Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

TÌNH HÌNH NỢ CÔNG VÀ CHI TIÊU NGÂN SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ. CHÍNH PHỦ CẦN THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP NÀO NHẰM GIẢM THÂM HỤT NGÂN SÁCH TRONG TÌNH HÌNH ĐẠI DỊCH COVID 19 HIỆN NAY.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.52 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG- XÃ HỘI (CSII)
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
HỌC PHẦN: KINH TẾ VĨ MƠ

CHỦ ĐỀ 2: TÌNH HÌNH NỢ CƠNG VÀ CHI TIÊU NGÂN
SÁCH CỦA CHÍNH PHỦ. CHÍNH PHỦ CẦN THỰC HIỆN
CÁC GIẢI PHÁP NÀO NHẰM GIẢM THÂM HỤT NGÂN
SÁCH TRONG TÌNH HÌNH ĐẠI DỊCH COVID 19 HIỆN
NAY.
Sinh viên thực hiện: NGUYỄN DƯƠNG TRÚC PHƯƠNG
Mã số sinh viên: 2053404041123
Lớp: Đ20NL4
Số báo danh: 208
Giảng viên: TRƯƠNG HOÀNG CHINH

TP. HCM, ngày 27 tháng 01 năm 2022.


MỤC LỤC


CHƯƠNG I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới có chuyển biến khó lường vì đại dịch
Covid-19 kéo dài từ cuối năm 2019 đến nay. Khủng hoảng nền kinh tế diễn ra trên
toàn cầu, khiến cho một số nước khủng hoảng nợ công và không thể không kể đến
Việt Nam. Theo báo cáo từ Bộ Tài chính tình hình nợ cơng nước ta đang tăng nhanh
trong hai năm gần đây. Nợ công vượt quá cao so với mức an toàn ở những nền kinh
tế phát triển, đang trở thành chủ đề nóng hiện nay bởi đó là yếu tố có nguy cơ đe dọa
những dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế toàn cầu, làm người ta lo ngại tới viễn cảnh


nền kinh tế một lần nữa rơi vào tình trạnh suy giảm. Trước hết ta phải hiểu nợ cơng
là gì? Nợ cơng tăng nhanh có ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế? Nợ công là
tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa
phương đi vay nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách, vì thế, nợ chính phủ,
nói cách khác, là thâm hụt ngân sách luỹ kế tính đến một thời điểm nào đó. Để dễ
hình dung quy mơ của nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng
bao nhiêu phần trăm so với tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Nợ công tăng cao vượt
quá xa giới hạn được coi là an toàn, nền kinh tế rất dễ bị tổn thương và chịu nhiều
sức ép cả bên trong và bên ngoài. Khi nợ cơng việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện
chính sách "thắt lưng buộc bụng" để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp
ứng để được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế, thế nhưng,
"thắt lưng buộc bụng" lại dẫn tới những cuộc biểu tình phản đối của quần chúng,
gây căng thẳng, bất ổn chính trị, xã hội, bởi những người nghèo, những người yếu
thế trong xã hội là những người bị tác động mạnh nhất từ chính sách cắt giảm phúc
lợi, cắt giảm chi tiêu của chính phủ. Chi tiêu ngân sách là gì? Chi ngân sách nhà
nước là việc phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước nhằm đảm bảo thực hiện
chức năng của nhà nước theo những nguyên tắc nhất định. Chi ngân sách nhà nước
là q trình phân phối lại các nguồn tài chính đã được tập trung vào ngân sách nhà
nước và đưa chúng đến mục đích sử dụng. Do đó, Chi ngân sách nhà nước là những
việc cụ thể không chỉ dừng lại trên các định hướng mà phải phân bổ cho từng mục
3


tiêu, từng hoạt động và từng công việc thuộc chức năng của nhà nước. Việc chi ngân
sách của Chính phủ có rất nhiều lĩnh vực khác nhau trên xã hội. Để đảm bảo việc chi
ngân sách hiệu quả, hằng năm Bộ Tài chính sẽ đưa ra hạn mức chi tiêu từng mục
tiêu, từng hoạt động và từng công việc thuộc chức năng của nhà nước. Và trong đợt
dịch bùng phát mạnh mẽ đầu tháng 5/2021 đến nay, Chính phủ đã chi rất nhiều
khoản, trong đó chi cho y tế là được đặt lên hàng đầu. Vậy để giảm thâm hụt ngân
sách trong thời điểm đại dịch Covid-19 thì nhà nước cần thực hiện những giải pháp

như thế nào? Vì những lý do trên tôi đã chọn đề tài: “Hãy cho biết tình hình nợ cơng
và chi tiêu ngân sách của chính phủ. Chính phủ cần thực hiện những giải pháp nào
nhằm giảm thâm hụt ngân sách trong tình hình đại dịch Covid-19 hiện nay” làm đề
tài tiểu luận kết thúc mơn học của mình.

