Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Giai phap day kieu bai NL ve mot su viec hien tuong doi song co hieu qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.35 KB, 20 trang )

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Mục đích của sáng kiến kinh nghiệm.
Từ trước tới nay, khi dạy kiểu bài tập làm văn nghị luận về một sự việc hiện
tượng đời sống cho học sinh lớp 9 ở trường trung học cơ sở (THCS), giáo viên
đã vận dụng nhiều phương pháp nhằm giúp học sinh nhận biết, nắm được kiểu
bài, nắm được các bước nghị luận cơ bản để khi viết bài sát với thực tế. Tuy
nhiên, kết quả thực tiễn giảng dạy tôi nhận thấy, đôi khi học sinh vẫn nhầm lẫn
giữa nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống với nghị luận về một vấn đề
tư tưởng đạo lý. Đó là nguyên nhân dẫn đến chất lượng bài viết của học sinh
chưa sát với yêu cầu kiểu bài, thậm chí có trường hợp hiểu chưa sâu sắc, hiểu sai
vấn đề nghị luận, giải quyết vấn đề chưa triệt để, tính thuyết phục chưa cao.
Trong sáng kiến này, tơi mạnh dạn đề cập đến vấn đề “Một số giải pháp
nhằm giảng dạy có hiệu quả kiểu bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời
sống trong chương trình ngữ văn 9”. Sáng kiến nhằm đưa ra những giải pháp
cụ thể hơn, bám sát hơn, các bước dễ thực hiện, dễ áp dụng trong thực tiễn và có
tính hiệu quả cao hơn khi giáo viên sử dụng giảng dạy kiểu bài nghị luận về một
sự việc hiện tượng đời sống. Với sáng kiến kinh nghiệm này tôi xác định một số
mục đích sau:
Thứ nhất: Rèn kỹ năng giúp học sinh nhận diện đúng kiểu bài nghị luận
về một sự việc hiện tượng đời sống. Từ đó có thái độ u thích mơn học, phát
huy được tính tích cực, chủ động chiếm lĩnh tri thức, bộc lộ khả năng tư duy của
khi cần thể hiện quan điểm của mình trước một vấn đề xã hội.
Thứ hai: Qua sáng kiến này, tơi mạnh dạn đưa ra những giải pháp của
mình trong giảng dạy kiểu bài nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống trên
tinh thần đổi mới phương pháp để giảng dạy nhằm nâng cao năng lực làm bài
nghị luận của học sinh bằng cách kết hợp các kỹ năng và kiến thức, giúp học
sinh nắm phương pháp nhanh và dễ dàng, có thể phát huy hết năng lực tư duy
khi nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống được mọi người quan tâm.
Thứ ba: Nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả giờ lên lớp của giáo viên, thúc
đẩy hứng thú học tập môn Ngữ văn cho học sinh. Hình thành cho các em nhận
1




thức đầy đủ và sâu sắc nhất về ý nghĩa của các mơn học trong nhà trường THCS,
trong đó đặc biệt chú trọng đến việc vận dụng kiến thức khoa học mà môn Ngữ
văn đem lại vào thực tế cuộc sống.
Bản thân tôi, khi áp dụng những giải pháp được nêu trong sáng kiến này khi
giảng dạy trên lớp đã đạt được những kết quả nhất định và giải quyết được các
vấn đề sau:
Một là: Tìm ra những nguyên nhân cơ bản của hiện tượng học sinh chưa
hiểu, chưa biết cách làm bài văn nghị luận, đặc biệt là nghị luận về một sự việc,
hiện tượng đời sống để hạn chế học sinh có thái độ ngại học, sợ học, giúp học
sinh có ý thức học tập, ln ngoan ngỗn, chịu khó, u thích mơn học, u
thích văn nghị luận.
Hai là: Phân tích các ngun nhân cơ bản, tìm ra các tác nhân liên đới để
giúp các em học tốt. Từ đó giúp học sinh viết được bài văn nghị luận về một sự
việc hiện tượng đời sống một cách hồn chỉnh làm tiền đề tốt cho q trình các
em học sinh sẽ nghiên cứu tiếp kiểu bài này ở trung học phổ thơng (THPT).
Ba là: Nghiên cứu tìm ra biện pháp thích hợp, hiệu quả để giáo dục học
sinh và giúp học sinh có kết quả học tập tốt hơn, góp phần đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng tích cực, chủ động, lấy học sinh làm trung tâm, là tiền đề để
phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi trong nhà trường.
2. Đóng góp của Sáng kiến kinh nghiệm.
Qua các giờ dạy áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trên, tôi nhận thấy hiệu
quả rất thiết thực, qua sự đánh giá khách quan, thể hiện bằng nhận thức, niềm
hứng thú say mê của học sinh khi tham gia các tiết học kiểu bài nghị luận về sự
việc, hiện tượng đời sống. Chất lượng giờ dạy nghị luận nói chung và nghị luận
xã hội nói riêng đã được nâng cao rõ rệt ở các mặt sau:
Thứ nhất: Về thái độ, tư tưởng, đa số học sinh thể hiện say mê với các tiết
học bởi các em đều thấy được sự gần gũi của môn ngữ văn với cuộc sống, biết
gắn kiến thức của môn ngữ văn với cuộc sống. Học sinh khơng cịn rụt rè, bỡ

ngỡ mà đã mạnh dạn bày tỏ những quan điểm, nhận thức của mình về các vấn
đề, các hiện tượng xảy ra trong đời sống được nhiều người quan tâm.
2


Thứ hai: Về kiến thức, đa số học sinh đều biết nhận diện và nắm chắc kiểu
bài, biết vận dụng linh hoạt các thao tác nghị luận khi viết bài, biết liên hệ thực
tế và thể hiện quan điểm cá nhân theo hướng tích cực, tạo cho bài viết chân thực
và gần gũi với đời sống hơn. Đặc biệt khi áp dụng vào giảng dạy nếu giáo viên
biết căn cứ vào tình hình, đặc điểm, đối tượng học sinh, từng lớp cụ thể một
cách linh hoạt, phù hợp sẽ kích thích và phát hiện được năng lực tư duy của học
sinh năng khiếu. Ở lớp khá, giỏi giáo viên có thể nâng cao hơn vận dụng những
câu hỏi khó để đưa học sinh vào tình huống tự bộc lộ, cịn ở lớp trung bình có
thể sử dụng hạn chế hơn những câu hỏi trên.
Mặt khác, giáo viên với sự dày cơng trong việc chuẩn bị, soạn bài chu
đáo, tìm hiểu suy nghĩ, tham khảo nhiều sách báo, am hiểu thực tế xã hội để tạo
được hệ thống câu hỏi hợp lý, xây dựng bài giảng lý thú sẽ giúp cho các em tìm
hiểu bài một cách trực quan sinh động hơn. Tạo khơng khí trong giờ giảng cởi
mở, thân thiện, tích cực tạo được sự thân mật, gần gũi đối với học sinh chắc
chắn sẽ tạo nên những giờ dạy thành công.
PHẦN II. NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở khoa học của Sáng kiến kinh nghiệm
1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Ngữ văn là một mơn học có vị trí và vai trị rất qua trọng trong giáo dục
phổ thơng. Bởi đây là mơn học ngồi việc cung cấp cho học sinh những kiến
thức văn học, kiến thức khoa học, kiến thức xã hội cơ bản môn Ngữ văn cịn góp
phần hình thành nhân cách, giáo dục phẩm chất đạo đức cho con người. Trong
những năm trở lại đây Giáo dục nước ta đã và đang nỗ lực tiến hành vận dụng
“đổi mới phương pháp giảng dạy” theo hướng phát huy tính tích cực chủ động
của học sinh trong hoạt động học tập để đào tạo ra những con người năng động,

