Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Phép biện chứng về phủ định và vận dụng phân tích việc kế thừa và phát triển sang tạo các giá trị truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.62 MB, 14 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
KHOA: LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
………….o0o………….

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
PHÉP BIỆN CHỨNG PHỦ ĐỊNH VÀ VẬN DỤNG PHÂN TÍCH
VIỆC KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CÁC GIÁ TRỊ
TRUYỀN THỐNG TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HIỆN
NAY
Sinh viên thực hiện

: Lê Nguyễn Phƣơng Linh

Mã sinh viên

: 2114330016

Số thứ tự:

: 46

Lớp tín chỉ

: TRI114 K60.6

Giảng viên hƣớng dẫn : TS. Đào Thị Trang

Hà Nội, tháng 11 năm 2021
1



MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................................................................... 2
LỜI MỞ ĐẦU................................................................................................................................................ 3
NỘI DUNG .................................................................................................................................................... 4
I. Phép biện chứng về phủ định ................................................................................................................... 4
1. Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng...................................................................................... 4
1.1. Định nghĩa ........................................................................................................................................ 4
1.2. Các đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng ............................................................................. 4
2. Quy luật phủ định của phủ định .......................................................................................................... 5
3. Ý nghĩa của phƣơng pháp luận ............................................................................................................ 6
II. Vận dụng phép biện chứng phủ định trong việc kế thừa và phát triển sáng tạo các giá trị truyền
thống trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay............................................................................................... 6
1. Giá trị truyền thống của nƣớc ta hiện nay .......................................................................................... 6
1.1. Khái niệm .......................................................................................................................................... 6
1.2. Các giá trị truyền thống của Việt Nam ............................................................................................ 7
2. Vai trò của phủ định biện chứng trong kế thừa và phát triển sáng tạo các giá trị truyền thống
trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay ...................................................................................................... 8
2.1. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay là sự thống nhất của hai quá
trình giữ lại và lọc bỏ .............................................................................................................................. 8
2.2. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ta trong bối cảnh hiện nay chính là quá trình bổ
sung, phát triển hơn nữa những “hạt nhân hợp lý” trong truyền thống văn hóa ............................... 9
2.3. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay cần phải chống hai khuynh
hướng sai lầm: khuynh hướng bảo thủ và khuynh hướng phủ định sạch trơn đối với truyền thống
văn hóa của dân tộc................................................................................................................................. 10
2.4. Kế thừa và phát triển sáng tạo truyền thống văn hóa dân tộc gắn liền với quá trình mở rộng
giao lưu, học hỏi và tiếp nhận những giá trị văn hóa của các dân tộc khác trên thế giới ................... 11
KẾT LUẬN.................................................................................................................................................... 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................................................ 14

2



LỜI MỞ ĐẦU

Một hệ quả quan trọng của cách mạng khoa học – công nghệ là từ đầu những năm 80 của thế
kỉ XX, nhất là từ sau Chiến tranh lạnh, trên thế giới đã diễn ra xu thế toàn cầu hóa. Xét về bản
chất, tồn cầu hóa là q trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, những ảnh hưởng tác động
lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới. Mọi
quốc gia trên thế giới đều đang có những thay đổi trong những chính sách kinh tế, chính trị,
ngoại giao và tất cả các khía cạnh khác của đất nước để tận dụng triệt để, hiệu quả những tác
động tích cực của xu hướng này. Để không bị tụt hậu trong bối cảnh ấy cũng như thúc đẩy đất
nước ngày một phát triển, Việt Nam đã và đang không ngừng tham gia, hội nhập vào các tổ chức
thế giới như WHO, APEC, ASEAN....Các tổ chức ấy là một trong những nhân tố để đất nước
chúng ta hội nhập sâu hơn vào tiến trình tồn cầu hóa của nhân loại, nhằm mục tiêu đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, với phương châm đi tắt đón đầu, kéo gần khoảng cách
với các nước phát triển, tạo tiền đề cho quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Là kết quả của quá trình tăng tiến mạnh mẽ của lựa lượng sản xuất, tồn cầu hóa là xu thế
khách quan, là một thực tế không thể đảo ngược được. Nó có mặt tích cực và tiêu cực, nhất là
đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Một mặt, tồn cầu hóa sẽ mang lại thời
cơ lớn để phát triển, xây dựng kinh tế xã hội. Nhưng mặt khác, chúng ta cũng phải đối mặt với
nhiều nguy cơ, nổi trội và đáng quan tâm trong đó là nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc,
đi lệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thấy tầm quan trọng cũng như tính thời đại của vấn đề kế thừa và phát triển sáng tạo
truyền thống của dân tộc trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, tôi quyết định lựa chọn đề tài:
“Phép biện chứng về phủ định và vận dụng phân tích việc kế thừa và phát triển sang tạo các
giá trị truyền thống trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay”. Cuốn tiểu luận này tập trung vào
phân tích phép phủ định biện chứng và ứng dụng thực tiễn của nó trong vấn đề duy trì và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Thơng qua đó, tơi hy vọng có thể đóng góp một
phần cơng sức của mình trong sứ mệnh đưa đất nước tiến vào con đường phát triển, hội nhập
quốc tế mà vẫn giữ vững được những giá trị cốt lõi thiêng liêng, những nét rất riêng ở bản sắc

dân tộc.