4


CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH NỢ CƠNG VÀ CHI NGÂN SÁCH CỦA
CHÍNH PHỦ.
1. Tình hình nợ cơng.

Chi tiết về tình hình vay nợ được Chính phủ nêu trong báo cáo vừa gửi Quốc hội về
nợ công năm 2021. Năm nay, tổng mức trả nợ của Chính phủ khoảng 365.932 tỷ
đồng, trong đó hơn 92% là trả nợ trực tiếp, khoảng 338.415 tỷ đồng. Số trả nợ nước
ngoài của các dự án cho vay lại là 27.517 tỷ đồng.
"Việc thực hiện nghĩa vụ các khoản trả gốc, lãi của Chính phủ đầy đủ, gồm cả nghĩa
vụ nợ trực tiếp của Chính phủ và nghĩa vụ nợ cho vay lại, không để xảy ra tình trạng
nợ q hạn", báo cáo Chính phủ nêu.
Tuy nhiên, tình hình Covid-19 cịn diễn biến phức tạp, tăng trưởng kinh tế quý III
giảm sâu và GDP 9 tháng chỉ tăng 1,42% so với cùng kỳ 2020. Chính phủ cho rằng
việc hoàn thành các chỉ tiêu tăng trưởng năm nay là thách thức. Trường hợp GDP
năm 2021 không đạt mức dự báo sẽ tác động đến bội chi ngân sách nhà nước và các
chỉ tiêu an tồn nợ cơng và nợ nước ngoài của quốc gia trong năm 2021.
Năm nay nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu ngân sách được điều
hành đảm bảo trong phạm vi trần Quốc hội phê duyệt (25%) nhưng Chính phủ cho
rằng, trước áp lực huy động vốn tăng nhanh, rủi ro đảo nợ có thể gia tăng.
9 tháng đầu năm đã huy động được 298.758 tỷ đồng. Trong số này có 7.253 tỷ đồng
vay ODA, ưu đãi nước ngồi cho vay lại; còn lại là vay đưa vào cân đối ngân sách
trung ương.

Dự kiến cả năm 2021, Chính phủ sẽ huy động gần 514.300 tỷ đồng, bằng 82,4% so
với kế hoạch. Gần 88% trong số này từ vốn trong nước, còn lại là từ vốn vay ODA,
ưu đãi.
Trường hợp huy động vốn vay của Chính phủ vượt quá khả năng hấp thu vốn của thị
trường trong nước, để đảm bảo đủ nguồn huy động, có thể cần phải huy động thêm
5


các nguồn vay trong nước có kỳ hạn ngắn hơn so với giai đoạn 2016-2020. Các
khoản huy động nguồn lực trong nước sẽ gồm tăng vay từ nguồn ngân quỹ Nhà
nước hoặc phát hành trái phiếu Chính phủ kỳ hạn ngắn 2-3 năm. Nhưng như vậy các
chỉ tiêu về nghĩa vụ trả nợ có khả năng tăng cao (do các khoản vay này sẽ đáo hạn
ngay trong giai đoạn 2022-2025).
Tình hình thực hiện các chỉ tiêu nợ năm 2021
STT

Chỉ tiêu
Nợ cơng/GDP
Nợ Chính phủ/GDP
Nợ nước ngồi quốc gia/GDP
Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp/thu ngân sách
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài/kim ngạch xuất khẩu
Kỳ hạn phát hành trái phiếu Chính phủ bình qn (năm)

Nguồn: Báo cáo Chính phủ gửi Quốc hội
Ngồi ra, việc huy động vốn vay với kỳ hạn ngắn cần được kiểm sốt chặt chẽ,
khơng để phát sinh rủi ro đảo nợ liên tục và đảm bảo chỉ tiêu kỳ hạn phát hành trái
phiếu Chính phủ bình qn giai đoạn 2021-2025 từ 9-11 năm, nghĩa vụ trả nợ trực
tiếp của Chính phủ khơng q 25% so với tổng thu ngân sách được Quốc hội phê
duyệt.