thích ứng nhanh với đời sống xã hội. Hưởng ứng phát động của Bộ Giáo dục và
Đào tạo, đội ngũ giáo viên ở mọi cấp học, ngành học, mọi vùng miền trên đất
nước đều ra sức học tập, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, áp dụng đổi mới nội
dung phương pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đại trà theo đúng tinh thần
3


chỉ đạo. Phấn đấu trong mỗi giờ lên lớp học sinh sẽ được hoạt động nhiều hơn,
thảo luận nhiều hơn và quan trọng là các em được suy nghĩ nhiều hơn trên con
đường chủ động chiếm lĩnh nội dung học tập .
Hiện nay, toàn ngành giáo dục đang thực hiện đổi mới “dạy học phải phát
huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh”,… thì vai trị vận dụng
phương pháp của người giáo viên khi đứng lớp ngày càng quan trọng. Muốn đạt
được thành tựu là đào tạo những con người tài đức cho đất nước thì điều tiên
quyết là giáo viên phải không ngừng đổi mới phương pháp dạy học ho phù hợp
đối với từng đối tượng học sinh, dạy học phải phù hợp với chuẩn kiến thức kĩ
năng, phát huy năng lực thực hành của học sinh, hình thành thói quen tốt khi
làm bài là phải làm cho hồn chỉnh, gặp tình huống khó khăn trong đời sống xã
hội là phải giải quyết cho có kết quả tốt, đào tạo các em có cái nhìn sâu sắc hơn
sự tiến bộ của xã hội,…chính vì nhận thức được tầm quan trọng ấy, ngoài việc
hoàn thành trách nhiệm của người giáo viên, tôi rất xem trọng vấn đề đổi mới
phương pháp dạy học sao cho có hiệu quả.
2. Cơ sở thực tiễn của Sáng kiến kinh nghiệm
Môn Ngữ văn THCS gồm có 3 phân mơn: văn bản - tiếng việt - tập làm
văn. Trong đó, phân mơn tập làm văn là phân mơn gần như khó nhất đối với học
sinh vì thiên về rèn kỹ năng thực hành, ngày cả giáo viên cũng ngại khi phải dạy
phân môn này. Trong quan niệm của giáo viên dạy ngữ văn thường rất thích dạy
phần văn bản hơn, phần tiếng Việt có khi khơ khan, cơng thức và phân mơn tập
làm văn lại vô cùng rắc rối. Học sinh cũng vậy, hầu hết các em đều yêu thích và
đam mê các tiết học phần văn bản hơn tập làm văn. Trong 6 kiểu bài tập làm văn

được dạy ở THCS từ lớp 6 đến lớp 9: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết
minh, hành chính cơng vụ thì kiểu bài nghị luận là khó nhất, học sinh học cũng
sợ nhất, các em cũng khó biết cách vận dụng nhất.
Đối với giáo viên giảng dạy ngữ văn lớp 9, trong 4 kiểu bài nghị luận được
dạy ở học kì II là nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống; Nghị luận về
một vấn đề tư tưởng đạo lí; Nghị luận về một đoạn thơ, bài thơ; Nghị luận về
một tác phẩm truyện hoặc đoạn trích, đều là các kiểu bài quan trọng thường nằm
4


trong nội dung đề thi chuyển cấp cho học sinh khi thi vào THPT. Trong đó khi
dạy kiểu bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống, giáo viên thường
gặp một số khó khăn, nhất là các giáo viên trẻ mới giảng dạy, kinh nghiệm chưa
nhiều và kiến thức xã hội chưa phong phú. Giáo viên thường lúng túng khi
hướng dẫn học sinh nhận diện kiểu bài, đề bài, khó khăn trong việc lựa chọn các
thao tác nghị luận như lựa chọn và sắp xếp các dẫn chứng, kết hợp dẫn chứng và
lý lẽ...dẫn tới bài viết thực hành của học sinh thiếu sâu sắc, chưa phong phú,
đánh giá vấn đề chưa thỏa đáng...đơi khi cịn xa rời thực tế.
Chương 2. Thực trạng việc dạy và học kiểu bài nghị luận về một sự việc
hiện tượng đời sống ở trường THCS Lâm Thao hiện nay
1. Thực trạng học tập mơn Ngữ văn của học sinh.
Qua thời gian tìm hiểu đối tượng học sinh và trực tiếp giảng dạy trên lớp
tôi nhận thấy kết quả học tập môn ngữ văn của học sinh trường THCS Lâm Thao
vẫn còn một số hạn chế nhất định, chưa xứng tầm với truyền thống của nhà
trường. Sự chuyển biến chất lượng môn ngữ văn của học sinh cịn chậm, mặc dù
đã có tiến bộ nhưng thiếu tính ổn định. Bằng phương pháp quan sát, khảo sát
điều tra tôi nhận thấy hiện nay học sinh thường hay xem nhẹ, ít chú ý đến những
mơn xã hội nói chung, mơn ngữ văn nói riêng. Một bộ phận các em khơng có
động cơ, mục đích học tập, sẵn sàng chấp nhận mọi kết quả. Cũng chính vì thế
mà chất lượng học văn chưa cao. Học sinh ngại đọc sách, ngại ghi chép bài, lười

học thuộc dẫn tới sợ học văn, rồi chán học văn mà xu hướng của các em cũng
như nguyện vọng của một số phụ huynh chỉ chú tâm đến các môn học như tốn,
tiếng anh, tin học…Bên cạnh đó cịn một bộ phận học sinh chưa có ý thức tự
giác trong học tập, mải chơi, ham mê các trò chơi điện tử làm ảnh hưởng đến
chất lượng học tập của các em.
Các em học sinh phần lớn phụ thuộc vào các sách hướng dẫn, để học tốt,
những bài văn hay….vẫn cịn thói quen thụ động, ghi nhớ máy móc những gì
giáo viên nói, chưa có thói quen chủ động tìm hiểu khám phá bài học. Học sinh
chưa chủ động vận dụng kiến thức kỹ năng của văn học vào thực tế cuộc sống,
5