3


NỘI DUNG
I. Phép biện chứng về phủ định
1. Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng
1.1. Định nghĩa
Xuyên xuốt chiều dài lịch sử, các trường phái triết học có những quan niệm khác nhau về
sự phủ định. Theo quam niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong thế giới vật chất, mọi sự vật,
hiện tượng đều có q trình sinh ra, tồn tại, phát triển rồi mất đi và được thay thế bằng sự vật,
hiện tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của cùng một sự
vật trong quá trình vận động và phát triển của nó. Sự thay thế đó gọi là sự phủ định.
Phủ định biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự phủ định, tiền đề cho quá trình phát
triển của sự vật. Những sự phủ định tạo ra điều kiện làm tiền đề, tạo điều kiện cho quá trình
phát triển. Phủ định biện chứng làm cho sự vật, hiện tượng mới ra đời thay thế sự vật, hiện
tượng cũ và là yếu tố liên hệ giữa sự vật, hiện tượng cũ với sự vật, hiện tượng mới. Phủ định
biện chứng là tự phủ định, tự phát triển của sự vật, hiện tượng; là “mắt xích” trong “sợi dây
chuyền” dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng mới, tiến bộ hơn so với sự vật, hiện tượng
cũ.
1.2. Các đặc trƣng cơ bản của phủ định biện chứng
Theo quan niệm của các nhà kinh điển, phủ định biện chứng có hai đặc điểm cơ bản là
tính khách quan và tính kế thừa.
Thứ nhất, phủ định biện chứng có tính khách quan vì ngun nhân của sự phủ định nằm
trong chính bản thân sự vật, hiện tượng. Nó là kết quả của quá trình đấu tranh giải quyết mâu
thuẫn tất yếu, bên trong của bản thân sự vật, tạo khả năng ra đời của cái mới thay thế cái cũ.
Đồng thời mỗi sự vật có một phương thức phủ định riêng tùy thuộc vào những thuộc tính và
cách giải quyết mâu thuẫn của bản thân sự vật. Điều đó cũng có nghĩa phủ định biện chứng
khơng phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con người. Vì vậy, phủ định biện chứng cũng chính

là sự tự thân phủ định.
Thứ hai, phủ định biện chứng có tính kế thừa. Phủ định biện chứng là kết quả của sự tự
thân phát triển trên cơ sở giải quyết mâu thuẫn vốn có của sự vật, hiện tượng. Vì thế, cái mới
ra đời không phải là một sự phủ định tuyệt đối, phủ định sạch trơn mà là một sự phủ định có
tính kế thừa. Sự phủ định ấy khơng chỉ đơn thuần là thủ tiêu, phá hủy cái cũ mà còn là sự giữ
lại và phát triển những nhân tố tích cực đã có. Cái cũ khi mất đi khơng có nghĩa là mất đi
hồn tồn, mà trong đó vẫn được bảo tồn và giữ lại những “hạt nhân hợp lý” để tạo tiền đề
cho sự phát triển tiếp theo. Ngược lại, cái mới phát triển cao hơn không phải từ hư vô, trên
mảnh đất trông không, mà là kết quả phát triển hợp quy luật từ những gì hợp lý của cái cũ.
4


Diễn đạt tư tưởng đó, V.I.Lênin viết: “Khơng phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ
định không suy nghĩ, khơng phải sự phủ định hồi nghi, khơng phải sự do dự, cũng không
phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong các phép biện chứng..., mà là sự phủ
định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng
định” Bởi vậy, phủ định biện chứng là khuynh hướng tất yếu của mối liên hệ bên trong giữa
cái cũ và cái mới, là sự tự khẳng định của các quá trình vận động, phát triển của sự vật.
2. Quy luật phủ định của phủ định
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ định biện chứng là một q trình
vơ tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và lại bị cái mới khác phủ
định... Cứ như vậy sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh hướng phủ định
của phủ định từ thấp đến cao một cách vô tận theo “đường xốy ốc”. V.I.Lênin khẳng định:
“Sự phát triển hình như diễn ra những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở
một trình độ cao hơn (“phủ định của phủ định”); sự phát triển có thể nói là theo đường trôn
ốc chứ không theo đường thẳng”. Trong chuỗi phủ định tạo nên quá trình phát triển của sự
vật, mỗi lần phủ định biện chứng đều tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự phát triển tiếp
theo của nó. Sau những lần phủ định tiếp theo, tái lập cái ban đầu nhưng trên cơ sở mới cao
hơn, nó thể hiện rõ rệt bước tiến của sự vật. Những lần phủ định tiếp theo đó được gọi là sự
phủ định của phủ định.

