Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

(SKKN mới NHẤT) SKKN NHÂN vật và một vài nét SÁNG tạo về NGHỆ THUẬT của NGUYỄN DU TRONG TRUYỆN KIỀU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.51 KB, 27 trang )

CHUYÊN ĐỀ MÔN NGỮ VĂN:
“ THẾ GIỚI NHÂN VẬT VÀ MỘT VÀI NÉT SÁNG TẠO VỀ NGHỆ THUẬT
CỦA NGUYỄN DU TRONG TRUYỆN KIỀU”
PHẦN MỞ ĐẦU .
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nguyễn Du tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, biệt hiệu là Hồng Sơn lạp hộ,
người xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Nguyễn Du thuộc dòng dõi trâm anh thế phiệt: cha là Xuân Quận Công Nguyễn
Nghiễm, từng làm tới Tể Tướng triều Lê Mạt; mẹ là người vợ thứ ba, nhũ danh Trần
Thị Tần, người Kinh Bắc; anh là Toản Quận Công Nguyễn Khản cũng làm tới Tham
Tụng, Thái Bảo trong triều.
Sinh ra trong một gia đình quan lại, có truyền thống văn học, năng khiếu thơ văn của
Nguyễn Du sớm có điều kiện nảy nở và phát triển. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng thông
minh dĩnh ngộ. Năm 1783, Nguyễn Du thi hương đậu Tam Trường. Vì lẽ gì khơng rõ,
ơng khơng tiếp tục thi lên nữa.
Năm 1789, Nguyễn Huệ kéo binh ra Bắc, đại thắng quân Thanh. Nguyễn Du, vì tư
tưởng trung quân phong kiến, không chịu ra làm quan cho nhà Tây Sơn.
Năm 1802, Nguyễn Ánh lật đổ Tây Sơn đã vời Nguyễn Du ra làm quan; ông từ chối
mãi mà không được nên miễn cưỡng tuân mệnh. Năm 1805, ông được thăng Đông
Các điện học sĩ, tước Du Đức Hầu. Năm 1813, thăng Cần Chánh điện học sĩ, được cử
làm Chánh Sứ đi Trung Quốc. Sau khi về nước, năm 1815, ông được thăng Lễ Bộ
Hữu Tham Tri.
Đường công danh của Nguyễn Du với nhà Nguyễn chẳng có mấy trở ngại. Ơng
thăng chức nhanh và giữ chức trọng, song chẳng mấy khi vui, thường u uất bất đắc
chí.
Theo Đại Nam Liệt Truyện: Nguyễn Du là người ngạo nghễ, tự phụ, song bề ngồi
tỏ vẻ giữ gìn, cung kính, mỗi lần vào chầu vua thì ra dáng sợ sệt như khơng biết nói
năng gì...
Năm 1820, Minh Mạng lên ngơi, cử ơng đi sứ lần nữa, nhưng lần này chưa kịp đi thì
ơng đột ngột qua đời.
Đại Nam Liệt Truyện viết: Đến khi đau nặng, ông không chịu uống thuốc, bảo người


nhà sờ tay chân. Họ thưa đã lạnh cả rồi. Ơng nói "được" rồi mất; khơng trối lại điều
gì.
Nguyễn Du là con người có trái tim nhân hậu. Nhà thơ đã từng khẳng định Chữ tâm
kia mới bằng ba chữ tài. Mộng liên đường chủ nhân trong lời tựa Truyện Kiều cũng
đã đề cao tấm lòng nhân ái của Nguyễn Du đối với con người và cuộc đời: Lời văn tả
ra hình như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy, khiến ai đọc
lên cũng cũng phải thấm thía, ngậm ngùi, đau đớn đến đến đứt ruột.Tố Như tử dụng
tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết. Nếu khơng phải có con
mắt trơng thấu sáu cõi, tấm lịng nghĩ suốt cả nghìn đời thì khơng thể nào có cái bút
lực ấy.
Kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du là một truyện thơ nôm viết bằng thể lục bát, dựa
theo tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc, Truyện
Kiều, gồm 3.254 câu thơ.
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

1


Hàng trăm năm qua, Truyện Kiều đã sống chan hoà trong đời sống của tồn dân tộc.
Khơng riêng gì Văn học Việt Nam, mà trong Văn học thế giới cũng hiếm có tác phẩm
nào chinh phục được rộng rãi tình cảm của đông đảo người đọc, từ già đến trẻ, từ người
có học đến quần chúng bình dân trước đây phần lớn bị thất học, như Truyện Kiều.
Truyện Kiều đóng một vai trị quan trọng trong sinh hoạt văn hố Việt Nam. Nhiều
nhân vật trong Truyện Kiều trở thành điển hình cho những mẫu người trong xã hội cũ,
mang những tính cách tiêu biểu Sở Khanh, Hoạn Thư, Từ Hải, và đều đi vào thành ngữ
Việt Nam. Khả năng khái quát của nhiều cảnh tình, ngơn ngữ, trong tác phẩm khiến cho
quần chúng tìm đến Truyện Kiều như tìm một điều dự báo. Bói Kiều rất phổ biến trong
quần chúng ngày xưa. Ca nhạc dân gian có dạng Lẩy Kiều. Sân khấu dân gian có trị

Kiều.Hội họa có nhiều tranh Kiều. Thơ vịnh Kiều nhiều không kể xiết. Giai thoại xung
quanhTruyện Kiều cũng rất phong phú. Tuồng Kiều, cải lương Kiều, phim Kiều cũng ra
đời. Nhiều câu, nhiều ngữ trong Truyện Kiều đã lẫn vào kho tàng ca dao, tục ngữ. Từ
xưa đến nay, Truyện Kiều đã là đầu đề cho nhiều cơng trình nghiên cứu, bình luận và
những cuộc bút chiến. Ngay khi Truyện Kiều được công bố (đầu thế kỷ XIX) ở nhiều
trường học của các nho sĩ, nhiều văn đàn, thi xã đã có trao đổi về nội dung và nghệ thuật
của tác phẩm. Đầu thế kỷ XX, cuộc tranh luận về Truyện Kiều càng sôi nổi, quan trọng
nhất là cuộc phê phán của các nhà chí sĩ Ngơ Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng phản đối
phong trào cổ xuý Truyện Kiều do Phạm Quỳnh đề xướng (1924)
Năm 1965, Nguyễn Du chính thức được nhà nước làm lễ kỷ niệm, Hội đồng hồ
bình thế giới ghi tên ơng trong danh sách những nhà văn hoá thế giới. Nhà lưu niệm
Nguyễn Du được xây dựng ở làng quê ông xã Tiên Điền. Trường viết văn để đào tạo
những cây bút mới cũng được mang tên ông.
Nguyễn Du trở thành tác gia được đưa vào giảng dạy trong chương trình Ngữ văn
lớp 9 với số lượng tiết học không nhỏ. Tần số câu hỏi về Nguyễn Du là rất lớn trong các
kì thi. Nguyễn Du là tác gia đáng lưu tâm hàng đầu đối với người dạy và người học.
Xưa nay đã có rất nhiều những cơng trình nghiên cứu phê bình lớn về"Truyện Kiều" và
đã có khơng ít những cách đánh giá, nhìn nhận khác nhau. Về nội dung tư tưởng cịn có
nhiều ý kiến khác nhau nhưng về nghệ thuật thì xưa nay ai ai cũng cho là tuyệt diệu.
Phải nói nét độc đáo nhất trong nghệ thuật " Truyện Kiều" là bút pháp xây dựng
nhân vật. Với tài năng sáng tạo bậc thầy, Nguyễn Du đã thành công trong việc xây dựng
một hệ thống nhân vật đa dạng, phong phú và sinh động. Thành công của Nguyễn Du đã
đánh dấu bước phát triển của nghệ thuật xây dựng nhân vật của loại hình tự sự trong Văn
học Trung đại (đặc biệt là với thể loại Truyện Nôm), đồng thời cũng khẳng định sức sáng
tạo tuyệt vời của Nguyễn Du trong quá trình chuyển đổi cốt truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân thành tác phẩm của mình.
Vì những lý do trên mà tơi quyết định chọn chuyên đề “ THẾ GIỚI NHÂN VẬT VÀ
MỘT VÀI NÉT SÁNG TẠO VỀ NGHỆ THUẬT CỦA NGUYỄN DU TRONG
TRUYỆN KIỀU” . Thông qua nội dung chuyên đề, giúp HS đội tuyển HSG có cái nhìn
khái qt, hệ thống, đầy đủ về một trong những thành công tuyệt đỉnh trong nghệ thuật

Truyện Kiều đó là nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và miêu tả nhân vật giúp vào việc tìm
hiểu, khai thác giá trị của “ Truyện Kiều” tốt hơn.
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

2


- HS có kiến thức mở rộng nâng cao và biết vận dụng kiến thức vào làm các bài tập liên
quan đến nội dung chuyên đề.
- Giáo dục cho HS có ý thức tìm hiểu tài liệu để mở rộng, nâng cao, hiểu sâu sắc kiến
thức trong chương trình học; kích thích tinh thần ham học, sự sáng tạo của HS trong học
và làm văn.
II. ĐỐI TƯỢNG- PHẠM VI- PHƯƠNG PHÁP BỒI DƯỠNG.
1- Đối tượng bồi dưỡng: HS đội tuyển HSG Ngữ Văn lớp 9( đang bồi dưỡng thi HSG
cấp Tỉnh)
Thời gian thực hiện: 4 tiết.
2- Phạm vi kiến thức bồi dưỡng: Thế giới nhân vật và một vài nét sáng tạo về nghệ
thuật của Nguyễn Du trong " Truyện Kiều”.
3- Phương pháp bồi dưỡng: Phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương
pháp so sánh, phương pháp khái quát hoá.
PHẦN NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I. Nguyễn Du cấu trúc các nhân vật để dựng lại một sân khấu với toàn thể bức
tranh xã hội có đủ mọi giai tầng với đủ mọi hạng người đặc trưng .
Trên sân khấu, diễn viên là những nghệ sĩ đem hết tài năng và tâm hồn của mình để
"nhập vai", vui, buồn, khóc, cười như nhân vật có thực trong đời sống. Tài năng ấy
chính là nghệ thuật diễn xuất, diễn xuất làm sao để khán giả cũng buồn, vui, khóc,
cười theo mình. Nhưng cho dù diễn xuất hay mấy đi chăng, nếu tình tiết truyện kịch
nhạt tẻ mà sự sắp xếp các tình tiết lại khơng có lớp lang thuận lý hợp tình, thì vở kịch