chưa biết liên hệ giữa thực tế cuộc sống với văn học. Từ đó dẫn đến kĩ năng
sống của học sinh cịn nhiều hạn chế, các em hầu như khơng quan tâm hoặc thờ
ơ với những vấn đề nóng hổi bức thiết của đời sống xã hội trong và ngoài
nước.... Điều này đòi hỏi người giáo viên đặc biệt là giáo viên ngữ văn phải tạo
được giờ học thu hút học sinh, làm cho học sinh thấy được những giá trị tốt đẹp
và những kiến thức xã hội bổ ích mà các em sẽ có được sau mỗi bài học. Để làm
được như thế đòi hỏi người giáo viên phải nhiệt tình, có tâm huyết với cơng
việc, tự tìm ra cho mình một phương pháp hiệu quả nhất.
Ở chương trình ngữ văn lớp 9, kiểu bài nghị luận về một sự việc hiện tượng
đời sống thường đề cập đến các vấn đề quen thuộc, gần gũi địi hỏi người viết
trình bày quan điểm, tư tưởng khi giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh xung
quanh. Chính vì vậy, đề bài thường có phạm vi rộng khiến học sinh có phần lúng
túng khi cần triển khai các phương thức lập luận. Đề bài thường yêu cầu nêu
quan điểm về các sự việc, hiện tượng xảy ra trong cuộc sống nên địi hỏi người
viết phải có hiểu biết, có kiến thức xã hội cơ bản nhất để có thể lý giải và nhận
xét một cách đầy đủ, chính xác, bài viết ít có yếu tố nghệ thuật nên học sinh dễ
rơi vào tình trạng viết khơ khan, rời rạc, ít hấp dẫn. Từ đó nảy sinh tâm lý ngại
học, sợ học khi gặp kiểu bài nghị luận. Mặt khác, muốn làm tốt bài văn nghị

luận về sự việc, hiện tượng đời sống đòi hỏi học sinh cần nhiều kiến thức thực
tế, chính xác, khoa học vế các lình vực. Thực tế giảng dạy cho thấy, học sinh lớp
9 nhiều em chưa đáp ừng được yên cầu này vì phạm vi tiếp xúc xã hội chưa
nhiều.
Vậy, làm thế nào để giảng dạy kiểu bài nghị luận về một sự việc, hiện
tượng đời sống có hiệu quả nhất ? Đây là vấn đề nhiều giáo viên dạy lớp 9 luôn
băn khoăn.
2. Thực trạng giảng dạy ngữ văn và phân môn tập làm văn của giáo viên.
Khi giảng dạy hướng dẫn cho học sinh kiểu bài nghị luận nói chung và
nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống nói riêng đều địi hỏi giáo viên
phải huy động nhiều kiến thức xã hội. Đây là kiểu bài khá quen thuộc và gần gũi
với cuộc sống nhưng phạm vi kiến thức rộng, dễ động chạm đến những vấn đề
6


có thời sự có tính nhạy cảm nên đơi khi gây khó khăn, lúng túng cho giáo viên,
nhất là những giáo viên trẻ kinh nghiệm giảng dạy và vốn hiểu biết chưa nhiều.
Một số giáo viên cho rằng “chất văn” trong văn bản nghị luận xã hội không
nhiều, nội dung bài giảng khơ khan, thiếu tính hấp dẫn, khơng gây hứng thú ở
người học. Bản thân tôi đã trực tiếp giảng dạy chương trình ngữ văn lớp 9, tơi
nhận thấy mình và một số đồng nghiệp trẻ trong trường vẫn còn bộc lộ một số
hạn chế cả về phương pháp và kiến thức, nhất là phương pháp dạy kiểu bài nghị
luận xã hội. Cụ thể là:
Về kiến thức, đôi lúc giáo viên còn xác định chưa đầy đủ trọng tâm bài
dạy, dễ dẫn tới lệch trọng tâm, làm mất đi tính thời sự của kiểu bài nghị luận về
một sự việc, hiện tượng đời sống. Từ đó giáo viên thường chỉ chú ý khai thác
ngữ liệu hoặc định hướng cho học sinh tiếp cận đề bài một cách máy móc mà
chưa chú trọng đến khâu huy động những tri thức xã hội liên quan cần thiết để
giải quyết triệt để vấn đề. Vốn kiến thức xã hội, kiến thức khoa học của giáo
viên chưa sâu còn nhiều hạn chế trong việc giảng giải cho học sinh nhận ra vấn

đề. Đôi khi giáo viên nắm bắt các kiến thức có liên quan chưa chắc nên giảng
giải còn mờ nhạt, giáo viên ít chú ý tới liên hệ thực tế, chưa phát huy được tính
tích cực, chủ động của học sinh.
Về phương pháp: giáo viên còn lúng túng trong việc vận dụng các phương
pháp để truyền tải nội dung bài dạy tới học sinh. Vận dụng các phương pháp dạy
học còn chưa thực sự hiệu quả. Chủ yếu giáo viên còn nặng về việc hướng dẫn
cho học sinh khai thác đề bài theo cách hàn lâm kinh viện mà ít chú ý đến
phương pháp gắn với thực tiễn, chưa đặt ra nhiều tình huống có vấn đề để giúp
học sinh thấy được tính gần gũi của các đề bài nghị luận đã đề cập đến.
Về phương tiện dạy học do tâm lí ngại sưu tầm, ngại tìm hiểu, tích lũy tri
thức cộng với vốn kiểu biết về kiến thức xã hội chưa phong phú nên việc chuẩn
bị bài giảng khi dạy nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống của giáo viên
chưa thực sự chu đáo. Đôi khi giáo viên mới chủ yếu chỉ dừng lại ở việc dùng
những ngữ liệu có sẵn có sẵn trong sách tham khảo ở thư viện nhà trường để
phục vụ cho nội dung bài dạy điều này khiến nội dung bài giảng còn bị bó hẹp
7