Quy luật phủ định của phủ định coi sự phát triển của sự vật, hiện tượng là do mâu thuẫn
bên trong của chúng quy định. Mỗi lần phủ định là kết quả của sự đấu tranh và chuyển hóa
giữ những mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng. Phủ định lần thứ nhất làm cho sự vật, hiện
tượng cũ trở thành sự vật, hiện tượng đối lập với nó; phủ định lần thứ hai dẫn đến sự ra đời
của sự vật, hiện tượng mới mang nhiều nội dung tích cực của sự vật, hiện tượng cũ nhưng
cũng đã mang khơng ít nội dung đối lập với sự vật, hiện tượng đó. Kết quả là về hình thức, sự
vật, hiện tượng mới (ra đời do phủ định của phủ định) sẽ lại trở về sự vật, hiện tượng xuất
phát (chưa bị phủ định lần nào), nhưng về nội dung không phải trở lại chúng giống y như cũ,
mà chỉ dường như lặp lại chúng, bởi đã trên cơ sở cao hơn. Phủ định biện chứng chỉ là một
giai đoạn trong q trình phát triển, vì chỉ thơng qua phủ định của phủ định mới dẫn đến sự
ra đời của sự vật, hiện tượng mới, và như vậy, phủ định của phủ định mới hoang thành được
một chu kỳ phát triển, đồng thời lại tạo ra điểm xuất phát của chu kỳ phát triển tiếp theo. Mỗi
lần phủ định biện chứng thực hiện xong sẽ mang theo những yếu tố tích cực mới; do vậy, sự
phát triển thơng qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng phát triển khơng
ngừng của sự vật, hiện tượng.
Tóm lại, quy luật phủ định của phủ định phản ánh mối liên hệ, sự kế thừa thông qua khâu
trung gian giữa cái bị phủ định và cái phủ định; do có kế thừa nên phủ định biện chứng
không phải là sự phủ định sạch trơn mà là điều kiện cho sự phát triển, nó lưu giữ nội dung
tích cực của các giai đoạn trước, lặp lại một số đặc điểm chủ yếu của cái ban đầu trên cơ sở
mới cao hơn; do vậy, sự phát triển có tính chất tiến lên khơng hẳn theo đường thẳng, mà theo
5


đường xốy ốc. Nhận xét về vai trị của quy luật này, Ph.Ăngghen đã viết: “...phủ định cái
phủ định là gì? Là một quy luật vơ cùng phổ biến và chính vì vậy mà có một tầm quan trọng
và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, của lịch sử và của tư duy”.
3. Ý nghĩa của phƣơng pháp luận
Thứ nhất, quy luật này chỉ ra khuynh hướng tiến lên của sự vận động của sự vật, hiện
tượng; sự thống nhất giữa tính tiến bộ và tính kế thừa của sự phát triển; sau khi trải qua các
mắt xích chuyển hóa, có thể xác định được kết quả cuối cùng của sự phát triển.

Thứ hai, quy luật này giúp nhận thức đúng về xu hướng của sự phát triển, đó là q trình
diễn ra quanh co, phức tạp. Theo V.I.Lênin viết: “Cho rằng lịch sử thế giới phát triển đều đặn
không va vấp, không nhảy lùi những bước rất lớn là không biện chứng, khơng khoa học,
khơng đúng về mặt lí luận”
Thứ ba, quy luật này giúp nhận thức đầy đủ hơn về sự vật, hiện tượng mới ra đời phù hợp
với quy luật phát triển, biểu hiện giai đoạn cao về chất trong sự phát triển. Trong tự nhiên, sự
xuất hiện của sự vật, hiện tượng mới diễn ra tự phát; nhưng trong xã hội, sự xuất hiện mới
gắn với nhận thức và hành động có ý thức của con người.
Thứ tư, tuy sự vật, hiện tượng mới thắng sự vật, hiện tượng cũ, nhưng trong thời gian nào
đó, sự vật, hiện tượng cũ cịn mạnh hơn; vì vậy, cần ủng hộ sự vật, hiện tượng mới, tạo điều
kiện cho nó phát triển hợp quy luật; biết kế thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực và hợp lý
của sự vật, hiện tượng cũ, làm cho nó phù hợp với xu thế vận động và phát triển của sự vật,
hiện tượng mới.
II. Vận dụng phép biện chứng phủ định trong việc kế thừa và phát triển sáng tạo các giá trị
truyền thống trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay
1. Giá trị truyền thống của nƣớc ta hiện nay
1.1. Khái niệm
Truyền thống là một khái niệm tương đối trừu tượng. Theo cách hiểu trong Từ điển Hán
Việt, truyền thống là truyền từ đời nọ đến đời kia, từ thế hệ trước đến thế hệ sau. Theo Từ
điển Trung Quốc, truyền thống được định nghĩa là sức mạnh của tập quán xã hội, lưu truyền
từ lịch sử và vẫn có giá trị cho đến tận ngày nay. Theo từ điển chính trị vắn tắt, truyền thống
là những giá trị được xét trên hai mặt xã hội và văn hóa, được truyền từ đời này sang đời
khác, được giữ gìn và biểu hiện trong suốt thời gian dài. Tựu chung lại, có thể hiểu truyền
thống là những đức tính, tập quán, tư tưởng và lối sống được hình thành trong đời sống và
được xã hội cơng nhận, nó được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác và có tác dụng to lớn
đối với mỗi cá nhân và toàn xã hội. Là tài sản tinh hoa của thế hệ trước chuyển giao cho thế
hệ sau. Truyền thống thể hiện ở nhiều lĩnh vực như tư tưởng, văn hóa, chính trị – xã hội.
Tính kế thừa của lịch sử là biểu hiện đặc trưng của truyền thống. Thế hệ sau có trách nhiệm
giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống do ông cha để lại. Truyền thống là các chuỗi
6