Chính phủ nhận xét, chi phí vay trong nước đang ở mức phù hợp, nhưng do ảnh
hưởng của Covid-19, xu hướng gia tăng lạm phát do tiềm ẩn nhiều rủi ro về gián
đoạn chuỗi cung ứng và thiếu hụt nguồn cung nguyên vật liệu cho sản xuất... mặt
bằng lãi suất trái phiếu Chính phủ sẽ tăng lên, dẫn tới tăng chi phí huy động vốn của
Chính phủ.

6


Với nợ nước ngồi, tiềm ẩn rủi ro chi phí vay kém thuận lợi trong bối cảnh khả năng
tiếp cận các nguồn vốn ODA giai đoạn tới sẽ giảm và có thể phải sử dụng các cơng
cụ nợ với điều kiện tiệm cận/theo thị trường.
Ngoài ra, việc đàm phán, ký kết và giải ngân vốn vay ODA, ưu đãi nước ngoài với
tỷ lệ thấp như trong thời gian qua do tác động từ Covid-19, các vướng mắc về cơ
chế chính sách, chất lượng chuẩn bị các dự án đầu tư công và khác biệt giữa thủ tục
trong nước và nước ngoài... sẽ đặt gánh nặng lên nguồn huy động chủ yếu là vay
trong nước.
2. Tình hình chi tiêu ngân sách của Chính phủ.

Theo báo cáo Bộ Tài chính cho biết, ngay từ đầu năm 2021, Bộ Tài chính đã kiên
định thực hiện quản lý, điều hành thu, chi ngân sách nhà nước chặt chẽ, triệt để tiết
kiệm chi thường xuyên; chủ động xây dựng và triển khai các phương án điều hành
đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước các cấp, tập trung ưu tiên nguồn lực cho
phòng, chống dịch Covid-19, đảm bảo an sinh xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Đồng thời, chủ động đề xuất cấp có thẩm quyền kịp thời có những điều chỉnh về
chính sách tài khóa nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho doanh nghiệp, hộ gia đình và
người dân.
Thu ngân sách nhà nước năm 2021 ước đạt 1.563,3 nghìn tỷ đồng, bằng 116,4%
(vượt 219.900 tỷ đồng) dự toán, tăng 3,7% so với thực hiện năm 2020. Trong đó,
chủ yếu tăng thu từ dầu thô, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu và thu tiền sử dụng

đất; thu thuế, phí nội địa từ hoạt động sản xuất – kinh doanh (vượt 14,5% dự toán,
tăng 11,3% so với thực hiện năm 2020); tỷ lệ động viên vào ngân sách nhà nước đạt
18,6% GDP (vượt mục tiêu 15,5% GDP).
Thu ngân sách Trung ương (NSTƯ) ước đạt 106,7% dự toán; thu ngân sách địa
phương (NSĐP), ước đạt 128,2% dự toán.
Cùng với kết quả nổi bật trong thu ngân sách nhà nước, công tác điều hành chi ngân
sách nhà nước chủ động, triệt để tiết kiệm chi thường xuyên, tập trung ưu tiên nguồn
7