không tài nào hấp dẫn được khán giả. Ðấy là kỹ thuật kết cấu công phu của nhà đạo
diễn khi lựa chọn vở tuồng và kiến trúc các tình tiết sao cho ăn khớp mạch lạc, cắt
xén phối hợp các màn cảnh sao cho nổi bật được nghệ thuật diễn xuất của diễn viên.
Trên sân khấu Ðoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du không những là một nhà nghệ
sĩ nhào nặn nên các nhân vật có thực trong xã hội, mà còn là một nhà đạo diễn đem kỹ
thuật khéo léo, kết cấu nên vở kịch lôi cuốn được sự chú ý của người thưởng thức, cất
lên được tiếng kêu mới của kiếp đoạn trường (Ðoạn Trường Tân Thanh), khóc thương
và cảm thơng cho nỗi niềm u ẩn cùng khát vọng của kiếp người trong một xã hội bi
thảm dẫy đầy những bất bình, những tệ trạng cay đắng xót xa.
- Ðại diện cho giới cầm quyền cai trị thì trên có quan tổng đốc đại thần Hồ Tơn Hiến,
dưới có quan huyện Lâm Truy "mặt sắt đen sì", hạ tầng thì có những sai nha "đầy nhà
vang tiếng ruồi xanh" trong vụ tai biến Vương gia, những viên thư lại ở chốn công
đường như viên lại già họ Ðô bên cạnh một tên "thổ quan" trông coi sắc dân thiểu số.
- Giới thượng lưu quý tộc thì có mẹ con nhà quan Lại bộ họ Hoạn.
- Xã hội đen thì có những lầu xanh của hai mụ chủ chứa họ Tú, họ Bạc, với những tay
sai: vô học cũng có như Bạc Hạnh, mà trí thức cũng có như Mã giám sinh và Sở Khanh.
Trong đám dân cùng nơ lệ, kẻ nhẫn tâm cũng có như bọn Khuyển, Ưng gia nhân nhà họ
Hoạn; người có lịng cũng có: như ả Mã kiều đồng cảnh ngộ đã vì cảm thơng mà bảo
lãnh Kiều khỏi bị đánh địn tiếp tục và thổ lộ cho nàng biết hết những quỷ thuật của mụ
Tú; và như Mụ quản gia nhà Hoạn bà đã thương tình dặn nàng biết trước phải đề phòng
chuyện sẽ gặp Thúc sinh cùng với Hoạn Thư; sau cùng như lũ hoa nô nhà Hoạn Thư
được sai đến hầu hạ mà canh chừng Kiều nơi am Chiêu Ẩn.
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

3


- Tơn giáo thì có bà vãi Giác Dun, sư Tam Hợp, có Ðạm Tiên thuộc thế giới vơ

hình nói thay cho Nguyễn Du về tư tưởng Tự Do và Ðịnh Mệnh.
- Và cuối cùng là giới trung lưu thấp cổ bé họng sống trong cảnh trên đe dưới búa,
quan trên trơng xuống thì nhịm ngó tài sản, xã hội đen nhìn vào thì tự do bắt nạt hiếp
đáp.
- Thảng hoặc thấy có bóng người dân lành thì đó là những kẻ vô danh bàng quan đến
nhà Tú bà coi Kiều tự sát cho thoả lòng hiếu kỳ, hoặc chỉ biết chép miệng ngấm nguýt
chê tên Sở Khanh là "bất nghĩa vô lương", hoặc là người dân vô danh ở Hàng Châu kể
cho Kim trọng biết tin tức về Kiều.
Ðủ mọi hạng người, nhân vật nào rõ ra nhân vật ấy.
II. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong “ Truyện Kiều “ của Nguyễn Du.
1. Miêu tả nhân vật qua ngoại hình .
a. Bút pháp tương trưng, ước lệ.
Đây là một loại bút pháp khá quen thuộc của văn học cổ Việt Nam được thể hiện rõ
ở những nhân vật chính diện. Trong "TruyệnKiều" ngoại hình nhân vật là những qui
phạm, những hình ảnh, chữ nghĩa có sẵn, tiêu biểu là trong nghệ thuật miêu tả: Thuý
Kiều, Thuý Vân, Kim Trọng, Từ Hải.
Trong đoạn trích "Chị em Thuý Kiều", trước khi miêu tả vẻ đẹp của từng người, Nguyễn
Du đem đến cho chúng ta những cảm nhận chung về vẻ đẹp của hai chị em. Đúng là
những trang tuyệt sắc giai nhân:
"Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười".
Bút pháp ở đây mang tính ước lệ, tượng trưng, tác giả mượn vẻ đẹp của tự nhiên để
nói lên vẻ đẹp của con người, cả hai chị em đều có vóc dáng thanh tao, tâm hồn trong
trắng như tuyết. Song mỗi người lại có một vẻ đẹp riêng và đều đạt đến độ hoàn mỹ
"mười phân vẹn mười".
Ở đây Thuý Vân là:
"Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da."
Khơng chỉ tươi tắn trẻ trung mà cịn kiều diễm . Nguyễn Du lấy thiên nhiên làm tiêu
chuẩn cho sắc đẹp của con người. Ở đây, Thuý Vân được so sánh với trăng, hoa, mây,
tuyết, ngọc - những biểu tượng của thiên nhiên. Th Vân cú khn mặt trịn trịa, đầy
đặn, sáng đẹp như trăng rằm, tiếng nói trong như ngọc, mái tóc mượt mà óng ả hơn
mây, da trắng hơn tuyết. Đó là vẻ đẹp của một cơ gái phúc hậu, đoan trang, một vẻ đẹp
khiến thiên nhiên phải nhún nhường, phải chịu thua bức chân dung đẹp và có hồn, vừa
bộc lộ tính cách, vừa dự báo số phận nhân vật: một tương lai êm đềm, hạnh phúc sẽ đến
với Thuý Vân, chỉ có thể có được ở con người mắt nhìn người sâu sắc và nghệ thuật
miêu tả bậc thầy của Nguyễn Du.
Chân dung Thuý Kiều nổi bật trên nền chân dung Thuý Vân:
"Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So về tài sắc lại là phần hơn.
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

4


Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh".
Thuý Vân đã được miêu tả như một cơ gái đẹp hồn hảo. Th Kiều vượt lên trên
cái đẹp hoàn hảo ấy để trở thành một cái đẹp tuyệt đỉnh. Vẫn bằng bút pháp ước lệ,
tượng trưng, khi tả Thuý Kiều, Nguyễn Du chuyển sang chấm phá theo kiểu "điểm
nhãn", cốt nêu bật cái thần của vẻ đẹp Thuý Kiều, tập trung vào đôi mắt:
"Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh".
Đôi mắt Kiều được ví như " làn nước mùa thu", làn nước mùa thu vừa trong sáng, vừa

long lanh, vừa gợn sóng, lại được ẩn dưới nét lơng mày thanh tú, mền mại như dẫy núi
mùa xuân, càng thêm cái hài hồ kiều diễm. Quả là, Kiều có vẻ đẹp "sắc sảo mặn mà"
nàng khơng chỉ là bậc mĩ nhân có thể khiến cho"thành nghiêng nước đổ " nàng cịn có
sự sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn. Nếu vẻ đẹp của Thuý Vân khiến cho thiên
nhiên phải thua, nhường nàng, thì vẻ đẹp của Thuý Kiều làm cho hoa cũng phải "ghen",
liễu cũng phải "hờn".
Ca dao từng có câu:
"Một vừa hai phải ai ơi,
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen".
Nguyễn Du cũng linh cảm như vậy về số phận nàng Kiều và ông đã lồng sự linh
cảm đó trong bút pháp tài hoa miêu tả nàng. Vẻ đẹp của nàng đã làm cho tạo hoá thiên
nhiên phải ghen ghét đố kị nên số phận nàng sẽ có éo le, đau khổ, gian truân...
Nhân vật tiếp theo cũng được Nguyễn Du miêu tả với ước pháp ước lệ, tượng trưng
là Kim Trọng được miêu tả với nét bút phác hoạ về các phương diện cần thiết khi nói
đến một nhân vật thư sinh phong kiến: con tuấn mã; chú tiểu đồng, trang phục, danh
tính, gia thế tài năng, học thức. Chàng xuất hiện :
" Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con.
...........
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu bậc tài danh,
Văn chương nết đất thơng minh tính trời.
Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhã ra ngồi hào hoa."
Nguyễn Du đã giành cho chàng những ngôn ngữ đẹp nhất, trang trọng nhất, những tình
cảm ưu ái nhất khi nói về chàng. Chàng khơng những là người phong nhã, thanh lịch mà
cịn có một xuất thân quyền q "nhà trâm anh", "nền phú hậu", một người có sự phú
bẩm rộng rãi của tạo hoá, sự phong phú về tài hoa, trí tuệ "phong tư tài mạo" cũng như
trong ứng
xử tuyệt vời của chàng. Chàng được xây dựng như một người mẫu lý tưởng.

Và đây, nhân vật Từ Hải, một nhân vật xuất hiện trước mắt mọi người và Thuý
Kiều với tầm vóc, dung mạo khác thường:
"Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao".
Ngôn ngữ miêu tả ngoại hình ở đây cũng khơng vượt ra ngồi tính chất cơng thức
ước lệ với những chi tiết đã được quan niệm thẩm mỹ phong kiến quy định cho loại
nhân vạt anh hùng. Nguyễn Du đã khắc hoạ nhân vật bằng những nét khoẻ mạnh, cao
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

5


lớn, đường bệ lẫm liệt đã nói lên vẻ phi thường, vẻ hơn đời của Từ Hải.
"Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài"
Vẻ đẹp của Từ Hải được Nguyễn Du miêu tả với những từ tơn xưng: Đấng anh
hào; những từ có khí phách mạnh mẽ: Đường đường, hơn sức, gồm tài, đội trời, đạp đất,
vẫy vùng...
Nói tóm lại, cũng là bút pháp ước lệ, tượng trưng, nhưng mỗi nhân vật lại có một
nét khác biệt trong tính cách: Thuý Vân đoan trang phúc hậu; Thuý Kiều sắc sảo mặn
mà, Kim Trọng hoà hoa phong nhã; Từ Hải gắn với tính cách phi thường của bậc anh
hùng hảo hán. Tất cả những nhân vật chính diện này Nguyễn Du đều giành cho họ
những tình cảm trân trọng, đẹp đẽ, ông dùng những từ ngữ đẹp nhất để ngợi ca họ.
b. Bút pháp hiện thực.
Bút pháp này được sử dụng ở những nhân vật phản diện đó là những nét vẽ chân
thực, sinh động có tính cá thể, tạo nên những diện mạo đặc sắc: Mã Giám Sinh, Sở Khanh,
Tú Bà...Mã Giám Sinh là một nhân vật tiêu biểu được chọn giảng trong chương trình sách
giáo khoa Ngữ văn 9.