thành tựu mà con người ghi nhận được cùng với thời gian, cùng với cuộc sống của mình.
Truyền thống tự nhiên xuất hiện. Tuy nhiên, truyền thống có tác động đến hành vi của con
người, theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực. Mặt tích cực bao gồm những yếu tố, ưu việt,
tiến bộ, phù hợp với sự phát triển của xã hội, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Mặt
tiêu cực là hiện thân của sức ỳ, của sự bảo thủ, lạc hậu, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của
xã hội.
Giá trị là những quan niệm và thực tại về cái đẹp, sự thật, điều thiện của một xã hội; là
một phạm trù triết học, xã hội học chỉ tính có ích, có ý nghĩa của những sự vật, hiện tượng tự
nhiên hay xã hội có khả năng thoả mãn nhu cầu, phục vụ lợi ích của con người. Chính vì vậy,
khi nói đến giá trị truyền thống là nói đến những mặt tốt đẹp, mặt tích cực, là cái đặc trưng
cho bản sắc văn hóa dân tộc. Hơn nữa, khơng phải cái gì tốt cũng được gọi là giá trị truyền
thống, mà nó cịn phải có tính phổ biễn, cơ bản, có ảnh hưởng tích cực trong đời sống xã hội.
Như vậy giá trị truyền thống là tập hợp những nhân tố tích cực, phổ biến về tư tưởng, tình
cảm, thói quen, tập quán lối sống, được hình thành và phát triển trong lịch sử, đã trở nên ổn
định và lâu bền, có khả năng lưu truyền trong không gian và thời gian, là những gì mà con
người cần giữ gìn và phát triển. Việc phân biệt các loại giá trị là rất quan trọng vì nó sẽ giúp
cho chúng ta có được một cái nhìn khách quan, biện chứng, tránh được sự tuỳ tiện, chủ quan,
cực đoan khi xem xét các giá trị, đề phòng cả hai khuynh hướng đã từng xảy ra, hoặc là phủ
nhận sạch trơn mọi truyền thống và giá trị truyền thống, hoặc là lưu truyền thiếu phê phán,
tán dương quá đáng những truyền thống ít giá trị hay khơng cịn giá trị, thậm chí có hại hoặc
cản trở sự phát triển.
1.2. Các giá trị truyền thống của Việt Nam
Việt Nam tự hào là một quốc gia giàu giá trị truyền thống, gồm nhiều những thói quen,
lối sống, tinh thần tích cực được hình thành từ xa xưa.
Đáng quý, đáng trân trọng nhất phải kể đến truyền thống u nước của dân tộc Việt Nam.
Đó chính là vũ khí mạnh mẽ nhất, góp phần làm nên những chiễn thắng vang dội trong suốt
chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta. Bên cạnh đó tinh thần đoàn kết
cũng là một giá trị truyền thống lâu đời, mang đậm bản sắc văn hóa người Việt. Đó là những

chuyến xe tiếp tế mùa thiên tai, mùa dịch bệnh; là tinh thần “Lá lành đùm lá rách” đáng quý
và đáng trân trọng. Không những vậy, người dân Việt Nam còn được biết đến với sự cần cù,
chịu thương chịu khó, với lịng hiếu khách nồng nhiệt,...
Những giá trị truyền thống ấy được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, được nâng
niu trong mỗi trang sử huy hoàng, được kết tạo thấm đẫm trong tâm hồn mỗi người dân, đã
tạo nên cốt cách của con người Việt Nam. Các giá trị văn hoá truyền thống khơng chỉ có ý
nghĩa trong lịch sử, mà cịn có tầm quan trọng trong hiện tại và tương lai. Vì thế, việc kế thừa
và phát huy các giá trị truyền thống được đặt ra như một tất yếu mang tính khách quan và cấp
thiết, đặc biệt là trong thời kỳ hiện nay, khi nước ta đang trong q trình cơng nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
7


2. Vai trò của phủ định biện chứng trong kế thừa và phát triển sáng tạo các giá trị truyền
thống trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay
Kế thừa biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự vật, hiện tượng mới ra đời vẫn giữ lại có
chọn lọc và cải tạo yếu tố cịn thích hợp để chuyển sang chúng; loại bỏ các yếu tố khơng cịn
thích hợp của sự vật, hiện tượng cũ đang gây cản trở cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng
mới. Kế thừa biện chứng đảm bảo mối dây liên hệ thông suốt, bền chặt giữa đối tượng mới
với đối tượng cũ, giữa nó với q khứ của chính nó. Trong trường hợp này những yếu tố còn
tỏ ra phù hợp với đối tượng mới từ đối tượng cũ nhưng vẫn cần phải chịu sự cải tạo mạnh mẽ
cho phù hợp với bản chất mà đối tượng mới đang tạo lập và những yếu tố mới mà đối tượng
mới đang ra sức xây dựng, bổ sung, là nội dung của khâu trung gian, của cái trung giới
(Hegel), của bước chuyển, của sự quá độ từ cũ sang mới. Trong cái trung giới chứa đựng cả
những yếu tố cũ, lỗi thời đang dần mất đi, và những yếu tố mới đang xuất hiện, đang trưởng
thành và sẽ dần được khẳng định. Giá trị của sự kế thừa biện chứng chịu sự quy định bởi vai
trò của yếu tố phù hợp được kế thừa; do vậy, việc giữ lại yếu tố tích cực của sự vật, hiện
tượng bị phủ định làm cho sự vật, hiện tượng mới có chất giàu hơn, phát triển cao hơn, tiến
bộ hơn.
Thấm nhuần tư tưởng đó, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong quá trình lãnh