lực cho phịng, chống dịch Covid-19, kiểm sốt dịch bệnh và đảm bảo an sinh xã
hội, ổn định đời sống nhân dân. Nhờ đó, các nhiệm vụ chi ngân sách nhà nước năm
2021 đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu đề ra: Chi ngân sách nhà nước năm 2021
ước đạt 1.879 nghìn tỷ đồng, bằng 111,4% dự tốn; đáp ứng kịp thời nhiệm vụ chi
phát sinh theo tiến độ thực hiện của đơn vị sử dụng ngân sách; ưu tiên bố trí kinh phí
cho cơng tác phịng, chống dịch Covid-19, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh,
đảm bảo quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội và thanh toán đầy đủ các khoản nợ đến
hạn.
Đến ngày 31/12/2021, ngân sách nhà nước đã quyết định chi 45.100 tỷ đồng cho
phòng chống dịch Covid-19 và 28.900 tỷ đồng để hỗ trợ người dân gặp khó khăn do
đại dịch Covid-19, tổng cộng là 74.000 tỷ đồng (trong đó, Trung ương đã chi 26.300
tỷ đồng, các địa phương đã chi từ NSĐP 47.700 tỷ đồng).
Hội nghị tổng kết cơng tác tài chính - ngân sách nhà nước năm 2021 và triển khai
nhiệm vụ năm 2022
Riêng tiến độ giải ngân vốn đầu tư phát triển chậm hơn năm trước, ước đến hết
31/12/2021 đạt 74,7% dự toán Quốc hội quyết định, đạt 77,3% kế hoạch Thủ tướng
Chính phủ giao (năm 2020 đạt 82,66%). Năm 2021, cân đối NSTƯ và NSĐP được
đảm bảo. Ước tính năm 2021, bội chi ngân sách nhà nước thực hiện dưới 4% GDP.
Trong năm 2021, Bộ Tài chính cũng đã kiểm sốt chặt chẽ nợ cơng, tiếp tục tái cơ
cấu nợ công theo hướng bền vững. Đến cuối năm 2021, nợ cơng khoảng 43,7%

GDP, nợ Chính phủ khoảng 39,5% GDP, dư nợ vay nước ngoài quốc gia khoảng
39% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ dưới 23% tổng thu ngân sách nhà
nước, trong phạm vi giới hạn an tồn cho phép. Cùng với đó, năm 2021, Bộ Tài
chính tăng cường quản lý giá cả, thị trường phù hợp với tình hình thực tế, tháo gỡ
khó khăn, thúc đẩy sản xuất - kinh doanh, kiểm soát lạm phát; giá cả thị trường được
giữ ổn định; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân cả năm 2021 chỉ tăng 1,84%, góp
phần kiểm sốt lạm phát theo mục tiêu đề ra năm 2021.

8


Về phát triển thị trường chứng khoán, mặc dù chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19, thị
trường tiếp tục tăng trưởng mạnh trong năm 2021. Đến hết ngày 31/12/2021, chỉ số
VN-Index đạt 1.498,28 điểm, tăng 35,7% so với cuối năm 2020, quy mơ vốn hóa cổ
phiếu trên thị trường đạt khoảng 7.729 nghìn tỷ đồng (trên 92% GDP ước thực hiện
năm 2021), tăng 46% so với cuối năm 2020.
Thị trường bảo hiểm tiếp tục tăng trưởng tốt, tổng doanh thu phí bảo hiểm năm 2021
ước đạt 214,9 nghìn tỷ đồng, tăng 15,59% so với cùng kỳ năm 2020; tổng tài sản đạt
710 nghìn tỷ đồng, tăng 23,86%; đầu tư trở lại nền kinh tế đạt 577,1 nghìn tỷ đồng,
tăng 22,24%. “Năm 2021, trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội có nhiều khó
khăn, dịch bệnh diễn biến phức tạp, tồn ngành Tài chính đã chủ động đề xuất, triển
khai đồng bộ các giải pháp tài chính - ngân sách nhà nước; hoàn thành xuất sắc, toàn
diện các nhiệm vụ tài chính - ngân sách nhà nước; góp phần quan trọng thực hiện
“nhiệm vụ kép” - vừa phòng, chống dịch bệnh, bảo vệ sức khỏe nhân dân, vừa phục
hồi và phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái bình thường mới”, đại diện Bộ Tài
chính đánh giá.

9



CHƯƠNG III CÁC GIẢI PHÁP GIẢM THÂM HỤT NGÂN SÁCH
TRONG TÌNH HÌNH ĐẠI DỊCH COVID 19 HIỆN NAY.
Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện các nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội và thu, chi, cân đối ngân sách nhà nước trong năm qua. Và
vấn đề thâm hụt ngân sách là điều khó có thể tránh khỏi. Vấn đề thiếu hụt ngân sách
nhà nước không chỉ xảy ra ở Việt Nam mà ở tất cả các nước trên thế giới và việc lựa
chọn cách thức xử lý bội chi ngân sách nhà nước sao cho phù hợp với yêu cầu phát
triển thực tế và sự phát triển trong tương lai cho một đất nước ln là bài tốn khó
cho các chính trị gia. Có nhiều cách để chính phủ bù đắp thiếu hụt ngân sách như
tăng thu từ thuế, phí, lệ phí; giảm chi ngân sách, vay nợ trong nước, vay nợ nước
ngoài hoặc phát hành tiền để bù đắp chi tiêu… Sử dụng phương pháp nào, nguồn
nào tùy thuộc vào điều kiện kinh tế và chính sách kinh tế tài chính trong từng thời
kỳ của mỗi quốc gia. Xử lý khắc phục bội chi ngân sách nhà nước có thể áp dụng
một số giải pháp sau:
a. Nhà nước phát hành thêm tiền.