Ở đoạn trích "Mã Giám Sinh mua Kiều" chân dung của y hiện lên thật nực
cười:"Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao".
Câu thơ miêu tả khách quan mà vẫn không che dấu được cái ý ngầm mỉa mai bên
trong. Cách phục sức dụng công cố làm ra vẻ phong lưu, lịch sự của tay con bn đó
phảng phất tính giả tạo và có phần trai lơ, đàng điếm. Miêu tả ngoại hình anh chàng họ
Mã nhưng khơng thể xác định được chính xác về dung mạo như Kim Trọng, Từ Hải...
tác giả chỉ chú trọng miêu tả phục sức bề ngồi già mà cố tơ cho thành trẻ, là con buôn
nhưng lại muốn mượn vẻ phong lưu của một công tử đi hỏi vợ. Những từ "nhẵn nhụi",
"bảnh bao" vốn đã khơng hàm ý đẹp lại có ở một kẻ ngoại tứ tuần, càng gợi một cái gì
khơng lương thiện, có ý chế giễu, mỉa mai. Cịn trong "Kim Vân Kiều truyện" Thanh
Tâm Tài Nhân chỉ giới thiệu qua nhưng là một lời miêu tả khá ưu đãi với Mã Giám
Sinh: "Mụ Hàm nói xong đi ra, hồi lâu đưa mấy người đến, trong bọn có một người đẹp
đẽ, bước tới chào và ngắm nghía Thuý Kiều mãi".
Như vậy, ta có thể thấy chỉ bằng vài nét chấm phá Nguyễn Du đã phác hoạ khái
quát chân dung của một loại người xấu xa trong xã hội, dung mạo của một con bn lưu
manh chun nghiệp, bất nhẫn vì tiền.
2. Miêu tả nhân vật qua cử chỉ, hành động.
So với thế giới nhân vật trong "Kim Vân Kiều truyện" hành động của các nhân vật
trong "Truyện Kiều" chỉ được kể lại vắn tắt nhưng vẫn bộc lộ rõ bản chất từng nhân vật
trong quá trình sáng tác Nguyễn Du đã lược bỏ những cử chỉ hành động khơng phù hợp
với tính cách nhân vật đồng thời ông cũng sáng tạo thêm nhiều những chi tiết mới để soi
sáng cho tính cách. Ở phần này, tôi lựa chọn một số nhân vật với những cử chỉ, hành
động tiêu biểu để thể hiện tính cách.
Mã Giám Sinh sau khi làm lễ "vấn danh" được mụ mối đưa vào "lầu trong" lúc này
bản chất con người hắn mới dần dần được bộc lộ:
"Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,"
Chỉ bằng cử chỉ "ngồi tót" Nguyễn Du đã phơi bày chân tướng vô học bản chất con
bn của Mã Giám Sinh. Đó là một cử chỉ vội vàng và khiếm nhã, không phù hợp với
địa vị người đi hỏi vợ và không đúng với phẩm cách văn hố của một Giám Sinh.

Chun đề mơn Ngữ văn

download by :

6


Cũng cùng bọn người xấu xa, lừa lọc, Sở Khanh đã trở thành một lỗi lo sợ cho
những bạn gái nào đang độ tuổi yêu đương... chỉ bằng một hành động "lẻn", một cử chỉ
"lẩm nhẩm gật đầu", Nguyễn Du đã lột trần bộ mặt đáng ghê sợ của Sở Khanh khi đánh
lừa Kiều:
"Tường đơng lay động bóng cành,
Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào".
Rồi nghe Kiều ân cần kể lể, hắn:
"Lắng nghe lẩm nhẩm gật đầu,
Ta đây nào phải ai đâu mà rằng".
Cử chỉ "lẩm nhẩm" của Sở Khanh có một cái gì đó rất ám muội, khơng được ngay
thẳng nên nó khơng mang dáng vẻ của một con người tử tế.
Đó là cử chỉ của những loại người lưu manh, xảo trá cịn Hồ Tơn Hiến, một viên
quan đại thần thì sao? Hắn được sai đi dẹp loạn đã tìm cách mua chuộc Kiều, lừa hại
chết Từ Hải. Sau đó, hắn cịn ép Kiều hầu hạ dưới màn, làm nhục Kiều:
"Nghe càng đắm, ngắm càng say,
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình".
Đằng sau vẻ uy nghiêm của một viên quan đại thần, trước vẻ đẹp của Kiều, Hồ Tơn
Hiến cũng phải "ngây vì tình", hành động "ngây" đã bộc lộ rõ một hình ảnh si mê thấp
hèn...
Ngoài những cử chỉ của những loại người trên trong "Truyện Kiều" chúng ta cịn thấy có
cử chỉ "xăm xăm" của Thuý Kiều, "thoăn thoắt" của Kim Trọng khi họ đến với nhau.
Nhân dịp gia đình Kiều về quê mừng thọ đã cho rằng đây một thời cơ tốt để gặp Kiều:
"Thời chân chân thức sẵn bày,

Gót sen thoăn thoắt dạo ngang mái tường".
Cịn Kiều, vì tình u, vì khao khát hạnh phúc, được tâm sự với người yêu, nàng
đã:
"Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình".
Với cử chỉ "xăm xăm", "thoăn thoắt", Kiều và Kim Trọng đã bộc lộ rõ họ là những
con người dám sống cho tình yêu, họ đã vượt ra khỏi lễ giáo phong kiến để hành động
theo sự mách bảo của trái tim.
Tóm lại, những từ "tót", "lẻn", "lẩm nhẩm","xăm xăm", "thoăn thoắt", là những từ
rất chính xác, rất đắt chỉ có ở Nguyễn Du, chứ khơng có ở "Kim Vân Kiều truyện". Nhờ
thế nhân vật trong "Truyện Kiều" hiện lên cụ thể, sinh động hơn nhiều so với nhân vật
của Thanh Tâm Tài Nhân.
Với Nguyễn Du, miêu tả nhân vật qua nội tâm, khám phá các trạng thái tâm lý của
một con người đã trở thành một yếu tố đặc biệt quan trọng để xây dựng tính cách và đã
có thành tựu rực rỡ.
3. Miêu tả nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ tự sự:
Ở đoạn "Mã Giám Sinh mua Kiều" trong cảnh mua bán Thuý Kiều là hiện thân của
con người lương thiện bị chà đạp của tài sắc bị dập vùi thảm thương. Nguyễn Du càng
căm ghét tên buôn người Mã Giám Sinh bao nhiêu thì càng cảm thương sâu sắc trước nỗi
đau xót nhục nhã ê chề của cơ gái tài hoa bấy nhiêu, Kiều là một trang quốc sắc thiên
hương, vậy mà bị đem ra mua bán như món hàng ngoài chợ. Nguyễn Du kể mà như nhập
vào nhân vật, cũng đau sót với nhân vật:
"Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng.
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

7



Ngại ngùng dín gió e sương,
Ngừng hoa bóng thẹn trơng gương mặt dầy.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai".
Sáu dịng thơ mơ tả nỗi uất ức, xót xa, tủi nhục của một trang tuyệt sắc giai nhân
trước sự mua bán trơ trẽn của bọn bn người. Từ đầu đến cuối, Kiều khơng hề nói một
lời, chỉ có nỗi buồn hiện ra qua từng bước chân, nét mặt. Ở đoạn này trong "Kim Vân
Kiều truyện" Thanh Tâm Tài Nhân để Thuý Kiều lên tiếng năm lần, trong đó có hai lần
tham gia vào mặc cả như sau:
"Th Kiều nói:
- Bán mình mà khơng được việc thì bán để làm gì?
Người ấy nói:
- Thơi xin đưa bốn trăm lạng.
Th Kiều nói:
- Khơng phải năm trăm lạng là không được".
Rõ ràng sự câm lặng, những giọt nước mắt lặng lẽ của Thuý Kiều, trong Truyện
Kiều của Nguyễn Du hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh và tâm trạng bi kịch, với tính
cách của nàng.
Đoạn "Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều", bút pháp miêu tả nội tâm nhân vật của
Nguyễn Du lại hiện lên rõ nét:
"Người lên ngựa kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhốm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất đã mấy ngàn dây xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi mn dặm một mình xa xơi.
Vầng trăng ai xẻ làm đơi,
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường".
Đoạn thơ nói lên sự chia biệt giữa Thúc Sinh và Thuý Kiều. Đây là một cuộc chia
cách đầy lưu luyến giữa một đôi trẻ. Họ đã từng có những tháng ngày bên nhau đầy

hạnh phúc mặn nồng. Mặc dù, Thúc Sinh không phải là mối tình đầu lãng mạn cao đẹp
như với chàng Kim, nhưng ở bên Thúc Sinh, Kiều có một cuộc sống êm ấm, trong sạch,
hồ thuận cả hai cùng khơng muốn rời nhau nhưng họ vẫn phải xa nhau. Lần này Thúc
Sinh từ biệt Thuý Kiều để về nói cho Hoạn Thư biết việc mình đã lấy Kiều làm lẽ. Kiều
linh cảm cuộc chia tay lành này lành ít giữ nhiều. Vì thế mà "người lên ngựa" đã đi rồi,
chỉ cịn lại mình Kiều với nỗi buồn chia cách. Thiên nhiên quanh nàng cũng trở nên
mênh mông dàn trải, hiu hắt: một mầu quan san (mầu của chia ly, cách biệt), một ngàn
dâu vô tận, một vầng trăng đơn chiếc, khơng trọn vẹn...cũng nói về cảnh chia ly, trong
"Chinh phụ ngâm" của Đặng Trần Cơn cũng có hình ảnh tương tự:
"Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh biếc mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngát một mầu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai..."
Trong thơ của Nguyễn Du Kiều hiện lên với những tâm sự rất chân thành sâu sắc,
điều đó chứng tỏ Nguyễn Du đã phải nhập thân vào nhân vật mới viết được những dòng
xúc động như thế.
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