đạo đất nước, Đảng ta ln kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những di sản quý báu của dân tộc và
nhân loại. Trong đó, truyền thống văn hóa của dân tộc được Đảng ta kế thừa và phát huy triệt
để, góp phần trực tiếp nâng truyền thống văn hóa của dân tộc và các giá trị của nó lên một
tầm cao mới, với một chất lượng mới. Những thành tựu đạt được qua 25 năm đổi mới đã
chứng minh sự đúng đắn trong quan điểm của Đảng ta nhằm khai thác, kế thừa, phát huy các
giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc vào xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN. Phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương năm khóa VIII, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu
khẳng định: “Phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhân
lên sức mạnh của nhân dân ta để vượt qua khó khăn, thử thách, xây dựng và phát triển kinh
tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo ra thế và lực mới
cho đất nước ta bước vào thế kỷ 21”. Trước bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới, khu vực
và trong nước hiện nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của tồn cầu hóa, của cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ, của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã, đang và sẽ đặt ra cho
chúng ta những khó khăn, thách thức lớn đối với việc kế thừa các giá trị truyền thống văn
hóa của dân tộc. Vì vậy, nhiệm vụ giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống văn hóa của
dân tộc trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN thời kỳ mới càng trở
nên cấp thiết và nặng nề hơn bao giờ hết.
2.1. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nƣớc ta hiện nay là sự thống nhất của
hai quá trình giữ lại và lọc bỏ
Trước hết, kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay, về thực chất là
một quá trình phủ định biện chứng các mặt, các yếu tố, thuộc tính và các bộ phận cấu thành
của nó. Sự kế thừa đó khơng phải là loại bỏ hồn tồn hay phủ định sạch trơn truyền thống
văn hóa, cắt đứt sợi dây liên hệ giữa quá khứ, truyền thống với hiện tại và tương lai; nó cũng
khơng phải là bê ngun xi hồn tồn truyền thống văn hóa mà là sự kế thừa có chọn lọc, kế

8


thừa có điều kiện, tức là chỉ giữ lại những “hạt nhân hợp lý”, những yếu tố cịn tích cực, tiến
bộ, đồng thời loại bỏ những yếu tố tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu trong truyền thống văn hóa.

Do điều kiện đặc thù của sự sinh tồn, truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam từng
bước được hình thành và phát triển. Truyền thống đó đã đồng hành và phát huy sức mạnh của
nó trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam. Truyền thống ấy cũng thường xuyên được các thế hệ người Việt Nam kế tiếp tuyển
chọn và sàng lọc, loại bỏ những yếu tố khơng cịn phù hợp, giữ lại những nhân tố tích cực,
tiến bộ, những “hạt nhân hợp lý”. Nhờ đó, dân tộc Việt Nam luôn đứng vững trước muôn vàn
thử thách, chiến thắng tất cả các thế lực ngoại xâm, bảo vệ vững chắc nền độc lập, chủ quyền
của dân tộc, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc và cuộc sống hịa bình, hạnh phúc của nhân dân.
Vì vậy, khi nhận thức và hành động, các chủ thể văn hóa cần có thái độ khách quan, khoa
học trong giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc. Tích cực đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu, thông
qua điều tra, khảo sát, đánh giá phân loại một cách có hệ thống, đồng bộ để lưu giữ những
truyền thống văn hóa cịn tiến bộ, cịn phát huy tác dụng. Kiên quyết loại bỏ những gì của
truyền thống văn hóa đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, khơng còn phát huy tác dụng. Xây dựng
một thái độ đúng mực đối với những gì cần được bảo tồn, giữ gìn. Cái gì cần được bảo tồn,
giữ gìn thì phải bảo tồn, giữ gìn ngay từ khi nó cịn đang tồn tại. Hiện nay, trong hệ các giá
trị truyền thống văn hóa của dân tộc có rất nhiều giá trị độc đáo, đặc sắc cần phải được giữ
gìn, kế thừa và phát huy. Đó là những giá trị tiêu biểu mang tính ổn định, lâu dài, là tư chất
thấm đẫm trong cốt cách mỗi người con đất Việt, và là điểm tựa để Việt Nam phát triển đi
lên.
2.2. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ta trong bối cảnh hiện nay chính là q
trình bổ sung, phát triển hơn nữa những “hạt nhân hợp lý” trong truyền thống văn hóa
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã xây dựng nên
truyền thống văn hóa với những giá trị đặc sắc, độc đáo, mang sắc thái riêng của dân tộc Việt
Nam. Trong q trình phát triển, truyền thống văn hóa của dân tộc không hề đứng yên và bất
biến, mà trái lại luôn được các thế hệ người Việt Nam kế tiếp kế thừa, bổ sung, phát triển và
đổi mới liên tục. Đặc biệt, ở những thời kỳ chuyển biến mạnh mẽ của lịch sử, vào những thời
điểm chuyển giao thời đại, nhiều giá trị, nhiều khía cạnh của truyền thống văn hóa dân tộc
cũng có sự thay đổi mang tính bước ngoặt.
Thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới đã và đang đặt ra
những yêu cầu, nội dung và hình thức mới cho việc bổ sung, phát triển truyền thống văn hóa