Phát hành thêm tiền để xử lý bội chi ngân sách nhà nước: Giải pháp này đơn giản
dễ thực hiện nhưng sẽ gây ra lạm phát nếu Nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền
để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, ảnh hưởng đến tiêu cực đến đời sống kinh tếxã hội-chính trị. Bên cạnh đó nếu thực hiện theo giải pháp này rất dễ dẫn tới tình
trạng lạm phát nếu nhà nước phát hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi ngân
sách nhà nước. Không những vậy ta thấy khi nguyên nhân bội chi ngân sách nhà
nước là do thiếu hụt các nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho phát triển gây ra vấn đề
tăng trưởng nóng và khơng cân đối với khả năng tài chính của quốc gia.
Thực tế chúng ta đẩy mạnh phát hành thêm trái phiếu chính phủ và vay nợ nước
ngồi để bù đắp bội chi, điều này góp phần tích cực trong việc kiềm chế lạm phát.
Tuy nhiên trong trường hợp nền kinh tế suy thối, mức độ lạm phát khơng cao thì
việc phát hành thêm tiền cần phải được tiến hành nhằm trang trải mục tiêu trước mắt
là có tiền để tiến hành các chương trình đầu tư phát triển, có tiền để tăng lương theo
kế hoạch, bù đắp bội chi. Việc phát hành tiền ở mức độ và thời điểm hợp lý sẽ tạo ra
mức lạm phát nhẹ, kích tiêu dùng, giảm gánh nặng về nghĩa vụ trả nợ của nhà nước,

thúc đẩy phát triển kinh tế.
b.

Vay nợ cả trong và ngoài nước.

Vay nợ trong nước và vay nợ nước ngoài: Việc vay nợ nước ngoài quá nhiều sẽ
kéo theo vấn đề phục thuộc nước ngoài cả về kinh tế lẫn chính trị và cịn làm giảm
dự trữ ngoại hối khi trả nợ, làm cạn dự trữ quốc gia sẽ dẫn đến khủng hoảng tỷ giá.
10


Còn vay nợ trong nước sẽ làm tăng lãi suất và vòng nợ – trả lãi- bội chi sẽ làm tăng
mạnh các khoản nợ công chúng và kéo theo gánh nặng chi trả của ngân sách nhà
nước cho các thời kỳ sau.
Vay nợ cũng là một trong các biện pháp để giải quyết bội chi ngân sách nhà nước.
Việc sử dụng khoản vay nhằm chỉ để cho đầu tư phát triển như: đầu tư xây dựng các
cơng trình kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội khơng có khả năng thu hồi vốn do trung
ương quản lý, đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, góp vốn cổ phần, liên doanh
vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước, chi bổ
sung dự trữ nhà nước và các khoản chi khác theo quy định của pháp luật.
Đối với vấn đề vay nợ cả trong và ngoài nước. Để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà
nước, nhà nước có thể vay nợ nước ngồi và trong nước. Việc vay nợ nước ngoài
quá nhiều sẽ kéo theo vấn đề phụ thuộc nước ngoài cả về chính trị lẫn kinh tế và làm
giảm dự trữ ngoại hối quá nhiều khi trả nợ, làm cạn dự trữ quốc gia sẽ dẫn đến
khủng hoảng tỷ giá.
c. Tăng các khoản thu.