8


Đoạn miêu tả tiếng đàn của Kiều khi bị Hồ Tôn Hiến làm nhục sau khi lừa Kiều,
xúi giục Từ Hải ra hàng và chàng đã bị chết đứng:
"Một cung gió thẩm mưa sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay".
Nguyễn Du đã dùng tiếng đàn bi thảm "gió thảm mưa sầu", "nhỏ máu" để cụ thể
hoá tâm trạng và vận mệnh của Kiều. Trong các lần gẩy đàn của Kiều, không lần nào
tiếng đàn bi thiết, đau thương như lần này. Tiếng đàn bật máu, tiếng đàn mang cái chết

của Từ Hải và cái chết trong
tâm hồn Kiều. Một cõi lòng đã dập tắt mọi niềm hạnh phúc, ước mơ. Chúng ta
thấy dường như Nguyễn Du cũng đang tan nát cõi lòng, cũng đang nhỏ máu tâm hồn
cùng nàng Kiều.
Qua những đoạn thơ trên, Thuý Kiều hiện lên với tất cả trạng thái phức hợp: Có
nỗi buồn tủi, xót xa, đau đớn, ê chề, hổ thẹn, nhớ nhung với những rung động rất đời, rất
thực.
Như vậy, có thể nói với bút pháp miêu tả bậc thầy, Nguyễn Du đã xây dựng lên
chân dung Thuý Kiều không chỉ tuyệt thế giai nhân mà cịn có thế giới nội tâm phong
phú, sinh động, khiến nàng trở nên gần gũi với đời thực hơn - điều này chỉ có ở Nguyễn
Du chứ khơng thể có trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân - Trung
Quốc.
4. Miêu tả nội tâm nhân vật qua ngơn ngữ độc thoại:
Ở đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" Nguyễn Du thành cơng khi sử dụng loại
ngôn ngữ độc thoại nội tâm để khám phá chiều sâu tư tưởng, tình cảm con người, hiểu
được tâm trạng nỗi niềm của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích:
"Tưởng người dưới Nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rầy trông mai chờ".
Người đầu tiên xuất hiện trong nỗi nhớ của Kiều là chàng Kim, nàng tưởng nhớ
hình ảnh hai người uống rượu thề nguyện dưới đêm trăng mới hôm nào, trước đó:
"Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song".
Và Kiều thấy thương Kim Trọng vẫn chưa biết Kiều đã không giữ trọn lời thề, vẫn
đêm ngày trông chờ nàng một cách uổng công. Từ nhớ chàng Kim, nàng lại thấy thương
mình:
"Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?".
Nàng thấm thía với tình cảnh bơ vơ, trơ trọi của mình nơi "bên trời góc bể" và
nuối tiếc mối tình đầu trong trắng, "tấm son" ở đây là tấm lòng chung thuỷ sắc son của
Thuý Kiều đối với Kim Trọng. Bao giờ có thể qn được mối tình đó. Cũng có thể hiểu

tấm lòng trong trắng của Thuý Kiều bị dập vùi, hoen ố, biết bao giờ mới có thể gột rửa
được?
Như vậy, ta có thể thấy Kiều đã nhớ Kim Trọng với một tâm trạng đau đớn, xót xa,
nàng quả là một người tình chung thuỷ.
Trong dịng suy nghĩ miên man, nàng hết nhớ người yêu lại nhớ đến cha mẹ:
"Xót người tựa cửa hơm mai,
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?
Sân lai cánh mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm".
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

9


Kiều đã hình dung ra cảnh tượng sớm hơm cha mẹ tựa cửa ngóng trơng tin tức của
nàng. Nàng lại day dứt không nguôi là giờ đây ai là người phụng dưỡng cha mẹ đang
ngày một già yếu.
Chỉ bốn câu thơ độc thoại nội tâm, Nguyễn Du đã khắc hoạ được tấm lòng hiếu
thảo của Thuý Kiều đối với cha mẹ.
Suốt quãng đời mười lăm năm đoạn trường lưu lạc, Nguyễn Du đã nhiều lần để
Kiều độc thoại để từ đó bộc lộ chính mình.
Có lúc, nàng đau đớn, dằn vặt, xót xa sau những đêm bướm lả ong lơi và cuộc say
đầy tháng:
"Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa".
Có khi nàng băn khoăn, trăn trở, hãi hùng về cuộc sống, về tương lai, về thân phận
ln ám ảnh day dứt nàng:
"Một mình lưỡng lự canh chày,

Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh".
Rồi khi nàng khuyên Từ Hải ra hàng, ngôn ngữ độc thoại đã bộc lộ rõ những nét
tâm lý rất thực của một cô gái nửa đời nếm trải đủ mùi đắng cay:
"Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.
Bằng tay chịu tiếng vương thần,
Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì!
Cơng tư vẹn cả hai bề,
Dần dà rồi cũng liệu về cố hương.
Cũng ngồi mệnh phụ đường đường,
Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha...".
Qua đoạn thơ, ta thấy tâm lý của Kiều hiện lên rất thực: nàng biết khi Từ Hải ra
hàng thì phải chịu thiệt thòi, phải mang tiếng vương thần, song bên cạnh đó là cả một
tương lai tươi sáng, rực rỡ đã nói lên nhiều điều lợi, dù sao Kiều chỉ là một nạn nhân mà
nguyện vọng duy nhất là được sống yên ổn, lương thiện và trong sạch.
Có thể nói với những yếu tố ngôn ngữ độc thoại như trên, nàng Kiều hiện lên như
một người trần tục với tất cả những tình cảm, suy nghĩ, lo toan rất thực, rất đời thường,
nàng trở nên gần gũi với người đọc hơn. Đạt được điều đó phải chăng đó chính là trình
độ bậc thầy của Nguyễn Du trong việc khám phá thế giới nội tâm con người, đặc biệt là
những người phụ nữ.
5. Khắc họa tính cách nhân vật qua ngơn ngữ đối thoại.
Để nhân vật của mình được hiện lên đầy đủ, toàn diện, Nguyễn Du đã miêu tả họ
với cái nhìn nhiều chiều, có khi là miêu tả ngoại hình, có khi miêu tả nội tâm, có khi lại
thơng qua ngôn ngữ đối thoại của họ để thấy được tính cách sống động của mỗi nhân
vật.
Ở đoạn trích "Thuý Kiều báo ân, báo ốn" ngơn ngữ đối thoại được thể hiện rõ
ràng hơn cả. Có hai cuộc đối thoại: đối thoại giữa Kiều với Thúc Sinh và đối thoại giữa
Kiều với Hoạn Thư và giữa Hoạn Thư với Kiều.
Kiều được Từ Hải - người anh hùng cứu ra khỏi lầu xanh, giúp nàng báo ân, trả
oán. Đưa nàng từ thân phận của một kỹ nữ chốn lầu xanh nhơ bẩn lên thân phận của một

mệnh phụ phu nhân, bước lên địa vị một quan tồ cầm cán cân cơng lý. Trong phiên toà
nàng cho gọi những người đã từng có ân, có ốn với nàng đến.
Chun đề mơn Ngữ văn

download by :

10


Người đầu tiên được Kiều mời đến là Thúc Sinh, thấy hình ảnh tội nghiệp của
Thúc Sinh nàng đã cất lên tiếng hàm ơn:
"Nàng rằng: Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ chàng cịn nhớ khơng?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?".
Rõ ràng là Kiều vẫn rất nhớ tấm lòng và sự giúp đỡ mà Thúc Sinh đã giành cho
nàng trong cơn hoạn nạn. Nàng gọi đó là "nghĩa nặng nghìn non". Nghĩa là nàng vẫn
nhớ tới công ơn của Thúc Sinh đã đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cuộc
đời ô nhục đem lại cuộc sống gia đình êm ấm.
Đối thoại với Thúc Sinh, Kiều nói bằng một ngơn ngữ rất trang trọng: "nghĩa nặng
nghìn non", "chẳng vẹn chữ tịng"...hầu hết là những từ Hán Việt, lại dùng cả điển cố...
Cách nói đó phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc và biểu lộ được tấm lòng biết ơn chân
thành của Kiều.
Thuý Kiều cũng nói với Thúc Sinh rằng: Kẻ gây ra sự chia cách giữa hai người không
phải do chàng mà là do vợ chàng. Nói với Thúc Sinh về Hoạn Thư, Kiều khơng sao
ngi được sự ốn giận với những khổ đau mà Hoạn Thư đã gây ra cho nàng, vết
thương đó cịn đang q xót xa trong lịng nàng, cho nên nàng khơng thể khơng cả giận:
"Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,

Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa".
Nếu nói với Thúc Sinh, Kiều nói bằng một ngơn ngữ trang trọng, thì nói về Hoạn
Thư, Kiều lại nói bằng một ngơn ngữ hết sức nơm na bình dị, Kiều sử dụng những thành
ngữ quen thuộc, đó là lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Qua ngơn ngữ đối thoại của Kiều với Thúc Sinh, ta thấy tính cách của nàng đã bộc
lộ khá rõ ràng, nàng xử đúng người đúng tội, báo nhân đối với người đáng báo ân, đồng
thời thấy được nàng là một người sống có tình có nghĩa, có trước có sau.
Sau khi trả ơn Thúc Sinh, bà quản gia nhà họ Hoạn và sư Giác Duyên, Thuý Kiều
mới bước vào cuộc báo thù:
"Dưới cờ gươm tuốt nắp ra,
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư".
Thuý Kiều thoắt trông thấy Hoạn Thư đã cất tiếng chào mỉa mai: "Tiểu thư cũng
có bây giờ đến đây!" Kiều dùng cách xưng hơ như hồi cịn làm hoa nơ cho nhà họ Hoạn
trong hồn cảnh thứ bậc đã đổi ngôi.
Tiếp theo lời chào mỉa mai là những lời mắng nhiếc, xỉ vả:
"Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều".
Với một kẻ như Hoạn Thư:
"Bề ngồi thơn thớt nói cười,
Bề trong nham hiểm giết người khơng dao".
thì những lời mắng nhiếc xỉ vả ấy của Kiều là đích đáng lắm.
Trước những lời nói mỉa mai, đay nghiến đó của Kiều, Hoạn Thư đã xử trí ra sao?
Lúc đầu, "Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu", nhưng sau đó "Hoạn Thư đã liệu điều
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