của dân tộc. Dựa trên nền tảng của những “hạt nhân hợp lý” trong truyền thống văn hóa dân
tộc được giữ lại, cần tích cực bổ sung, phát triển thêm các giá trị mới, bảo đảm cho sự phát
triển của hệ thống các giá trị văn hóa dân tộc ln là một dịng chảy liên tục, không đứt đoạn.
Các giá trị mới là những cái mới phù hợp, cái mới đang phát huy tốt tác dụng theo quan điểm
của Đảng và nhân dân ta. Các giá trị mới ở đây khơng phải hồn tồn tách rời giá trị văn hóa
9


truyền thống của dân tộc, tinh hoa của nhân loại, càng không phải do ý muốn chủ quan của
một vài cá nhân áp đặt, mà nó được hình thành trong sự kế thừa biện chứng, trong sự tiếp nối
hợp lơgíc các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc qua hàng nghìn năm lịch sử. Trong đó,
các giá trị văn hóa truyền thống cần phải được bảo tồn và phát huy trong những giá trị văn
hóa hiện đại và ngược lại, những giá trị văn hóa hiện đại phải dựa trên nền các giá trị văn hóa
truyền thống, lấy nó làm điểm tựa để phát triển. Chẳng hạn, truyền thống đoàn kết cố kết dân
tộc để giữ nước: “Cử quốc nghênh địch”, “cả nước chung sức đánh giặc” của các triều đại
phong kiến Việt Nam trước đây có thể được kế thừa và nâng cao trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN thời kỳ mới thành tư tưởng đại đoàn kết toàn dân, đại
đoàn kết dân tộc, toàn dân tham gia phát triển kinh tế, tồn dân tham gia xây dựng nền quốc
phịng, tồn dân sẵn sàng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, toàn dân tham gia bảo vệ an
ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Truyền thống “ngụ binh ư nông”, “động vi
binh, tĩnh vi dân” vẫn có thể được kế thừa và phát triển thành các quan điểm như: kết hợp
chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng – an ninh và ngược lại; kết hợp giữa xây dựng với bảo
vệ, bảo vệ với xây dựng; kết hợp giữa xây dựng đất nước với xây dựng các tiềm lực của nền
quốc phịng tồn dân và tiềm lực của chiến tranh nhân dân; kết hợp giữa xây dựng đất nước
với xây dựng thế trận quốc phịng tồn dân và thế trận an ninh nhân dân.
2.3. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nƣớc ta hiện nay cần phải chống hai
khuynh hƣớng sai lầm: khuynh hƣớng bảo thủ và khuynh hƣớng phủ định sạch trơn
đối với truyền thống văn hóa của dân tộc.
Trong hai khuynh hướng này, khuynh hướng bảo thủ thực chất là khuynh hướng đề cao,
tuyệt đối hóa truyền thống văn hóa dân tộc. Coi truyền thống văn hóa dân tộc là cái bất biến,

khơng thể thay đổi được và vì vậy kế thừa nguyên xi, không cần phải bổ sung, sửa đổi và
phát triển. Từ đó dẫn đến “đóng cửa”, từ chối hoặc hạ thấp việc tiếp thụ các giá trị văn hóa
bên ngồi. Việc bảo thủ, khép kín trước u cầu hiện đại hóa, hội nhập tạo nên sự trì trệ trong
đời sống, sự đơng cứng văn hóa. Việc đó đồng nghĩa với việc đưa vắn hóa dân tộc đến chỗ
suy thối, chỗ bế tắc, tự trói buộc bản thân mình.
Khuynh hướng phủ định sạch trơn là khuynh hướng xuất hiện ngay từ những năm đầu
xây dựng CNXH ở nước Nga. Những người theo khuynh hướng phủ định sạch trơn tập hợp
trong phái “văn hóa vơ sản” chủ trương xây dựng một nền văn hóa mới từ đầu, đoạn tuyệt
hẳn với văn hóa của chế độ Nga hồng cũ. V.I.Lênin đã kịch liệt phê phán những người theo
khuynh hướng này. Người viết: “Văn hóa vơ sản khơng phải bỗng nhiên mà có, nó khơng
phải do những người tự cho mình là chun gia về văn hóa vơ sản, phát minh ra. Đó hồn
tồn là điều ngu ngốc. Văn hóa vơ sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những
kiến thức mà lồi người đã tích lũy được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn
địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”. Ở Việt Nam, khuynh hướng phủ định sạch trơn đã
từng xuất hiện trong cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa trước đây. Hậu quả của khuynh
hướng này là nhiều giá trị truyền thống văn hóa và những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân
tộc bị xóa bỏ hoặc lãng qn; nhiều di tích lịch sử, văn hóa bị tàn phá nặng nề hoặc bị xuống
10


