong
hoạt động quản lý của hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai.
1.2. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở nước ta
Theo quy định của Luật đất đai năm 2013, hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai ở
nước ta bao gồm: (1) Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai có thẩm quyền chung
gồm: Chính phủ, UBND các cấp; (2) Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai có
thẩm quyền riêng gồm: Bộ Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường,


22
Phịng Tài ngun và Mơi trường, cán bộ địa chính xã, phường, thị trấn. Bên cạnh đó cịn
có sự tham gia của hệ thống cơ quan quyền lực vào hoạt động quản lý nhà nươc về đất đai
với vai trò đại diện cho nhân dân thực hiện chức năng giám sát.
1.2.1. Hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu; Luật Đất đai 2013 xác
định rõ thẩm quyền của cơ quan đại diện cho nhân dân là Quốc hội và HĐND các cấp (cấp
tỉnh, cấp huyện, cấp xã) trong việc thực hiện vai trò đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất
đai. Các cơ quan này không làm thay chức năng quản lý nhà nước về đất đai của cơ quan
quản lý mà tham gia hoạt động quản lý nhà nước về đất đai với tư cách giám sát như nói ở
trên. Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp trong linh vực quản lý đất đai
được thực hiện theo Khoản 1,2 Điều 21 Bộ luật này về thực hiện quyền đại diện chủ sở
hữu đất đai:
“1, Quốc hội ban hành luật, nghị quyết về đất đai; quyết định quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất cấp quốc gia; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với việc quản lý và sử dụng
đất đai trong phạm vi cả nước.

2, Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền thông qua quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
của địa phương mình trước khi trình cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; thơng qua bảng
giá đất, việc thu hồi đất thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia,
công cộng của địa phương theo thẩm quyền quy định tại Luật này; giám sát việc thi hành
pháp luật về đất đai tại địa phương.”
1.2.2. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về đất đai có thẩm quyền chung
Với chức năng quản lý Nhà nước về mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực
đất đai, Chính phủ và UBND các cấp có vai trò quan trọng trong việc thực hiện nội dung
quản lý nhà nước về đất đai theo Khoản 1,3 Điều 23 Luật Đất đai 2013:
“ 1, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước.


23
3, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm quản lý nhà nước về đất đai tại địa
phương theo thẩm quyền quy định tại Luật này.”

1.2.3. Hệ thống cơ quan chuyên ngành quản lý nhà nước về đất đai
Hệ thống cơ quan chuyên ngành quản lý nhà nước về đất đai được thành lập, thống nhất từ
TW đến địa phương theo 4 cấp đơn vị hành chính:
-

Cấp trung ương: theo khoản 2 Điều 24 Luật Đất đai 2013, “Cơ quan quản lý nhà
nước về đất đai ở trung ương là Bộ Tài nguyên và Môi trường”.Đây là cơ quan của
Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tài ngun đất, nước, khống
sản và mơi trường, khí tượng thủy văn,… trong phạm vi cả nước; quản lý các dịch
vụ công và thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp
có vốn nhà nước trong lĩnh vực tài nguyên môi trường theo quy định pháp luật; chịu
trách nhiệm trước Chính phủ trong việc thống nhất quản lý nhà nước về lĩnh vực đất
đai (khoản 2 Điều 23 Luật đất đai 2013). Bộ Tài ngun và Mơi trường chủ trì, phối
hợp với Bộ Nội vụ quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của

cơ quan quản lý đất đai ở địa phương và nhiêm vụ của công chức địa chính xã,
phường, thị trấn.

-

Cấp tỉnh: Theo điểm a khoản 1 Điều 4 Nghị định 43/2014/NĐ-CP “Cơ quan quản
lý đất đai ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là Sở Tài nguyên và môi
trường”. Đây là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, giúp UBND cấp tỉnh
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực tài nguyên, môi trường trên địa
bàn tỉnh theo quy định pháp luật. Sở Tài nguyên và Môi trường chịu sự chỉ đạo,
quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của UBND cấp tỉnh; đồng thời chịu sự chỉ
đạo, kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Tài nguyên và Môi trường.