11



kêu ca". Trước hết Hoạn Thư gỡ tội cho mình bằng cách dựa vào tâm lý thường tình của
người phụ nữ:
"Rằng: tơi chút phận đàn bà,
Ghen tng thì cũng người ta thường tình".
Hoạn Thư nói rằng tội của tơi là tội ghen tng, mà tội ấy thì ở người đàn bà nào
mà chẳng có. Vậy là, đã đánh thức được ở Kiều lịng thơng cảm với người cùng giới.
Quả thực, ngay từ đầu Hoạn Thư đã tỏ ra thông minh giảo hoạt.
Tiếp theo, Hoạn Thư lại gợi chút "ân tình" ngày xưa: một là, đã cho Kiều xuống
Quan Âm các "giữ chùa chép kinh", khơng bắt làm thị tì nữa; hai là, khi Kiều bỏ trốn
mang theo chuông vàng khánh bạc, Hoạn Thư cũng không cho người đuổi bắt. Cách nói
rất khéo chỉ gợi sự thật và chuyện cũ ra, chỉ người trong cuộc mới biết.
"Nghĩ cho" là nhớ lại cho, suy nghĩ lại cho:
"Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo".
Đối với Kiều, Hoạn Thư đã từng nói với Thúc Sinh: "Rằng: tài nên trọng mà tình
nên thương". Tuy "chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai", nhưng trong thâm tâm, Hoạn
Thư rất "kính yêu" Thuý Kiều. Cuối cùng Hoạn Thư tự nhận tội của mình và xin Kiều
rộng lịng tha thứ:
"Trót lịng gây việc chơng gai,
Cịn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?"
Lời gỡ tội của Hoạn Thư vừa có lí, vừa có tình. Lời cầu xin đúng mực, chân thành,
Kiều đã phải thừa nhận cái thông minh, giảo hoạt của Hoạn Thư và ban một lời khen:
"Khen cho: thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mức nói năng phải lời".
Khơng thể là người "nhỏ nhen" Kiều đã tha tội cho Hoạn Thư:
"Đã lòng tri quá thì nên,
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay".
Sự việc diễn ra quá bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của nhiều người. Vốn là một

người phụ nữ trung hậu, đã từng nếm trải bao cay đắng và ngang trái trong cuộc đời, vả
lại Kiều cũng tự biết rằng mình đã xâm phạm đến hạnh phúc của người khác. Tha tội
cho Hoạn Thư, Kiều tỏ ra vô cùng cao thượng.
Như vậy, với màn báo ân báo oán ta thấy hết được những sáng tạo của ngòi bút
thiên tài Nguyễn Du. Cảnh pháp trường thời trung cổ được miêu tả ước lệ mà không
kém phần uy nghiêm. Lời thoại rất gọn mà sắc đã làm nổi bật tâm lý, tính cách nhân vật
Thúc Sinh lành mà nhát sợ; Hoạn Thư thì khơn ngoan, sắc sảo; Kiều rất trung hậu, cao
thượng, bao dung.
Nguyễn Du đã sáng tạo lên những lời thoại biến hố đã nói lên chuyện ân ốn, cái
Chun đề môn Ngữ văn

download by :

12


lẽ đời xưa nay, ca ngợi sự thuỷ chung tình nghĩa, lên án bọn bạc ác tinh ma. Cảnh báo
ân, báo ốn là một tình tiết rất đậm làm nổi bật tinh thần nhân đạo của "Truyện Kiều".
II. Bút pháp miêu tả thiên nhiên.
Nhận xét về thiên nhiên trong "Truyện Kiều", Đặng Thanh Lê từng nói : "Có thể nói
thiên nhiên trong "Truyện Kiều" cũng là một nhân vật, một nhân vật thường lặng
lẽ, kín đáo nhưng khơng mấy khi khơng xuất hiện và ln ln thấm đượm tình
người”
1. Miêu tả thiên nhiên trực tiếp.
Miêu tả là bút pháp khá quen thuộc đối với bất kỳ nhà văn hay nhà thơ nào dù ở nước
ngoài hay trong nước. Nhờ bút pháp này mà nó làm cho mỗi bài văn, bài thơ thêm cụ
thể hơn, sinh động hơn, gần gũi hơn, hấp dẫn hơn. Có rất nhiều loại bút pháp miêu tả:
Có thể là tả cảnh, có thể là tả người... có thể tả trực tiếp, có thể tả gián tiếp ( mượn cảnh
để tả tình) và khơng phải tác giả nào cũng thành công ở tất cả các loại bút pháp như vậy,
nhưng riêng Nguyễn Du miêu tả là một thiên tài bậc thầy của nền văn học dân tộc.

Trong chương trình Ngữ Văn 9 bậc Trung học cơ sở, những nét sáng tạo nghệ thuật
độc dáo của Nguyễn Du được thể hiện cụ thể qua mỗi đoạn trích trong "Truyện Kiều".
- Ở phần đầu đoạn trích "Cảnh ngày xuân" Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp miêu tả
thiên nhiên trực tiếp.
"Ngày xuân con én đưa,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa".
Bốn câu thơ đầu Nguyễn Du đã mở ra một không gian nghệ thuật hữu sắc, hữu
hương, hữu tình, nên thơ. Giữa bầu trời bao la, mênh mông là những cánh én bay qua,
bay lại như "thoi đưa". Cánh én ngày xuân thân mật biết bao. Hai chữ "đưa thoi" rất gợi
hình, gợi cảm. Nhà thơ miêu tả cánh én như con thoi vút qua, vút lại chao liệng như
muốn nói thời gian đang trơi nhanh, mùa xuân đang trôi nhanh, ngày vui trôi rất nhanh.
Sau cánh én "đưa thoi" là ánh xuân, là "thiều quang" của mùa xn khi "chín chục
đã ngồi 60". Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của các thi nhân xưa nay
thật là hay và ý vị. Nào là "xuân hướng lão" (Ức Trai), nào cảnh mưa bụi, tiếng chim kêu
trong Đường thi, còn là "xuân hồng" (Xuân Diệu), "Mùa Xuân chín" (Hàn Mạc Tử) ...với
Nguyễn Du là mùa xuân đã bước sang tháng thứ ba, "thiều quang chín chục đã ngồi sáu
mươi". Hai chữ "thiều quang" gợi lên cái màu hồng của ánh xuân, cái ấm áp của khí
xn, cái mênh mơng bao là của đất trời.
Nếu hai câu thơ trên là thời gian, là không gian xn thống đạt, thì 2 câu dưới là
bức hoạ tuyệt đẹp về mùa xuân.
"Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Vần cổ thi Trung Hoa được Tố Như vận dụng một cách sáng tạo: "Phương thảo
liên thiên bích - lê chi sổ điểm hoa": Hai chữ "Trắng điểm" là nhân tự, cách chấm phá
điểm xuyết của thi pháp cổ gợi lên vẻ đẹp thanh xuân trinh trắng của thiên nhiên cỏ hoa;
bút pháp nghệ thuật phối sắc tài tình: Thảm cỏ xanh non trải rộng tới chân trời là gam
màu nền cho bức tranh xuân. Trên nền màu xanh non ấy điểm xuyết một vài bơng hoa lê
trắng. Màu sắc có sự hài hồ đến tuyệt diệu. Tất cả đều gợi lên vẻ đẹp riêng của mùa

xuân: mới mẻ, tinh khôi giầu sức sống.
Như vậy, bằng vài nét chấm phá, miêu tả bậc thầy "Cảnh ngày xuân" trở thành bức
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

13


tranh xuân hoa lệ, là vần thơ tuyệt bút mà Nguyễn Du trao tặng cho đời, điểm tô cho
cuộc sống của mỗi chúng ta. Phải chăng thi sĩ Chế Lan Viên đã học tập Tố Như để viết
nên vần thơ xuân tuyệt đẹp này:
"Tháng giêng hai xanh mướt cỏ đồi,
Tháng giêng hai vút trời bay cánh én..."
("Ý nghĩ mùa xuân")
Đó là bức tranh xuân được Nguyễn Du cảm nhận vào buổi sáng, cịn bức tranh
xn trong buổi chiều thì sao?
2. Tả cảnh ngụ tình.
Thi nhân xưa thường hay mượn cảnh để tả tình, nhìn cảnh mà thấy được tình.
Trong bức tranh "Cảnh ngày xuân" cũng vậy:
"Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dan tay về.
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang."
Bức tranh ở đây khơng cịn tươi rói, tinh khơi nữa mà dường như đã nhuốm màu
tâm trạng. Nguyễn Du thật khéo khi miêu tả thiên nhiên, vẫn là cây cầu nhỏ, khe nước
nhỏ, vẫn là cái thanh, cái dịu của mùa xuân, nhưng ông đã tả chúng dưới một góc nhìn
khác, một thời điểm khác, nên giữa cảnh và tình có sự giao hồ đồng điệu với nhau.

(Trong cái "nao nao" của dịng nước như có cả cái nao nao của lịng Kiều vì sự linh
cảm).
Nguyễn Du dùng hàng loạt từ láy để tả sắc thái cảnh vật và tâm trạng của nhân vật:
tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao, nho nhỏ, ta như thấy được cảm giác bâng khuâng,
xao xuyến của chị em Thúy Kiều trên đường trở về sau một ngày du xuân.
Bút pháp tả cảnh ngụ tình ta khơng chỉ gặp trong "cảnh ngày xn" mà ta cịn thấy
trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích".
"Trước lầu Ngưng Bích khố xn,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia."
Bức tranh lầu Ngưng Bích có những cồn cát nhấp nhô, bát ngát, những bụi sắc đỏ
thổi bốc lên và xa xa là những dãy núi non trùng điệp và có cả ánh trăng. Cảnh thiên
nhiên mêng mông, vắng lặng, trơ trọi, rợn ngợp ở lầu Ngưng Bích là để làm nổi bật tâm
trạng, nỗi buồn, niềm cơ đơn buồn tủi của nàng Kiều.
Có thể nói bức tranh trước lầu Ngưng Bích khơng cịn đơn thuần là bức tranh thiên
nhiên mà là bức tranh "tâm cảnh" - Trong cảnh có tình, trong tình có cảnh. Thi nhân
xưa đã từng nói:
"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?".
Kiều đang trong tâm trạng buồn cơ đơn tê tái nên nàng nhìn đâu cũng thấy buồn.
Tám câu cuối trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" Nguyễn Du tả khung cảnh thiên
nhiên xung quanh lầu Ngưng Bích là để tả tâm trạng Thuý Kiều. Đây là một bức tranh
phong phú và sinh động về ngoại cảnh và tâm cảnh. Nổi bật trong đoạn thơ là tâm trạng
đau buồn da diết của Thuý Kiều:
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