cấp nghiêm trọng; nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp không được bảo tồn, lưu giữ, dần dần bị
mai một.
2.4. Kế thừa và phát triển sáng tạo truyền thống văn hóa dân tộc gắn liền với q trình
mở rộng giao lƣu, học hỏi và tiếp nhận những giá trị văn hóa của các dân tộc khác trên
thế giới
Mở rộng giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa các quốc gia, dân tộc với nhau là một vấn đề
có tính quy luật của mọi nền văn hóa, đồng thời cũng là một trong những động lực cơ bản
thúc đẩy sự phát triển văn hóa của mỗi dân tộc. Đảng ta chỉ rõ: “Văn hóa Việt Nam là thành
quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thụ tinh hoa của nhiều nền văn

minh thế giới để khơng ngừng hồn thiện mình”. Trong lịch sử dân tộc Việt Nam trước đây,
tuy đã từng có thời kỳ cha ơng ta thực hiện chính sách “bế quan tỏa cảng”, đóng cửa tự ru
ngủ mình, khơng giao lưu với bên ngồi, từ chối con đường tiếp cận văn minh của nhân loại
nhằm giữ cho được “nếp nhà”, giữ được thuần phong mỹ tục của dân tộc. Thực tế, hậu quả
của chính sách này đã khơng tự bảo vệ được mình, mà Tổ quốc còn bị rơi vào tay kẻ khác.
Nhưng, xét một cách khách quan, trong suốt chiều dài lịch sử, thì Việt Nam là đất nước có
một nền văn hóa mở với một tư duy văn hóa mở. Người Việt Nam khơng có tư tưởng kỳ thị
dân tộc, khơng cực đoan trong giao lưu và tiếp biến văn hóa với các quốc gia, dân tộc khác.
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam ln tiếp thụ có chọn lọc những
tinh hoa văn hóa của các nước có quan hệ với Việt Nam để bổ sung và làm giàu truyền thống
văn hóa của dân tộc.
Ngày nay, dưới sự tác động của xu thế tồn cầu hóa, của cuộc cách mạng khoa học - cơng
nghệ, cùng với đó là cơng cuộc đổi mới toàn diện đất nước đang đi vào chiều sâu, nên việc
mở rộng giao lưu và tiếp biến với những giá trị văn hóa của các dân tộc khác trên thế giới
được đặt ra như một tất yếu. Thơng qua đó, truyền thống văn hóa của dân tộc được truyền bá
ra bên ngoài, được khẳng định lại, được tiếp xúc nhiều hơn với các nền văn hóa khác để học
hỏi, trao đổi, so sánh, tiếp nhận, tiếp biến, làm phong phú thêm truyền thống văn hóa của dân
tộc, đồng thời truyền thống văn hóa Việt Nam cũng có cơ hội thẩm định lại, cải tạo cho phù
hợp với hoàn cảnh hiện nay của đất nước. Chẳng hạn, việc đề cao chữ “Tình”, coi trong ân
nghĩa trong đời sống tinh thần xã hội của người Việt truyền thống là một trong những nét đẹp
quan trọng trong bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, đơi khi, chữ “Tình” đã vượt lên trên cả
lý lẽ, luật pháp. Triết lý sống trọng tình nghĩa, duy tình, duy cảm của người Việt lại dẫn đến
lối sống dung hòa, xu thời, cam chịu, du di, xuề xòa, nhút nhát, tùy tiện, thiếu triệt để, ý thức
pháp luật chưa cao – đay chính là nhược điểm đáng kể đối với việc xây dựng nhân sinh quan
mới và các tác phong công nghiệp gắn với tư duy duy lý trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
Hiện nay, khi nền kinh tế thị trường đang phát triển, đặc biệt, khi chúng ta hội nhập kinh tế
quốc tế, giao thương với các nền kinh tế tư bản, lúc này “Lý” sẽ áp đảo “Tình”. Trong điều
kiện đó, truyền thống coi trọng “Tình” có vẻ khơng cịn phù hợp nữa, nhưng chúng ta vẫn
cần phải dung hòa, làm cho “Lý” không trở thành thái quá để dẫn đến “vơ tình, vơ cảm”,
11