phạm vi kiến thức hoặc chưa sát với thực tiễn. Có khi giáo viên cũng truy cập
mạng Internet để tìm kiếm tư liệu liên quan, tranh ảnh minh họa, những đoạn
video nhưng khi soạn trình chiếu lại gặp khó khăn vì soạn giảng trình chiếu
thường mất nhiều thời gian và chưa thực sự thành thạo máy vi tính. Dẫn đến giờ
dạy còn đơn điệu, chuẩn bị của giáo viên còn chưa thực sự mang lại hiệu quả giờ
dạy như mong muốn.
3. Nguyên nhân của thực trạng dạy và học Ngữ văn.
*Về phía học sinh: Học sinh cịn thụ động trong việc tiếp thu kiến thức mà giáo
viên cung cấp, một số em chưa có ý thức tìm hiểu chuẩn bị bài ở nhà, chưa chủ
động sưu tầm, tích lũy tài liệu có liên quan tới các vấn đề nghị luận xã hội
thường gặp. Kĩ năng đọc, viết của học sinh còn kém nên các em thường ngại
đọc, ngại ghi chép ngại tìm hiểu dẫn tới kiến thức chủ yếu mang tính sách vở, ít

kiến thức thực tế. Bên cạnh đó, vẫn còn tư tưởng học tủ, học vẹt, học chỉ để
kiểm tra. Chưa chú trọng đến việc ôn luyện hàng ngày nên thường học trước
quên sau, nhầm lẫn kiến thức cơ bản. Cách học, phương pháp học tập của một
bộ phận học sinh cịn nhiều hạn chế, học máy móc, rập khn nên hiệu quả học
tập chưa cao. Cịn có tư tưởng xem nhẹ môn văn của một bộ phận học sinh chỉ
chú trọng học các môn tự nhiên xem nhẹ các mơn xã hội, nên ít hứng thú với
mơn học. Tài liệu sách báo cung cấp cho học sinh đọc trên thư viên của nhà
trường chưa phong phú, chưa được cập nhật thường xuyên đặc biệt là tư liệu
kiến thức xã hội nên ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng giờ học.
*Về phía giáo viên: Kiểu bài nghị luận về một sự việc hiện tượng đời sống có
phạm vi kiến thức trải rộng trên nhiều lĩnh vực, nội dung khai thác kiến thức
thường khô khan nên dẫn tới tâm lí giáo viên cịn ngại tìm hiểu chưa thực sự chú
trọng, cùng với đó là vốn kinh nghiệm xã hội ít, dẫn tới lúng túng về phương
pháp, giảm hiệu quả giờ lên lớp. Một số giáo viên tiếp cận công nghệ thơng tin
chậm chưa có kĩ năng soạn bài và giảng bài bằng giáo án điện tử nên việc mở
rộng kiến thức cho các em bằng âm thanh, hình ảnh cịn hạn chế, chưa có sự
liên hệ, tích hợp khi giảng dạy về kiểu bài này.

8


4. Kết quả khảo sát: Khảo sát chất lượng phần văn nghị luận về một sự việc
hiện tượng đời sống đối với học sinh lớp 9B năm học 2012-2013 do tôi trực tiếp
giảng dạy.
Lớp
9B


số
33


Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm từ 5

Ghi

0-2,5
SL
%
1
3,1

3-4,5
SL
%
12 36,4

5-6,5
SL
%
18 54,5


7-8,5
SL
%
2
6,1

9-10
SL
%
0
0

trở lên
SL
%
20 60,1

chú

Chương 3. Những giải pháp nhằm giảng dạy có hiệu quả kiểu bài nghị luận
về một sự việc, hiện tượng đời sống ở trường THCS
Trước thực trạng và những hạn chế còn tồn tại khi giảng dạy kiểu bài nghị
luận nêu trên, để có giải pháp thực hiện tốt vấn đề dạy kiểu bài nghị luận về một
sự việc, hiện tượng đời sống có hiệu quả như mong muốn, tơi đã áp dụng một số
giải pháp cụ thể như sau:
1. Hướng dẫn học sinh kỹ năng nhận diện đúng kiểu bài nghị luận về một sự
việc, hiện tượng đời sống so với kiểu bài nghị luận khác:
Phân phối chương trình của ngữ văn THCS lớp 9 học kì II các em học
sinh được tiếp xúc ngay với kiểu bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời

sống. Kiểu bài này chương trình phân bố dạy trong 4 tiết: 1 tiết tìm hiểu về kiểu
bài Nghị luận sự việc, hiện tượng đời sống, 2 tiết về cách làm kiểu bài Nghị
luận sự việc, hiện tượng đời sống, 1 tiết vận dụng vào tiết học chương trình địa
phương. Sau 4 tiết thực học và vận dụng, học sinh đi ngay vào viết bài viết số 5:
kiểu bài Nghị luận sự việc, hiện tượng đời sống. Thực tế cho thấy, chỉ trong 4
tiết học ngắn ngủi rồi yêu cầu học sinh vận dụng sao cho hoàn chỉnh kiểu bài
nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống cũng là một khó khăn đối với các
em có nhận thức chậm, tư duy cịn hạn chế. Một số em luôn tỏ ra lo lắng, lúng
túng khi viết bài. Nắm bắt được tình hình đó nên trong những giờ thực dạy ngữ
văn 9, bản thân tôi luôn đặt yêu cầu đầu tiên là làm sao phải giúp học sinh nhận
diện đúng kiểu bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống tạo cho các em
khí thế tự tin khi đi cần nêu quan điểm của mình về một vấn đề nghị luận về sự
việc, hiện tượng đời sống yêu cầu. Thực tế, văn nghị luận các em đã được làm
9


quen từ năm học lớp 7 đến lớp 9 các em được học nâng cao hơn vấn đề nghị
luận. Do vậy, tôi giúp học sinh nhận diện được kiểu bài nghị luận về một sự
việc, hiện tượng đời sống theo các bước như sau:
- Bước 1: Định hướng về kiến thức để học sinh hiểu rõ “nghị luận” là gì? Đối
chiếu phương thức nghị luận với các phương thức biểu đạt khác mà học sinh đã
học như tự sự, miêu tả, biểu cảm, thuyết minh...để học sinh nhận thức rõ.
- Bước 2: Nhắc lại một số kiến thức nghị luận đã học ở lớp 7 như: luận điểm,
luận cứ, lập luận (lập luận phân tích, lập luận chứng minh, lập luận giải thích...)
giúp học sinh ghi nhớ kiến thức cũ.
- Bước 3: Cung cấp các đơn vị kiến thức mới trong các tiết học về kiểu bài nghị
luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. Giáo viên cung cấp đúng, đủ trọng
tâm kiến thức, giúp học sinh hiểu được kiểu bài các em đang nghị luận là nghị
luận về đối tượng nào? Học sinh dễ dàng nhận diện là trình bày quan điểm, tư
tưởng về một sự việc, hiện tượng đời sống đã và đang xảy ra đáng khen, đáng

chê xung quanh các em.
- Bước 4: So sánh đối chiếu để nhận diện kiểu đề. Giáo viên sẽ cung cấp cho học
sinh một trong hai kiểu bài của nghị luận xã hội: với một số đề văn để các em
phân biệt và xác định đúng kiểu bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời
sống.
+ Đề 1: Hiện tượng vứt rác bừa bãi làm ô nhiểm môi trường. Em suy nghĩ gì về
hiện tượng trên.
+ Đề 2: Hiện nay, một số học sinh còn học tập qua loa, đối phó... Em hãy viết
bài văn nêu lên suy nghĩ của mình về hiện tượng trên.
+ Đề 3: Tích cực phòng bệnh tay – chân – miệng là nhiệm vụ của tồn dân. Em
hãy nêu lên suy nghĩ của mình về phong trào trên.
+ Đề 4: Nhân dân ta có câu: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn” Em suy nghĩ gì về câu
nói ấy.
+ Đề 5: Đạo lí uống nước nhớ nguồn.
Với 5 đề văn trên, giáo viên sẽ hướng dẫn học sinh nhận diện từng đối
tượng cần nghị luận ở từng đề văn:
10