Tăng các khoản thu: Việc tăng các khoản thu (đặc biệt là thuế) có thể bù đắp thâm
hụt ngân sách nhà nước và giảm bội chi ngân sách nhà nước. Tăng thu ngân sách
nhà nước bằng biện pháp tích cực khai thác mọi nguồn thu, thay đổi và áp dụng các

sắc thuế mới, nâng cao hiệu quả thu. Tuy nhiên, cần lưu ý khi tăng thu vẫn phải chú
ý khuyến khích các ngành, vùng trọng điểm để tạo lực đẩy cho nền kinh tế và phải
xác định cái gốc cơ bản là phải tăng thu ngân sách nhà nước bằng chính sự tăng
trưởng kinh tế. Dù vậy, đây khơng phải là giải pháp cơ bản để xử lý bội chi ngân
sách nhà nước, bởi vì nếu tăng thuế khơng hợp lý sẽ làm giá cả hàng hóa tăng gây
ảnh hưởng lớn đến sản xuất, đời sống nhân dân, đặc biệt nghiêm trọng hơn sẽ triệt
tiêu động lực của các doanh nghiệp trong các ngành sản xuất, kinh doanh và làm
mất đi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế đối với các nước trong khu vực và trên
thế giới.
Thuế là khoản thu mang tính chất cưỡng chế do nhà nước huy động từ các tổ
chức, cá nhân và tập trung vào quỹ ngân sách nhà nước. Thuế đánh vào hầu hết các
lĩnh vực: xây dựng, cải tạo, sửa chữa, khai thác, chế biến, xuất-nhập khẩu…Do vậy
thu từ thuế là khoản thu chiếm tỉ trọng chủ yếu trong ngân sách nhà nước. Việc tăng
các khoản thu đặc biệt là thuế sẽ góp phần bồi đắp sự thâm hụt và bội chi ngân sách
nhà nước. Thu đúng và đủ thuế sẽ góp phần khuyến khích sản xuất kinh doanh phát
triển, bảo đảm phát triển kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, việc tăng thu này cần phải đúng và đủ theo quy định của pháp luật,
nếu không sẽ gây ra hậu quả tăng giá cả hàng hóa gây ảnh hưởng đến đời sống nhân
dân, nghiêm trọng hơn sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của các doanh nghiệp.
11


d.

Triệt để tiết kiệm các khoản chi.

Tiết kiệm các khoản chi đầu tư công và chi thường xuyên từ NSNN. Đây là một
giải pháp tuy mang tính tình thế nhưng vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia khi
xảy ra tình trạng bội chi NSNN và xuất hiện lạm phát. Triệt để tiết kiệm các khoản
đầu tư cơng có nghĩa là chỉ đầu tư vào những dự án mang tính chủ đạo, hiệu quả để

tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt là những dự án chưa
hoặc khơng hiệu quả thì phải cắt giảm, thậm trí khơng đầu tư. Mặt khác, bên cạnh
việc tiết kiệm các khoản đầu tư công, những khoản chi thường xuyên của các cơ
quan nhà nước cũng cần phải cắt giảm nếu những khoản chi này không hiệu quả và
chưa thực sự cần thiết.
Cắt giảm được các khoản như chi phí quản lý, mua sắm trang bị. Còn tiết kiệm
chi cho nhu cầu thường xuyên (chủ yếu chi cho con người) về hoạt động bộ máy nhà
nước từ trung ương đến địa phương là không đáng kể. Vấn đề cắt giảm chi trả nợ
trong nước là điều khơng thể thực hiện được, khoản nợ nước ngồi đến hạn thì nhà
nước phải trả, kể cả các khoản vốn của các tổ chức tài chính, tiền tệ thế giới cho
quốc gia vay với lãi suất thấp, ưu đãi để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, việc cắt
giảm chi tiêu dùng cho kinh tế – văn hóa – xã hội cũng có giới hạn nhất định. Cắt
giảm chi tích lũy cho đầu tư phát triển là điều dễ mâu thuẫn với yêu cầu tăng trưởng
kinh tế – xã hội. Vậy chỉ cắt giảm được các nhu cầu đầu tư chưa thực sự cần thiết,
các dự án chưa có điều kiện khả thi, không nên đầu tư vốn một cách dàn trải, mà cần
đầu tư những dự án, những cơng trình trọng điểm và then chốt.
e. Tăng cường vai trị quản lý của cơ quan Nhà nước.