thành con người “duy ngã”, ích kỷ; làm cho chữ “Tình” trong thời hiện đại khơng yếm thế,
biến con người thành yếu đuối, nhu nhược, ba phải. Việc thiên về “Lý” hướng đến sự phát
triển; cịn “Tình” sẽ làm cho sự phát triển diễn ra hài hòa, bền vững. Như vậy, chúng ta vẫn
duy trì và giữ gìn được bản sắc và “làm mới, hiện đại hóa” nó cho phù hợp với điều kiện,
hoàn cảnh.
Tuy nhiên, mọi vấn đề đều có tính hai mặt. Song song với những cơ hội và tiềm năng
phát triển mà tồn cầu hóa mang lại, xu thế này cũng đặt ra vô vàn những thách thức, mà
điển hình là nguy cơ nền văn hóa đang dần bị “hòa tan”. Chúng ta đang đứng trước thứ thách
rất lớn về vấn đề văn hóa trước xu thế và những tác động của văn hóa thế giới, trước mối
quan tâm ln mang tính thời đại: làm thế nào để “hịa nhập” mà khơng “hịa tan”. Trước
thực trạng đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra kinh nghiệm: Trong bất kì tình huống nào,
đặc biệt là thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiên đại hố phải “tích cực chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế” nhưng phải “giữ vững truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc”. Quy luật
về sự kế thừa di sản văn hóa và giữ gìn, phát triển văn hóa dân tộc cũng được Chủ tịch Hồ
Chí Minh nhìn nhận một cách biện chứng: “ Nói là khơi phục vốn cũ thì nên khổi phục cái gì
tốt, cịn cái gì khơng tốt thì phải loại dần ra”. Hội nhập văn hoá phải trên cơ sở định hướng
với sự lựa chọn tối ưu, làm sao để tích hợp nhiều tinh hoa đặc sắc của nhiều nền văn hoá
khác nhau. Nếu sự tiếp thu ấy là bê ngun xi những cái bên ngồi vào thì văn hoá sẽ bị mất
gốc, sẽ bị đồng hoá. Tiếp thu trong tư thế chủ động là điều kiện của việc xử lý mối quan hệ
biện chứng nội sinh, ngoại sinh. Nguyên tắc tiếp thu là lấy bản sắc văn hố của mình làm
gốc, lấy tiêu chí văn hố làm bộ lọc, tiếp thu các văn hoá hiện đại của thế giới, lấy cái tiến bộ
bổ sung cho cái thiếu hụt trong văn hoá truyền thống, tạo thuận lợi cho văn hố dân tộc phát
triển.
Tóm lại, việc kế thừa và phát triển sáng tạo các giá trị truyền thống là một tất yếu khách
quan. Đó là một q trình lọc bỏ và giữ lại những “hạt nhân hợp lý”, bổ sung, phát triển và
tạo ra các giá trị truyền thống mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của xã hội hiện nay. Đặc biệt,
hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hố, việc kế thừa và phát triển văn hố cịn là sự giao lưu,
học hỏi và tiếp biến với các nền văn hố khác trên thế giới một cách có chọn lọc nhằm làm

phong phú và hiện đại hoá truyền thống văn hoá Việt Nam, làm đậm đà và bền vững thêm
bản sắc văn hố của mình.

12


KẾT LUẬN
Như vậy, tồn cầu hóa là thời cơ lịch sử. Đó vừa là cơ hội rất to lớn cho sự phát triển mạnh
mẽ của các nước, đồng thời cũng tạo ra thách thức là nếu bỏ lỡ thời cơ thì sẽ bị tụt hậu rất xa.
Việt Nam cũng nằm trong xu thế chung đó. Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: “Nắm bắt cơ
hội, vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ mới, đó là vấn đề có ý nghĩa sống cịn
đối với Đảng và nhân dân ta”. Hiểu rõ được sứ mệnh ấy,Việt Nam đã và đang trong q trình
hồn thiện con đường đúng đắn cho dân tộc mình, để có thể đẩy mạnh cơng nghiệp hóa – hiện
đại hóa, đất nước chúng ta phải kế thừa và phát huy sáng tạo những giá trị truyền thống tốt đẹp
của ông cha ta đã được hình thành và hun đúc trong hàng nghìn năm lịch sử. Muốn làm được
điều này phải có khả năng phán đoán, phân biệt và đánh giá. Tận dụng phát huy những điểm
mạnh và nhận ra khắc phục những điểm yếu sẽ là chiếc chìa khóa then chốt cơng cuộc kế thừa và
phát triển sáng tạo những giá trị truyền thống của Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hiện nay.
Dưới góc nhìn phương pháp luận phủ định biện chứng, chủ trương lớn nhất, bao quát nhất để
đối phó với những thách thức của hội nhập là “Xây dựng và phát triển đất nước tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc”, làm cho văn hóa thấm sâu vào tồn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng
người, từng gia đình, từng cộng đồng, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người. Chỉ trên
cơ sở văn hóa vững mạnh như vậy, xã hội ta mới có thể có nguồn lực nội sinh to lớn, để từ đó có
sức đề kháng, khả năng “miễn dịch” mạnh mẽ trước những yếu tố văn hóa tiêu cực du nhập từ
bên ngoài và nảy sinh ngay từ bên trong và từ mặt trái của nền kinh tế thị trường. Bởi “Chúng ta
đang sống trong một thế giới đổi thay nhanh chóng bởi những tiến bộ vượt bậc của khoa học
cơng nghệ và trong một môi trường kinh tế quốc tế mà khơng một nền kinh tế quốc gia nào có
thể tồn tại biệt lập, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng đậm nét”, theo Thủ
tướng Phan Văn Khải.


13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin”, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2010
2. Giáo trình “Triết học Mác – Lênin” (Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận
chính trị), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021
3. Sách giáo khoa Lịch sử Lớp 12 – Nâng cao, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam
4. Từ điển chính trị vắn tắt, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1988
5. V.I.Lênin: “Toàn tập”, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcova, 1981
6. Trần Văn Giàu, “Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam”, Nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980

7. />8. />
9. />10. />
14



×