+ Đề 1: Đối tượng nghị luận: Hiện tượng vứt rác bừa bãi làm ô nhiễm môi
trường.
+ Đề 2: Đối tượng nghị luận: Hiện tượng học sinh học tập qua loa, đối phó...
+ Đề 3: Đối tượng nghị luận: Hoạt động của phong trào tồn dân tích cực phịng
bệnh tay-chân-miệng.
+ Đề 4: Đối tượng nghị luận: Ý nghĩa của thành ngữ “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”.
+ Đề 5: Đối tượng nghị luận: Đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”.
Việc giúp học sinh nhận diện đâu là hiện tượng xã hội, đâu là đạo lí, tư
tưởng cần nghị luận. Đây là bước rất quan trọng, có tính chất quyết định để học
sinh nhận diện được 3 đề văn: Đề 1,2,3 thuộc về nghị luận về một sự việc, hiện
tượng đời sống; đề 4,5 thuộc nghị luận tư tưởng, đạo lí. Vì đã có kiến thức cơ

bản nên khi giáo viên đưa ra 5 đề văn để các em phân biệt, học sinh nhận diện
rất nhanh và chính xác về kiểu bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời
sống. Các em rất hứng thú khi học tập vì đã nhận diện tốt đối tượng cần nghị
luận.
2. Hướng dẫn học sinh kỹ năng xác định đúng yêu cầu về nội dung, hình
thức của kiểu bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
*Về nội dung: Khi thực hiện giải pháp này, tôi tập trung khai thác triệt để ngữ
liệu trong sách giáo khoa, văn bản “Bệnh lề mề”, ngoài ra tơi cịn giúp học sinh
tìm hiểu về đề văn 1: “Hiện tượng vứt rác bừa bãi làm ô nhiễm mơi trường”. Từ
ngữ liệu đã phân tích, giáo viên giúp học sinh nhận ra được
- Mặt tiêu cực của căn bệnh lề mề sẽ mang lại một số hậu quả.
- Biểu hiện: Coi thường giờ giấc, thiếu tự trọng, không tôn trọng người khác.
- Học sinh hiểu được nguyên nhân chính là do con người chưa có ý thức, thiếu
trách nhiệm với mình, với mọi người nên lề mề trong cơng việc.
- Để từ đó học sinh tìm và đưa ra những ý kiến nhận định về bệnh lề mề: phải
được khắc phục dần trong bản tính của con người, trong học tập, lao động, sinh
hoạt....Tóm lại: Những vấn đề tơi giúp học sinh vừa tìm ra như: mặt tiêu cực,
biểu hiện, hậu quả, nguyên nhân, nêu nhận định và đưa ra ý kiến khắc phục (giải
pháp) chính là yêu cầu cần có về nội dung trong q trình thực hiện bài viết về
11


“Bệnh lề mề” và đó cũng là yêu cầu về nội dung học sinh cần làm rõ trong khi
làm bài viết.
Tương tự tiến trình như thế tơi giúp học sinh tìm ra yêu cầu về nội dung
của đề 1: Vứt rác bừa bãi làm ô nhiễm môi trường.
Cuối cùng tôi giúp học sinh khẳng định yêu cầu nội dung kiểu bài nghị
luận về một sự việc, hiện tượng đời sống cần phải có các vấn đề sau: mặt đúng,
mặt sai của đối tượng; mặt lợi, mặt hại của nó; chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái
độ, ý kiến, nhận định về giải pháp của người viết đối với đối tượng đó ở phần

ghi nhớ. Trong q trình học sinh thực hiện trên lớp là các em đã nắm rõ yêu cầu
về nội dung trên.
*Yêu cầu về hình thức:
Về hình thức của bài viết tập làm văn nhất thiết học sinh cần phải viết
mạch lạc, bố cục đủ 3 phần: Mở bài - thân bài - kết bài, luận điểm phải rõ ràng,
luận cứ xác thực, phép lập luận phù hợp nhất là: Phép phân tích kiểu đoạn văn
diễn dịch và phép tổng hợp đoạn văn quy nạp, dẫn chứng chân thực, chính xác,
lý lẽ chặt chẽ, có sự kết hợp hài hòa giữa dẫn chứng và lý lẽ trong quá trình lập
luận, lời văn giáo viên yêu cầu và nhắc nhở học sinh dùng chuẩn xác, sống
động, sáng tạo mới để lại ấn tượng cho người đọc, người nghe.
Giáo viên có thể cung cấp một số đoạn văn mẫu như đoạn văn phần mở
bài, một đoạn ở thân bài hoặc phần kết bài để học sinh học tập cách hành văn,
cách dùng từ, cách viết đoạn văn sao cho liên kết chặt chẽ, mạch lạc cho học
sinh nghe tại lớp trong q trình giảng giải. Học sinh nào có nhận thức nhanh sẽ
vận dụng được ngay, học sinh khác có thể nghe và ghi lại rồi tự ơn luyện ở nhà.
Từ nhiều lần thực hiện như thế, các em sẽ viết văn mạch lạc, chính xác hơn đúng
yêu cầu về hình thức, yêu cầu về nội dung đã tìm hiểu. Giáo viên cũng lưu ý học
sinh tránh sử dụng từ ngữ địa phương vào trong bài viết, rèn chính tả và kỹ năng
trình bày bài. Qua đó những tiết dạy của tơi được tiến hành tỉ mỉ, có thực hành
rèn luyện theo mẫu đã giúp cho học sinh học tập hiệu quả hơn. Đa số học sinh
rất hứng thú khi tham gia học tập.