14



"Buồn trơng cửa bể chiều hơm,
Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?"
Cánh buồn thấp thoáng xa xa trên mặt biển trong buổi chiều tà gợi lên ở nàng nỗi
buồn da diết về quê nhà xa cách hay là trông ngóng một cái gì mơ hồ sẽ đến nhưng vơ
vọng.
"Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?"
Phải chăng một cánh hoa trơi giữa dịng nước mênh mông là buồn về số phận "hoa
trôi bèo dạt" của nàng?
"Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh."
Cảnh tượng cánh đồng cỏ úa tàn, chân mây mặt đất mờ mịt, xanh xanh phải chăng
là nỗi buồn thương vơ vọng của nàng?
"Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."
Gió cuốn mặt duềnh làm cho sóng vỗ ầm ầm ...Cảnh tượng ấy "kêu quanh ghế
ngồi" là tâm cảnh, nàng cảm thấy như sóng vỗ dưới chân mình. Đây là tâm trạng hãi
hùng, lo sợ trước những tai hoạ đang rình rập ập xuống đầu nàng.
Như vậy, bằng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tài hoa, độc đáo, Nguyễn
Du đã khắc hoạ được một bức tranh sinh động về ngoại cảnh và tâm
cảnh, trong đó nổi lên tâm trạng nàng Kiều bề bộn bao nỗi buồn đau,
chua xót, lo sợ, vơ vọng...
III.Luyện tập.
Đề 1.Cảm hứng nhân văn của Nguyễn Du trong đoạn trích "Chị em Thúy Kiều"?
HD
Goethe - nhà đại tư tưởng người Đức-từng phát biểu một câu nói rất sâu sắc: “ Chỉ
những cơng cuộc nào vì cảnh ngộ mà làm nên mới lâu bền được ”. Truyện Kiều của đại
thi hào Nguyễn Du quả thật là một tác phẩm làm nên từ cảnh ngộ 

Sống trong xã hội phong kiến đầy rẫy bất công, chứng kiến nhiều oan khuất của những
người phụ nữ, cụ Nguyễn Du đã viết nên danh tác bằng tất cả lòng ngưỡng mộ và cảm
thương sâu sắc cho những bóng hồng tài sắc vẹn tồn mà bạc mệnh. Truyện Kiều kể về
cuộc đời đầy trắc trở, nỗi đau đớn đoạn trường của nàng Kiều tài sắc, từ đó lên án hiện
thực đau lịng của xã hội phong kiến đương thời. Trong tác phẩm, đoạn trích “ Chị em
Thúy Kiều ” được đưa vào sách giáo khoa là một đoạn miêu tả nhân vật đặc sắc, thể
hiện rõ nét tài sắc của nàng Kiều và đưa ra dự cảm cho số phận đoạn trường của nàng 
Nguyễn Du sinh ra trong thời kì loạn lạc, đất nước xảy ra nội chiến giữa hai miền NamBắc, nhà Thanh kéo quân xâm lược nước ta. Sinh thời ông chứng kiến nhiều nỗi bất
hạnh oan khuất của nhân dân và cảm thương sâu sắc cho số phận của họ, đặc biệt đối
với những người phụ nữ. Hoàn cảnh sống và tâm hồn đa tư đa lự của cụ Nguyễn Du đã
cho ra đời danh tác truyện Kiều lưu truyền muôn đời. Tác phẩm đặc biệt thành công
trong nghệ thuật miêu tả nhân vật, tiêu biểu là trong đoạn trích “ Chị em Thúy Kiều ”
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

15


với bút pháp ước lệ - lấy cảnh tả người đặc sắc. Đoạn trích khơng những thành cơng
khắc họa chân dung Vân, Kiều mà còn đưa ra dự cảm về số phận chìm nổi của nhân vật
chính 
Hai câu thơ đầu trong đoạn trích đã giới thiệu sơ lược hai nhân vật được miêu tả 
Tự ngàn xưa trăng đã xuất hiện nhiều trong thơ ca. Trăng mang một vẻ đẹp dịu dàng,
thanh cao mà tràn đầy quyến rũ. “ Tố nga ” là từ Hán Việt có nghĩa đen là vầng trăng
đẹp, trong truyện Kiều lại được dùng để giới thiệu hai tiểu thư xinh đẹp, thật là tinh tế !
Ngay từ câu đầu tiên, cụ Nguyễn Du đã giúp người đọc hình dung được Vân và Kiều có
vẻ đẹp thanh cao của con nhà quyền quí. 
Nhắc đến mai và tuyết, ta liền nhớ đến dáng vẻ thanh thoát, uyển chuyển của cây mai và
màu trắng tinh khiết, trong sạch của những bông tuyết. Bút pháp ước lệ trong câu thơ “

Mai cốt cách, tuyết tinh thần ” đã nêu phẩm chất tốt đẹp của chị em Thúy Kiều: cốt cách
thanh cao, tâm hồn trong sáng. Câu thơ kế tiếp lại khẳng định Vân và Kiều mỗi người
đều có một vẻ đẹp riêng và đều là vẻ đẹp hoàn mĩ “ mười phân vẹn mười ”. 
Vẻ đẹp của nàng Vân là vẻ đẹp phúc hậu từ khuôn mặt đến cử chỉ. Hình ảnh trăng lại
xuất hiện để tả khn mặt đầy đặn của nàng, hợp với hàng lông mày nở nang tạo nên nét
đẹp thuần hậu. Nụ cười tươi như hoa và những lời ngọc ngà, đứng đắn, nghiêm trang
của Vân đã nói lên phẩm chất tốt đẹp của nàng. Lại thêm mái tóc bồng bềnh mềm mại
như mây và làn da trắng tuyết đã khẳng định Vân là một nữ nhân xinh đẹp, đức độ.
Bằng bút pháp ước lệ, Nguyễn Du đã ví vẻ đẹp của Thúy Vân với những gì cao đẹp nhất
của thiên nhiên: trăng, con ngài, hoa, ngọc, mây và tuyết. Tuy nhiên việc miêu tả nàng
Vân của cụ mang tính cụ thể hơn đối với Kiều: cụ thể trong bút pháp liệt kê mặt, lông
mày, tiếng cười, lời nói, mái tóc, làn da, trong cách dùng từ láy “ trang trọng ”, “ đầy
đặn ”, “ nở nang ” khiến chân dung nàng trở nên thật rõ nét. Chân dung của nàng cũng
mang tính dự báo số phận. Vẻ phúc hậu, hòa hợp với thiên nhiên, được thiên nhiên chấp
nhận “ thua ”, “ nhường ” đã nói trước cuộc đời bình lặng, sn sẻ của nàng 
Nhan sắc của Vân và Kiều lại mang tính đối lập nhau. Nếu sắc đẹp của Vân nhẹ nhàng,
hiền dịu thì Kiều sắc sảo, quyến rũ 
Câu thơ đầu tả Kiều đã khái quát đặc điểm nàng: sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn.
Nguyễn Du lại khẳng định nàng tài sắc hơn hẳn em nàng “ So bề tài sắc lại là phần hơn
”. Tác giả vẫn dùng bút pháp ước lệ quen thuộc, nhưng so với khi tả Vân thì nhan sắc
của Kiều được tả khơng rõ rệt “ làn thu thủy, nét xuân sơn”. Người đọc phải ngẫm nghĩ
mới hiểu ra cụ ví đơi mắt Kiều như nước hồ thu, lơng mày thanh thốt như nét núi mùa
xuân. Mùa thu, bầu trời xanh và cao hơn, mặt nước hồ phản chiếu bóng trời càng trở nên
sâu hơn. Đôi mắt Kiều cũng như làn thu thủy: trong vắt, long lanh, sâu lắng, phản chiếu
cả tâm hồn nàng. Đơi mắt chính là cửa sổ tâm hồn, có sức quyến rũ lớn nhất, có lẽ vì
vậy mà cụ Nguyễn Du đã chọn mắt và lông mày để tả Thúy Kiều. Vẻ đẹp của nàng có
thể nghiêng nước nghiêng thành, làm thiên nhiên phải “ ghen ”, “ hờn ” chứ không chịu
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :


16


“ thua ”, “ nhường ” như Vân. Ta nhớ đến Bao Tự, Đát Kỉ, Điêu Thuyền…những mĩ
nhân khiến hôn quân phải mất nước, đồng thời số phận của họ cũng khơng tốt đẹp gì.
Quả thật “ Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen ”, Nguyễn Du đã dự cảm cho số
phận đầy sóng gió, trắc trở của Kiều bởi sắc đẹp “ khơng thuận lịng trời ” của nàng một số phận đoạn trường như bao mĩ nhân ngày xưa 
Không những là một tuyệt sắc giai nhân, Thúy Kiều cịn có tài năng thiên phú khó ai
sánh bằng ...
Đề 2. Phân tích đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
Trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, có thể nói đoạn trích “ Kiều ở lầu
Ngưng Bích” là một trong những đoạn trích hay nhất, xúc động nhất khi miêu tả cảm
xúc, tâm trạng của con người. Với bút pháp nghệ thuật tả cảnh để ngụ tình, nghệ thuật
sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, thi hào đã làm nỗi bật được tâm trạng sầu tủi, cô
đơn, buồn nhớ, hãi hùng của nàng Kiều, chuẩn bị bước vào cuộc đời đầy sóng gió
“thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” của Kiều. Trong suốt 15 năm lưu lạc đó, Kiều phải
chịu biết bao cay đắng tủi nhục. Nguyễn Du luôn theo sát bước chân của nàng để cùng
cảm thông chia sẻ với nàng. Mỗi một hoàn cảnh Kiều có một nỗi đau riêng, một tâm
trạng riêng, ngòi bút nhân đạo của Nguyễn Du đã diễn tả những nỗi niềm sâu kín của
nàng.Đoạn trích thuộc phần thứ hai của tác phẩm và là một bức tranh tâm tình đầy xúc
động của những ngày tháng đầy cô đơn tuyệt vọng ( từ câu 1033 đến câu 1054).
Sau khi bị Mã Giám Sinh làm nhục, Kiều bị đưa về Lâm Tri, nơi MGS chung vốn với
Tú bà mở cửa hàng thanh lâu để tiếp khách làng chơi. Biết bị lừa dối, lại còn bị mụ Tú
bà đánh đập hành hạ, qua uất ức nàng đã rút dao sẵn bên mình để quyên sinh. Sợ Kiều
liều mình thì “vốn liếng đi đời nhà ma”, Tú bà đành phải chăm sóc thuốc thang rồi đưa
Kiều ra lầu Ngưng Bích…
“ Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân”
“ Khoá xuân”, nhà thơ mỉa mai, thực chất đây là những ngày Kiều bị Tú bà giam lỏng.
Vừa trải qua những đau khổ hãi hùng nay lại bị nhốt ở nơi vắng vẻ, tâm trạng Kiều càng

cảm thấy cô đơn, chán ngán. Từ trên lầu cao nhìn ra chung quanh là cả một không gian
bát ngát, tất cả đều xa vời:
“ Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”
Núi mờ xa, trăng trên trời cao dẫu có muốn kéo lại cho gần để làm bạn thì trăng vẫn vời
vợi, quay nhìn ra bốn bề thấy xa vắng tít tắp, chỉ có cát vàng cồn nọ nối tiếp nhau cùng
với bụi hồng trên dặm dài thăm thẳm. Không có bóng dáng con người, không gian vắng
lặng đến rợn người, ngay cả cảnh vật cũng ở nơi xa xôi. Nàng đắm chìm trong nỗi niềm
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