Ngồi các giải pháp trên chúng ta cần phải tăng cường vai trò quản lý nhà nước
nhằm bình ổn giá cả, ổn định chính sách vĩ mơ và nâng cao hiệu quả hoạt động trong
các khâu của nền kinh tế. Theo đó để thực hiện vai trị của mình, nhà nước sử dụng
một hệ thống chính sách và cơng cụ quản lý vĩ mô để điều khiển, tác động vào đời
sống kinh tế và xã hội, với mục đích chính để giải quyết các mối quan hệ trong nền
kinh tế cũng như đời sống xã hội, nhất là mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với giữ gìn mơi trường hiện nay.

12


KẾT LUẬN

Trong bối cảnh tình hình nợ cơng và chi tiêu ngân sách chính gặp nhiều thách
thức. Tuy vậy nợ cơng ở nước ta đang ở mức an tồn, Việt Nam chưa phải đối mặt
với các rủi ro quá lớn. Cần kiến tạo động lực cho hồi phục và phát triển kinh tế bị
ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-19 lần thứ 4 đang là mối đe dọa được quan
tâm hàng đầu của các chuyên gia, Chính phủ và toàn dân hiện nay. Hàng loạt giải
pháp được các cơ quan liên quan đưa ra xem xét, trong đó có tính tới giải
pháp nới trần nợ cơng trong thời điểm này. Nhiều chuyên gia đưa ra quan điểm:
“Nên hay không “nới trần nợ cơng” để tạo “dư địa” tài chính tạo dư địa cho hồi phục
và phát triền kinh tế”. Đây cũng là vấn đề mà không chỉ riêng Việt Nam mà còn
nhiều nước trên thế giới cũng đang bàn luận và có các quyết sách trước bối cảnh cần
kích thích tăng trưởng kinh tế do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Tại các nước
Đông Nam Á, việc nới lỏng “nới trần nợ công” cũng đã được nhiều quốc gia trong
khu vực áp dụng để ứng phó với đại dịch, gần đây nhất là Thái Lan đã nới trần nợ
công từ 60% GDP lên 70% GDP. Để kích thích tăng trưởng, tạo động lực cho tăng
trưởng kinh tế, nợ công ln là một trong các ưu tiên của Chính phủ các nước, nhằm
mở rộng chi tiêu và đầu tư, để kích thích tăng trưởng, bảo đảm an sinh xã hội. Tuy
nhiên, tình trạng nợ nần chồng chất dẫn đến các cuộc khủng hoảng nợ, cũng là nỗi
ám ảnh của các quốc gia trên thế giới, mà đỉnh điểm là khủng hoảng nợ công tại các
nước châu Âu và nhiều quốc gia khác. Vấn đề mấu chốt ở đây, xét đến cũng là cần
duy trì nợ cơng ở mức an tồn mà nền kinh tế có thể kiểm sốt được, đó cũng chính
là lý do các nước phải quy định “trần nợ cơng”. Tóm lại, nợ cơng ln là cơng cụ
trong việc huy động nguồn vốn cho phát triển kinh tế của các nước, đồng thời nợ
công cũng là chỉ tiêu kinh tế quan trọng đánh giá tín nhiệm và sự an tồn tài chính
của một quốc gia. Việt Nam, những năm gần đây luôn được các tổ chức quốc tế tín
nhiệm về an tồn nợ, trong đó có nợ cơng; Việt Nam cũng là quốc gia có kinh
nghiệm trong kiểm sốt nợ và duy trì các chỉ số nợ bền vững. Trong bối cảnh đại
dịch COVID-19 lần 4 với những tác động tiêu cực đối với phát triển kinh tế - xã hội,
tạo áp lực lớn đối với chi tiêu ngân sách Nhà nước, do vậy đề xuất “nới trần nợ
cơng” ở mức độ phù hợp, linh hoạt, có kiểm sốt, cần có quyết sách kịp thời của
Quốc hội và Chính phủ. Để giảm thâm hụt ngân sách trong đại dịch Covid-19 hiện

nay Chính phủ cần cân nhắc các giải pháp nhằm giảm rủi ro lạm phát. Cần kết hợp
nhuần nhuyễn các giải pháp để đạt được mức giảm thâm hụt ngân sách đúng theo
chỉ tiêu đã đề ra.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Giáo trình kinh tế vĩ mô
2 />3 />4 />5 />ItemID=38874&l=TinTucSuKien
6 />
14



×