12


3. Định hướng học sinh kỹ năng lập dàn bài cho kiểu bài Nghị luận về một sự
việc, hiện tượng đời sống:
Giáo viên định hướng rõ ràng về bố cục 3 phần của bài nghị luận: Mở bài
- thân bài - kết bài. Giải pháp này bản thân tôi tiến hành cẩn thận từng bước cụ
thể như sau:

+ Bước 1: Tìm hiểu đề và tìm ý: Giáo viên định hướng để học sinh biết cách tìm
hiểu đề nhận diện đúng đối tượng cần nghị luận trong đề văn rồi mới tiến hành
tìm ý bằng cách gợi ra trong suy nghĩ của các em những ý xoay quanh đối tượng
đó để định hướng khi làm bài. Chẳng hạn như với đề văn sau: Một số bạn học
sinh hiện nay học tập qua loa, đối phó… Em suy nghĩ gì về hiện tượng trên?
Với kỹ năng đã có, học sinh sẽ tiến hành phân tích đề và tìm được đối
tượng cần nghị luận là: hiện tượng học sinh học tập qua loa, đối phó là rất phổ
biến hiện nay. Học sinh sẽ tiến hành xem xét từng khía cạnh của vấn đề bằng
cách tự đặt những câu hỏi như: Học qua loa, đối phó là như thế nào? Học qua
loa, đối phó sẽ có những mặt hại nào (hậu quả)? Nguyên nhân do đâu? Cách
khắc phục ra sao? Với các câu hỏi trên, học sinh sẽ tự trả lời ngay được rất nhiều
ý và như thế là các em đã tìm được những ý sau: học qua loa, đối phó chỉ là học
chiếu lệ, học cho có khơng có mục đích cụ thể, không vận dụng được tri thức
dẫn đến kết quả học tập không cao, dẫn đến tư tưởng chán học, bỏ tiết, dễ sa vào
tệ nạn xã hội; Nguyên nhân là do ý thức học tập của các em kém, có thể do
phương pháp giảng dạy của giáo viên bạn chưa u thích, do gia đình ít quan
tâm chuyện học của con em; giải pháp: các bạn phải tích cực học tập, học cho kỹ
kiến thức căn bản nắm nội dung chính và vận dụng vào đời sống thực tế, thầy cô
tăng cường trao dồi phương pháp giảng dạy cho phù hợp, nhà trường tạo điều
kiện để các bạn vui chơi học tập, cha mẹ đặc biệt quan tâm, nhắc nhở việc học
của con em mình.
Tóm lại, bước 1 này đối với đề văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng
đời sống, tôi rút ra được kinh nghiệm thiết thực là:
1. Phải giúp học sinh nhận diện được đối tượng cần nghị luận là sự việc, hiện
tượng nào trong đề văn.
13


2. Xây dựng hệ thống câu hỏi để tìm ý cho bất cứ đề văn nào của kiểu bài nghị
luận về một sự việc, hiện tượng đời sống: Đối tượng đó là gì? ( đối tượng đó

như thế nào) biểu hiện của đối tượng đó ra sao? Mặt đúng, mặt lợi ích/mặt sai,
mặt hậu quả đối với bản thân người viết, gia đình, xã hội? Nguyên nhân, xuất
phát từ đâu? Giải pháp thực hiện như thế nào?
+ Bước 2: Sau khi tìm hiểu đề và tìm ý là khâu lập dàn bài với các ý đã tìm ra,
sắp xếp chúng theo thứ tự. Với đề văn trên , giao viên sẽ định hướng học sinh tự
sắp xếp được các ý theo thứ tự bố cục của bài văn nghị luận là:
a. Mở bài:
- Giới thiệu đối tượng nghị luận: hiện tượng học sinh học tập qua loa, đối phó đã
trở nên khá phổ biến và ảnh hưởng đến phong trào học tập của trường, lớp
- Vậy các bạn học sinh phải khắc phục hiện tượng trên như thế nào?
b. Thân bài:
- Giải thích: Học qua loa, đối phó là học chiếu lệ...
- Hậu quả: Kết quả học tập không cao, khơng có kiến thức cơ bản, ham chơi....
- Ngun nhân: Học sinh thiếu ý thức trong học tập, giáo viên dạy học sinh chưa
hiểu, chưa hứng thú với môn học, nên có tư tưởng chán học, gia đình chưa quan
tâm việc học, …
- Giải pháp: Học sinh phải có ý thức học tập cho mình, nhà trường, thầy cơ tạo
điều kiện để học vui - vui học; cha mẹ quan tâm việc học của con.
c. Kết bài:
- Khẳng định học qua loa đối phó là cách học sai
- Khơng được học qua loa, đối phó phải học thực chất.
+ Bước 3: Từ đó giáo viên xây dựng dàn bài chung cho kiểu bài nghị luận về
một sự việc hiện tượng đời sống:
a. Mở bài: 3 ý chính, ý thứ 1,2 là trọng tâm, ý 3 giúp liên kết với thân bài.
- Giới thiệu sự việc, hiện tượng cần nghị luận.
- Khái quát về mặt lợi/hoặc mặt hại của đối tượng nghị luận.
- Câu văn chuyển ý. (dạng câu nghi vấn hoặc câu phủ định)
b.Thân bài: 4 ý chính cần phải có, được sắp xếp theo trật tự.
14



- Sự việc, hiện tượng nghị luận là gì? (là như thế nào) và biểu hiện của nó ra
trong xã hội? (dùng phương pháp nêu định nghĩa, giải thích)
- Mặt lợi, mặt đúng hoặc mặt sai, kết quả hoặc hậu quả của sự việc, hiện tượng
cần nghị luận. Nêu nhận định, đánh giá của bản thân với đối tượng cần nghị
luận. (sử dụng các dẫn chứng chính xác, chọn lọc).
- Nguyên nhân và các giải pháp khắc phục (nếu có)
Giáo viên cũng lưu ý: Nếu bài viết các em đưa vào những cảm xúc và
nhiệt huyết của cá nhân thì bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời
sống sẽ sâu sắc hơn, sáng tạo hơn.
c. Kết bài: 2 ý chính.
- Khẳng định lại mặt lợi, mặt hại của sự việc, hiện tượng.
- Rút ra bài học cho bản thân.
4. Hướng dẫn học sinh thực hành viết bài, đọc lại, chỉnh sửa cho hồn thiện:
Giải pháp này khơng thể xem nhẹ, khơng thể giao phó cho các em là
xong. Giáo viên phải hướng dẫn viết thật kĩ từng phần theo dàn ý đã đúc kết.
Đúng là phải viết theo từng phần, theo đúng trình tự mở bài, thân bài, kết bài,
cách thức tôi thực hiện là: Với mỗi phần mở bài, kết bài tơi đều hình thành đoạn
văn mẫu cho học sinh theo hướng từ chung đến riêng, hoặc bằng phép đối lập,
hoặc bằng cách đi thẳng trực tiếp vào đề… để các em học hỏi.
Ví dụ như đề: Hiện tượng học sinh học qua loa, đối phó. Đoạn văn mẫu mở
bài đi trực tiếp là: “Hiện nay, tình trạng học sinh học qua loa đối phó là phổ
biến, chính cách học sai ấy là hậu quả dẫn đến các bạn không hiểu bài, kết quả
học tập chưa cao. Vậy, chúng ta có những suy nghĩ, nhận định gì về hiện tượng
ấy?”. Đoạn văn mẫu Mở bài theo kiểu đối lập là: “Ngành giáo dục đã và đang
phát động phong trào học thực chất, thi thực chất đang được sự ủng hộ, hưởng
ứng nhiệt tình của giáo viên và học sinh. Ấy thế mà hiện nay tình trạng học qua
loa đối phó cũng rất phổ biến trong học sinh, khiến cho kết quả học tập của các
bạn chưa cao. Vậy, chúng ta phải nhìn nhận và giải quyết thực trạng này như thế
nào?” Với các đoạn văn mẫu, giáo viên sẽ hướng dẫn để học sinh tự thực hành