17


buồn tủi cô liêu, lặng lẽ như một chiếc bóng, may chỉ còn “ Mây sớm đèn khuya” làm
bạn tâm tình với nàng.
Trong những giây phút âm thầm cô quạnh đó, hình ảnh những người thân lại hiện về,
nàng nhớ Kim Trọng, nhớ về một mối tình trong sáng đẹp đẽ. Đêm trăng này gợi nhớ lại
một đêm trăng trước hai người cùng nhau thề nguyền ước hẹn dưới ánh trăng. Nàng
thương Kim Trọng vẫn tháng ngày mong nhớ, không biết nàng ở nơi góc bể chân trời
nào:
“ Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”
Cho dù tình yêu chỉ còn trong kỉ niệm xót xa nhưng tấm lòng son sắt thủy chung của
nàng với Kim Trọng vẫn không nhạt phai:
“Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”.
Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ độc thoại kết hợp hài hòa giữa phong cách cổ điển và
phong cách dân tộc, tạo những nên những vần thơ biểu cảm thể hiện một tâm trạng bi

kịch, một cảnh ngộ đầy đau thương của Kiều. Trong chia lìa “ Trâm gãy gương tan”
nàng vẫn dành cho người yêu bao tình thương nỗi nhớ.
Cảnh ngộ của Kiều càng thật thương tâm, nhưng nàng thương mình thì ít mà thương
người thân thì nhiều. Nàng xót thương cha mẹ già vì thương nhớ con mà sớm hôm mòn
mỏi tựa cửa chờ mong, tuổi già sức yếu ai là người chăm nom, cậy nhờ:
“ Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.”
Giọng thơ rưng lệ, nỗi đau của Kiều như thấm vào cảnh vật, thời gian và lòng người bấy
lâu nay.Xót thương cha mẹ già, tưởng nhớ người yêu. Kiều là cô gái tình yếu vẹn toàn.
Hình ảnh người thân không làm vơi bớt nỗi lẻ loi cô quạnh, trái lại nỗi buồn càng thêm
trĩu nặng. 
Ở tám câu thơ cuối, điệp ngữ “ Buồn trông” nơi đầu câu khiến cho nỗi buồn như chất
chồng mãi, mỗi câu thơ là một cảnh, một tâm trạng, nhưng tựu chung vẫn chỉ là nỗi
buồn cô đơn tuyệt vọng: thương mình, thương người thân, thương cho thân phận và
duyên số. Đây là đoạn thơ hay nhất trong Truyện Kiều. Cứ mỗi cặp lục bát là một nét
tâm trạng buồn trông. Ngoại cảnh và tâm cảnh, khung cảnh thiên nhiên và diễn biến tâm
trạng nhân vật được diễn tả qua một hệ thống hình tượng mà ngôn ngữ mang tính ước
lệ, mở ra một trường liên tưởng bi thương:
“ Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”
Cửa bể mênh mông lúc ngày tàn chiều hôm cành làm tăng nỗi buồn cô đơn của kiếp
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

18



người lưu lạc. “ Thuyền ai” lúc ẩn lúc hiện thấp thoáng cánh buồm xa xa đầy ám ảnh.
“Buồn trông” con thuyền ai xa lạ, cánh buồm xa xa thấp thoáng, Kiều càng nghĩ đến
thân phậnn bơ vơ của mình nơi đất khách quê người.
Rồi những cánh hoa trôi nổi dập vùi theo dòng nước có khác nào cuộc đời lênh đênh vô
định của nàng:
“ Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu”
Nhìn ra xa, Kiều buồn trông về phía chân mây mặt đất về nội cỏ, nàng chỉ thấy trên cái
nền xanh xanh mịt mờ bao la là màu sắc tàn úa, vàng héo, dầu dầu của nội cỏ. Mùa sắc
tê tái thê lương ấy đã phản chiếu nỗi đau tê tái của người con gái lưu lạc:
“ Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
“ Nội cỏ dầu dầu” tàn úa hiện lên hiện lên giữa màu xanh nhạt nhòa của chân mây mặt
đất chính là tâm trạng lo âu của Kiều khi nghĩ đến tương lai mù mịt, héo tàn của mình.
Nhìn xa rồi nhìn gần, vừa buồn trông vừa lắng nghe, nghe tiếng gió, gió gào, gió cuốn
trên mặt duềnh. Nghe tiếng ầm ầm của sóng, không phải sóng reo mà là sóng kêu. Gió
và sóng đang bủa vây xung quang ghế ngồi.Một tâm trạng cô đơn lẻ loi đang trải qua
những giờ phút hãi hùng, ghê sợ, lo âu. Phải chăng âm thanh dữ dội ấy của gió và sóng
là biểu tượng cho những tai họa khủng khiếp đang bủa vây, sắp giáng xuống số phận
người con gái nhỏ bé, đáng thương?
“ Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Bức tranh nước non người, cận cảnh là lầu Ngưng Bích, viễn cảnh là con thuyền trên
cửa biển chiều hôm, là ngọn nước và hoa trôi, là nội cỏ dầu dầu giữa màu xanh xanh
chân mây mặt đất, là gió cuốn và tiếng sóng ầm ầm kêu nơi mặt duềnh…mang ý nghĩa
tượng trưng và giàu giá trị thẩm mỹ. Màu sắc ấy, âm thanh ấy của thiên nhiên vừa bao la
mờ mịt, vừa dữ dội, tất cả như đang bủa vây người con gái lưu lạc đau thương trong nỗi
buồn đau hãi hùng lẻ loi.
Thiên nhiên trong Truyện Kiều chứa đầy tâm trạng , đằng sau mỗi cảnh đều thấp thoáng
bóng dáng con người với những nỗi tâm tư thầm kín.Tâm trạng hòa vào cảnh vật, cảnh

vật cũng buồn vui với con người! Tả cảnh để ngụ tình là nét nghệ thuật đặc sắc của ngòi
bút thiên tài Nguyễn Du và đoạn trích “ Kiều ở lầu Ngưng Bích” được xem là dấu son
trong tác phẩm Truyện Kiều bất hủ.
Đề 3: Hãy phân tích hình ảnh thiên nhiên trong truyện Kiều để làm sáng rõ nhận
định của Đặng Thanh Lê : "Có thể nói thiên nhiên trong "Truyện Kiều"cũng là
một nhân vật, một nhân vật thường lặng lẽ kín đáo nhưng khơng mấy khi không
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

19


xuất hiện và ln ln thấm đượm tình người".
U CẦU :
- Thể loại : Nghị luận về một tác phẩm (dạng nghị luận về một giá trị của tác phẩm).
- Nội dung : Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong "Truyện Kiều"để làm sáng rõ nhận
định của Đặng Thanh Lê.
DÀN Ý SƠ LƯỢC :
I. Mở bài :
- Giới thiệu tác phẩm : "Truyện Kiều", tác giả : Nguyễn Du.
- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận : Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong "Truyện
Kiều"để làm sáng rõ nhận định của Đặng Thanh Lê.
II. Thân bài :
1. Phân tích thiên nhiên cũng là một nhân vật lặng lẽ, kín đáo, xuất hiện, thấm đượm
tình người.
- Trong "Truyện Kiều", Nguyễn Du chỉ tạo cơ hội cho thiên nhiên xuất hiện khi cần tạo
nền cảnh cho một cuộc gặp gỡ, hẹn hò hoặc khi bộc lộ giúp những cảm nhận tâm trạng
của các nhân vật về thời gian, không gian, cảnh ngộ,...
+ Thiên nhiên ùa vào lòng người với những nét màu thật sáng đẹp và dồi dào sức sống :

"Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
+ Cảnh ở đây thật thơ mộng và thắm đượm tình người.
"Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang"
+ Thiên nhiên càng trở nên hữu tình, thơ mộng khi Kiều chia tay với Kim Trọng : "Dưới
cầu nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha"
+ Thiên nhiên cịn trở thành nhân vật thứ ba chứng kiến buổi thề non hẹn biển giữa Kiều
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

20


với chàng Kim :
"Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai mặt một lời song song"
+ Là người bạn gần gũi, gắn bó với nàng trong mọi hồn cảnh :
"Trước lầu Ngưng Bích khố xn,
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung"
+ "Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa"
Đó là nỗi buồn lẻ loi, cơ đơn, lạc lỏng bơ vơ nơi chân trời góc bể của người con gái
khơng biết bấu víu vào đâu :
"Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh,
m ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"
* Liên hệ, so sánh : "Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"
III. Kết bài :
- Đánh giá các ý đã phân tích :
- Rút ra bài học, nhận xét.
Có thể nói thiên nhiên ln là hình ảnh thân gần, gắn bó với mỗi chúng ta, nó khơng chỉ
là khung cảnh gần gũi trong cuộc sống đời thường mà đã đi vào văn học, cụ thể đi vào
"Truyện Kiều". Nguyễn Du đã mượn thiên nhiên làm nền cho truyện và cũng biến thiên
nhiên thành một nhân vật, mang tâm sự, nỗi lòng của con người. Ngòi bút thơ của
Nguyễn Du tài hoa, điêu luyện khi dựng lên hình ảnh thiên nhiên .Thiên nhiên mãi là
hình ảnh, là nhân vật khơng thể thiếu trong "Truyện Kiều" . "Truyện Kiều" mãi mãi là
viên ngọc quý, là cuốn sách gối đầu giường của mõi chúng ta.
Nhà thơ Sông Lam, Núi Hồng đã ra đi, nhưng "Truyện Kiều" mãi mãi là dịng sơng mát
lành chảy qua tâm hồn chúng ta để lại một lớp phù sa màu mỡ. Trên lớp phù sa màu mỡ
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