24
-

Cấp huyện: Điểm b khoản 1 Điều 4 Nghị định 43/2014/NĐ-CP “ Cơ quan quản lý
đất đai ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh là Phòng Tài nguyên và Môi
trường”. Đây là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, quận, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh có chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vĩnh tài nguyên và môi
trường trên địa bàn huyện theo quy định pháp luật; Phịng Tài ngun và Mơi
trường chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức, biên chế và công tác của UBND cấp
huyện, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra về chuyên môn của Sở TN và MT.

➔ UBND cấp tỉnh, UBND cấp huyện có trách nhiệm xây dựng tổ chức bộ máy quản lý
đất đai tại địa phương, UBND cấp huyện bố trí cơng chức địa chính xã, phường, thị
trấn bảo đảm thực hiện nhiệm vụ.
- Cấp xã, phường, thị trấn: Theo khoản 2 Điều 25 Luật Đất đai 2013 “ Cơng chức địa
chính ở xã, phường, thị trấn có trách nhiệm giúp UBND cấp xã trong việc quản lý

đất đai tại địa phương; đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm tra chuyên môn của Sở TN
& MT.

1.2.4. Các tổ chức dịch vụ công trong quản lý về sử dụng đất
Tổ chức sự nghiệp công và tổ chức dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai là những khái niệm
lần đầu tiên được đề cập trong Luật đất đai 2003. Các tổ chức này ra đời nhằm phúc đáp
yêu cầu của công cuộc cải cách các thủ tục hành chính trong quản lý và sử dụng đất; góp
phần đẩy nhanh sự hình thành thị trường bất động sản có tổ chức và làm “lành mạnh hóa”
các giao dịch liên quan đến BĐS. Hơn nữa, sự ra đời của tổ chức sự nghiệp công và tổ
chức dịch vụ công trong lĩnh vực đất đai đánh dấu sự chuyển đổi nền hành chính cơng
mang nặng tính chất quan liêu “cai trị, quản lý” san nền hành chính mang tính chất gần
dân, tính chất “dịch vụ, phục vụ”.


25
Khái niệm tổ chức sự nghiệp công được Luật đất đai 2003 định nghĩa như sau: “Tổ chúc sự
nghiệp công là tổ chức do các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội thành lập, có chức năng thực hiện các hoạt động dịch vụ công do
ngân hàng nhà nước chi trả” (khoản 28 Điều 4). Tổ chức sự nghiệp cơng theo Luật này
gồm: Văn phịng đăng ký quyền sử dụng đất (vp ĐKQSDĐ), Tổ chức phát triển quỹ đất và
tổ chức hoạt động dịch vụ trong quản lý, sử dụng đất đai.
Theo Điều 5 Nghị định 43/2014/NĐ-CP (được sửa đổi bởi Nghị định 01/2017/NĐ-CP), các
đơn vị thực hiện dịch vụ đất đai gồm: Văn phòng đăng ký đất đai và Tổ chức phát triển quỹ
đất.
a) Văn phòng đăng ký đất đai (khoản 1 Điều 5 NĐ)
Văn phòng Đăng ký đất đai là đơn vị sự nghiệp công trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi
trường do
UBND cấp tỉnh thành lập hoặc tổ chức lại trên cơ sở hợp nhất Văn phòng đăng ký quyền
sử dụng đất trực thuộc Sở Tài ngun và Mơi trường và các Văn phịng đăng ký quyền
SDĐ trực thuộc Phịng Tài ngun và Mơi trường hiện có ở địa phương, có tư cách pháp

nhân, có trụ sở, con dấu riêng và được mở tài khoản để hoạt động theo quy định của pháp
luật.
Văn phòng đăng ký đất đai có chức năng thực hiện đăng ký đất đai và tải sản khác gắn liền
với đất; xây dựng, quản lý, cập nhật, chỉnh lý thống nhất hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu
đất đai; thống kê, kiểm kê đất đai; cung cấp thông tin đất đai theo quy định cho các tổ
chức, cá nhân có nhu cầu;
Văn phịng đăng ký đất đai có chi nhánh tại các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai được thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của Văn phòng ĐK đất đai theo quyết định của UBND cấp tỉnh; kinh phí hoạt động của


×