15


trên lớp, học sinh dễ hiểu và tự xác định đúng hướng mở bài tùy thuộc vào sở
trường của từng em, phần này học sinh làm tốt khi tôi thực dạy.
Tương tự các phần còn lại: 4 ý trong thân bài tơi cũng hình thành 4 đoạn
văn mẫu, đoạn kết bài cũng hình thành đoạn văn mẫu cho học sinh rèn luyện
theo mẫu. Mặt khác, trong khi thực dạy giáo viên còn tranh thủ thời gian luyện
tập tại lớp để các em có điều kiện vận dụng kiến thức ngay, sau đó 1 hoặc 2 em
đọc trước lớp để các học sinh còn lại nhận xét, sửa chữa. Cuối cùng, giáo viên
chốt và khẳng định lại, giáo dục học sinh làm bài theo tất cả các bước nêu trên
đúng trình tự là bài viết hồn chỉnh.
Trong q trình viết bài, giáo viên định hướng học sinh viết đúng nội
dung, tránh thiếu sót, viết theo trật tự, hành văn cho mạch lạc, sáng tạo và ý
kiến, nhận định về một sự việc, hiện tượng đời sống phải rõ ràng, đúng đắn. Các
dẫn chứng đưa ra phải chọn lọc, chính xác và có tính thuyết phục cao. Viết xong
học sinh phải dành ít nhất 5 phút để đọc lại để sửa chữa lỗi chính tả, ngữ pháp
của câu đồng thời có thể bổ sung ý nếu cịn thiếu sót trong q trình viết.
Giải pháp này không thể lướt qua, mà cần được xem trọng bởi đó là khâu
cuối cùng trước khi hồn thiện bài văn. Vì thế, giáo viên cần định hướng cho
học sinh cách sửa chữa bài viết để có sự hoàn chỉnh, đạt yêu cầu của chuẩn kiến
thức kĩ năng đề ra.
Chương 4. Kiểm chứng các giải pháp đã triển khai trong Sáng kiến
Trên thực tế khi dạy học, với sự nhiệt huyết, bản thân đã áp dụng tổng thể
4 giải pháp nêu trên để hướng dẫn học sinh học tập. Chính vì thế, trong năm học
2013-2014, trong giảng dạy bộ môn ngữ văn lớp 9 bản thân tôi đã có một số kết
quả nhất định thể hiện sự thành công hơn nhiều so với năm học 2012-2013, cụ
thể như sau:
- Về chất lượng đại trà cuối năm:

Lớp


số

9B

31

Điểm
0-2,5
SL
%

Điểm
3-4,5
SL
%

0

3

0,0

9,7

Điểm
5-6,5
SL

%
1 38,
2
7

16

Điểm
7-8,5
SL
%
51,
16
6

Điểm
9-10
SL
%
0

Điểm từ 5
trở lên
SL
%
90,
0,0 28
3

Ghi

chú


- Về kết quả phụ đạo học sinh yếu kém: bản thân luôn vận dụng 4 giải pháp trên
vào việc hướng dẫn rèn kỹ năng làm bài nghị luận cho học sinh. Kết quả cuối
năm chuyển loại được 5 em từ học sinh yếu kém đã đạt mức trung bình. Cụ thể:
*Khảo sát học sinh lớp 9B giữa học kỳ II năm học 2013-2014
Lớp
9B


số

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm từ 5

Ghi

0-2,5
SL
%


3-4,5
SL
%
22,

5-6,5
SL
%
1 32,

7-8,5
SL
%
41,

9-10
SL
%

trở lên
SL
%
74,

chú

0

23


31

1 3,2 7
6
0
3
13
9
*Khảo sát học sinh lớp 9B cuối học kỳ II năm học 2013-2014
Lớp
9B


số

0,0

2

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm

Điểm


Điểm từ 5

Ghi

0-2,5
SL
%

3-4,5
SL
%

5-6,5
SL
%
1 38,

7-8,5
SL
%
51,

9-10
SL
%

trở lên
SL
%
90,


chú

0

3

2

16

0

28

31
0,0

9,7

7

6

0,0

3

Kết quả thực dạy của bộ môn tiến bộ và qua kiểm chứng rút kinh nghiệm
tôi nhận thấy các giải pháp trên áp dụng khi dạy kiểu bài ghị luận về một sự

việc, hiện tượng đời sống là hợp lý và có tính thực tiễn cao, phù hợp với các đối
tượng học sinh, đảm bảo đúng phương pháp dạy học tích cực.
Phần III. KẾT LUẬN
1. Những vấn đề quan trong nhất được đề cập đến của sáng kiến kinh
nghiệm
Trước khi nghiên cứu vấn đề “một số giải pháp nhằm giảng dạy có hiệu
quả kiểu bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống trong chương
trình ngữ văn 9”, trong giờ lên lớp bản thân tôi mất rất nhiều thời gian khi
hướng dẫn học sinh tìm hiểu kiểu bài này, gặp khó khăn, lúng túng khi học sinh
chưa biết nhận diện được đề văn, tìm ý, sắp xếp ý về sự việc, hiện tượng đời
sống, nhầm lẫn kiểu bài, hành văn nghị luận còn chưa mạch lạc. Nhưng từ khi
bắt đầu nghiên cứu, áp dụng các giải pháp dạy kiểu bài nghị luận về một sự việc,
hiện tượng đời sống đã nêu trên bản thân tơi đã có những kết quả tích cực trong
cơng tác dạy học. Khi áp dụng vào thực tiễn, tôi thấy các tiết dạy học sinh sôi
nổi hơn, hứng thú học tập hơn, giáo viên tạo được môi trường học tập thân thiện,
17


nhất là các em được thực hành nhiều hơn, viết tốt bài văn nghị luận về một sự
việc, hiện tượng đời sống.
Có thể khẳng định rằng sáng kiến trên đã giải quyết được phần nào những
trăn trở, băn khoăn, lúng túng về phương pháp của người giáo viên khi giảng
dạy kiểu bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống. Thực hiện đảm bảo
dạy đủ kiến thức, đúng phương pháp trên tinh thần dạy học tích cực lấy học sinh
làm trung tâm. Hồ chung trong khơng khí thi đua sơi nổi trong tồn nghành,
được sự quan tâm động viên của Đảng và nhà nước đối với Giáo dục, cùng với
sự say mê và tình yêu nghề nghiệp, sự sáng tạo của các thầy cô, tôi tin tưởng
rằng kết quả học văn của các em sẽ tốt hơn, các em sẽ u thích, ham mê mơn
ngữ văn hơn nữa. Trong sáng kiến kinh nghiệm này tôi chỉ xin đề cập đến một
vài kinh nghiệm nhỏ bé của mình nhận thức được sau thời gian cơng tác với

mong muốn góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục đại trà, đưa giáo
dục Lương Tài tiếp tục gặt hái thêm những thành công và vững bước trên con
đường xây dựng quê hương.
2. Hiệu quả thiết thực của sáng kiến kinh nghiệm khi được áp dụng.
Qua các giờ dạy áp dụng sáng kiến kinh nghiệm trên, tôi nhận thấy hiệu
quả rất thiết thực qua sự đánh giá khách quan, thể hiện bằng nhận thức, niềm
hứng thú say mê của học sinh. Tuy nhiên khi áp dụng vào giảng dạy giáo viên
nên căn cứ vào tình hình hồn cảnh cụ thể khơng phải sử dụng kinh nghiệm này
ở lớp nào cũng như nhau mà còn phải căn cứ vào đối tượng học sinh của từng
lớp. Ở lớp khá giáo viên có thể nâng cao hơn vận dụng những câu hỏi khó để
đưa học sinh vào tình huống tự bộc lộ, cịn ở lớp trung bình có thể sử dụng hạn
chế hơn những câu hỏi trên. Giáo viên phải dày công trong việc chuẩn bị, soạn
bài chu đáo, tìm hiểu suy nghĩ, tham khảo nhiều sách báo, am hiểu thực tế xã hội
để tạo được hệ thống câu hỏi hợp lý, xây dựng bài giảng lý thú giúp cho các em
tìm hiểu bài một cách trực quan sinh động hơn. Tạo khơng khí trong giờ giảng
cởi mở, thân thiện, tích cực tạo được sự thân mật, gần gũi đối với học sinh. Có
như vậy thì giờ dạy mới thành cơng.

18


Tuy nhiên, trong thời gian công tác chưa dài, kinh nghiệm giảng dạy còn
hạn chế, khả năng nhận thức còn hạn hẹp, kinh nghiệm về giải pháp giảng dạy
kiểu bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống của tơi sẽ cịn khơng ít
thiếu sót, rất mong nhận được những chia sẻ, đóng góp từ q đồng nghiệp để
chúng ta cùng nhau xây dựng các phương pháp giảng dạy kiểu bài nghị luận nói
riêng và bộ mơn ngữ văn nói chung ngày càng đổi mới theo đúng tinh thần chỉ
đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cũng như của ngành phát động.
3. Kiến nghị.
a. Đối với nhà trường:

- Đề nghị Ban giám hiệu nhà trường tiếp tục quan tâm nhiều hơn nữa tới hoạt
động giáo dục, kịp thời bồi dưỡng, có chính sách động viên, khích lệ những giáo
viên trực tiếp giảng dạy có nhiều thành tích cả về vật chất lẫn tinh thần .
- Nhà trường cần tổ chức dự giờ, tổ chức chuyên đề thường xuyên hàng tháng về
vấn đề đổi mới dạy học để giáo viên có điều kiện trao dồi phương pháp cùng
nhau trao đổi kinh nghiệm. Đồng thời nhà trường cũng cần duy trì hoạt động của
câu lạc bộ văn học để thu hút các học sinh u thích mơn ngữ văn tham gia, giúp
các em có cơ hội phát huy năng lực thơ văn của mình.
b. Đối với phụ huynh:
- Cần tạo điều kiện về thời gian cho con học tập, vui chơi thích hợp. Song cũng
cần phải có cách quản lí khoa học nếu khơng các em dễ sa vào các tệ nận xã hội
nhất là trò chơi điện tử. Hướng dẫn và tạo cho con thói quen đọc sách, chia sẻ tư
vấn, định hướng, bồi dưỡng tâm hồn cho con để các em có nhiều thuận lợi trong
việc bộc lộ và phát triển cảm xúc, tình cảm trong giao tiếp.
- Các bậc phụ huynh cần phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên chủ
nhiệm, giáo viên bộ môn để tìm hiểu, nắm bắt kịp thời tình hình học tập các mơn
học của con em mình nhất là mơn ngữ văn, từ đó có định hướng hoặc khuyên
nhủ, uốn nắn các em kịp thời để định hướng cho các em trong giao tiếp.
c. Đối với Phòng giáo dục:
- Tiếp tục triển khai sâu rộng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, quán triệt sâu rộng trong cán bộ giáo viên, nhân viên sống
19


cao đẹp, sống đúng với lí tưởng vì sự nghiệp giáo dục, vì sự nghiệp trồng người;
kêu gọi họ rèn luyện phẩm chất đạo đức nhà giáo, đánh thức ở họ lương tâm
nghề nghiệp, sống có kỷ cương, tình thương, trách nhiệm.
- Ngành giáo dục cần triển khai và kiểm tra thường xuyên công tác đổi mới
phương pháp dạy học, đổi mới cách kiểm tra đánh giá học sinh, tăng cường tổ
chức thi giáo viên dạy giỏi để bồi dưỡng đội ngũ. Xây dựng kế hoạch thăm dò

thống kê ý kiến của học sinh, của giáo viên, của nhà trường về việc đổi mới
phương pháp dạy học, có thơng tin phản hồi chính xác, kịp thời chấn chỉnh
những mặt tồn tại trong dạy học.
- Duy trì tổ chức những buổi trao đổi, chia sẽ kinh nghiệm dạy tốt, dạy giỏi của
các giáo viên đã có thành tích để cùng chia sẻ và giúp đồng nghiệp được học hỏi
kinh nghiệm lẫn nhau.
d. Đối với địa phương
- Đề nghị chính quyền địa phương kết hợp với các lực lượng giáo dục, các tổ
chức chính trị xã hội trên địa bàn quản lí chặt chẽ các điểm kinh doanh internet
và các điểm dịch vụ không lành mạnh làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập
của học sinh.

20



×