21


đó, ta ln ln gặp hình ảnh tươi đẹp, sốâng động, mang đậm tình người của thiên
nhiên.
BÀI VIẾT THAM KHẢO :
Nhận xét về thiên nhiên trong "Truyện Kiều", Đặng Thanh Lê từng nói : "Có thể nói
thiên nhiên trong "Truyện Kiều" cũng là một nhân vật, một nhân vật thường lặng lẽ, kín
đáo nhưng khơng mấy khi khơng xuất hiện và ln ln thấm đượm tình người".
Thiên nhiên vốn khơng phải là chủ đề riêng của Nguyễn Du mà nó là chủ đề chung của

thi sĩ muôn đời. Nhưng thiên nhiên đi vào "Truyện Kiều", đi vào tâm hồn đại thi hào
Nguyễn Du lại có những nét rất riêng. Trong "Truyện Kiều", Nguyễn Du chỉ tạo cơ hội
cho thiên nhiên xuất hiện khi cần tạo nền cảnh cho một cuộc gặp gỡ, hẹn hò hoặc khi
bộc lộ giúp những cảm nhận tâm trạng của các nhân vật về thời gian, không gian, cảnh
ngộ,...
Trong tiết thanh minh trong sáng, khắp nơi nô nức đi tảo mộ, du xuân, thiên nhiên ùa
vào lòng người với những nét màu thật sáng đẹp và dồi dào sức sống :
"Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Một mùa xuân với màu xanh rợn ngợp của cỏ non, với một vài bông lê điểm xuyết. Chỉ
với đơi nét chấm phá, qua ngịi bút tài hoa của nhà nghệ sĩ, cả một bức tranh xuân bừng
sáng hiện lên. Trong cái không gian bát ngát màu xanh của cỏ mùa xuân, điểm vào một
vài bơng hoa lê trắng muốt, tinh khiết, đưa lịng người trong cảnh bay bay nhè nhẹ, lâng
lâng.
Cảnh như đang nâng nhẹ bước chân ba chị em Thuý Kiều :
"Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang"
Cảnh ở đây thật thơ mộng và thắm đượm tình người. Một dịng nước, một nhịp cầu nho
nhỏ cũng đủ gợi lên những nét thanh thanh của phong cảnh.
Thiên nhiên càng trở nên hữu tình, thơ mộng khi Kiều chia tay với Kim Trọng :
"Dưới cầu nước chảy trong veo,

Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

22



Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha"
Nguyễn Du khơng cần giá vẽ nhưng đã dựng nên một bức tranh thiên nhiên thật đẹp và
hài hồ. Dưới cầu là dịng nước êm đềm chảy, bên cầu là hình ảnh "tơ liễu bóng chiều
thướt tha". Cảnh vật gắn bó nhau, tơn nhau lên, chiếc cầu nhỏ như làm đẹp cho dòng
nước và dòng nước làm cho chiếc cầu càng trở nên xinh xắn, đáng yêu hơn. Ở đây,
Nguyễn Du có nói đến hình ảnh "bóng chiều"nhưng bóng chiều khơng gợi nỗi buồn mà
đẹp một cách lạ thường. Phải chăng lúc này là lúc Kim Trọng chia tay với Thuý Kiều,
tâm hồn Kiều hồn nhiên trong sáng nên cảnh cũng mang những nét hồn nhiên trong
sáng của Kiều. Cảnh thiên nhiên thấm đượm hồn người, tình người, mang nỗi niềm của
con người. Thiên nhiên còn trở thành nhân vật thứ ba chứng kiến buổi thề non hẹn biển
giữa Kiều với chàng Kim :
"Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai mặt một lời song song"
"Vầng trăng vằng vặc giữa trời" kia như là một nhân chứng cho mối tình trong sáng, đẹp
tươi của đôi trai tài, gái sắc. Trong "Truyện Kiều", đã hơn bốn mươi lần Nguyễn Du
nhắc đến ánh trăng nhưng có lẽ ánh trăng trong đêm thề nguyền này đã đi vào tiềm thức,
đã trở nên gắn bó nhất với Thuý Kiều.
Trăng là người làm chứng cho mối tình của nàng với chàng Kim và cũng là người bạn
gần gũi, gắn bó với nàng trong mọi hồn cảnh :
"Trước lầu Ngưng Bích khố xn,
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung"
Trước không gian rộng lớn, rợn ngợp của lầu Ngưng Bích, Kiều như một tấm thân bơ
vơ, lạc lõng. Nàng tìm đến với thiên nhiên, lấy thiên nhiên làm bầu bạn. Dường như
Nguyễn Du đã kéo vầng trăng từ xa vời vợi kia gần nàng Kiều hơn. Trăng như người
bạn tri âm tri kỷ đang san sẻ cùng tâm trạng của nàng :
"Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa"
Một cánh buồm nhỏ bé trước mặt biển bao la trong cảnh hồng hơn cũng đủ gợi gợi lên
trong lịng người đọc thấm thía nỗi buồn của nàng Kiều. Đó là nỗi buồn lẻ loi, cơ đơn,

lạc lỏng bơ vơ nơi chân trời góc bể của người con gái khơng biết bấu víu vào đâu :
"Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

23


Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"
Nếu trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã từng viết :
"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"
Thì quả là khơng sai. Nỗi buồn trong Kiều thật mênh mang, rợn ngợp, một nỗi buồn
khiến cho lịng người khơ héo. "Nội cỏ" ở đây cũng "dầu dầu" cũng mang tâm sự nỗi
lịng của Kiều. Đó là nỗi buồn vì cuộc đời đang bị xơ đâỷ, vùi dập. Nỗi buồn đó cứ dấy
lên mãi, ứ đọng mãi, khơi gợi nỗi niềm tủi nhục đau thương đến ứa nước mắt. âm thanh
của tiếng sóng hay cũng chính là những tai hoạ, những khó khăn đang rình rập, có nguy
cơ ập xuống đầu Kiều, chống ngợp khắp tâm trí Kiều. Cảnh ở đây vừa mênh mang, rợn
ngợp vừa mang tâm sự u hồi của lịng người.
Có thể nói thiên nhiên ln là hình ảnh thân gần, gắn bó với mỗi chúng ta, nó khơng chỉ
là khung cảnh gần gũi trong cuộc sống đời thường mà đã đi vào văn học, cụ thể đi vào
"Truyện Kiều". Nguyễn Du đã mượn thiên nhiên làm nền cho truyện và cũng biến thiên
nhiên thành một nhân vật, mang tâm sự, nỗi lòng của con người. Ngòi bút thơ của
Nguyễn Du tài hoa, điêu luyện khi dựng lên hình ảnh thiên nhiên .Thiên nhiên mãi là
hình ảnh, là nhân vật khơng thể thiếu trong "Truyện Kiều" . "Truyện Kiều" mãi mãi là
viên ngọc quý, là cuốn sách gối đầu giường của mõi chúng ta.

Nhà thơ Sông Lam, Núi Hồng đã ra đi, nhưng "Truyện Kiều" mãi mãi là dịng sơng mát
lành chảy qua tâm hồn chúng ta để lại một lớp phù sa màu mỡ. Trên lớp phù sa màu mỡ
đó, ta ln ln gặp hình ảnh tươi đẹp, sống động, mang đậm tình người của thiên
nhiên.
IV. Đề học sinh tự giải.
Trong bài viết “ Nguyễn Du, một nghệ sĩ lớn” khi bàn đến ngơn ngữ “ Truyện Kiều
Hồi Thanh có viết: “ Người đọc xưa nay vẫn xem Truyệ Kiều như một hịn ngọc q
cơ hồ khơng thể thay đổi, thêm bớt một tý gì, như một tiếng đàn lạ gàn như không một
lần nào lỡ nhịp ngang cung”
Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Dựa vào Truyện Kiều hãy làm rõ tài năng ngơn ngữ
của Nguyễn Du và lí giải vì sao Nguyễn Du đạt được những thành cơng ấy.

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận.
Như vậy, bằng q trình lao động nghệ thuật cơng phu và đầy sáng tạo, với cái nhìn
sắc sảo khách quan về cuộc sống, Nguyễn Du đã xây dựng được những nét tính cách đa
dạng, hoàn chỉnh và rõ nét. Nhân vật trong "Truyện Kiều" là nhân vật của cuộc đời hiểu
Chuyên đề môn Ngữ văn

download by :

24


theo ý nghĩa xã hội sâu sắc, đúng đắn. Đó không phải là những con người "nhất thành bất
biến" đơn giản một chiều chịu sự chi phối của một quan niệm chủ quan. Bên cạnh cái "cốt
lõi" của mỗi con người, ta bắt gặp những biến thiên phong phú của những tính cách đa
dạng. Qua tìm hiểu "Truyện Kiều" chúng ta có thể thấy nghệ thuật xây dựng nhân vật của
Nguyễn Du rất phong phú đa dạng...
2. Kiến nghị.

Để giúp học sinh có thể hiểu một cách sâu sắc, tồn diện mọi giá trị của "Truyện
Kiều" chỉ với 5 tiết trong chương trình Ngữ văn 9 hiện nay. Tơi mạnh dạn đưa ra một số
đề xuất như sau:
Thứ nhất, tôi rất mong ban chỉ đạo chuyên môn các cấp mở các lớp tập huấn cho
giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn 9 sinh hoạt theo những chuyên đề lớn (Thao
giảng các tiết về tác giả, tác phẩm lớn), để từ đó giúp tập thể giáo viên có cái nhìn đồng
bộ và có phương pháp tối ưu hơn khi giảng dạy "Truyện Kiều".
Thứ hai, tôi mong ban chỉ đạo chuyên môn cần tạo điều kiện thuận lợi hơn để
khuyến khích giáo viên mở các chun đề ngoại khố về những giá trị đặc sắc của
"Truyện Kiều".
Thứ ba, ở các trường THCS hiện nay, ngoài sách giáo khoa, sách giáo viên thì có
rất ít sách tham khảo mở rộng kiến thức về "Truyện Kiều". Tôi mong ban chỉ đạo chuyên
môn có thể giới thiệu cho các giáo viên một vài đầu sách tham khảo khác để bạn đọc xa
gần có thể hiểu thêm "Truyện Kiều".
LỜI CẢM ƠN
Với điều kiện và khả năng có hạn, qua q trình giảng dạy và bồi dưỡng học sinh
lớp 9, tham khảo các sách "Kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du" (Nxb KHXH- 1967),
"Truyện Kiều đối chiếu" (Phạm Đan Quế - Nxb Hà Nội -1991) và một số tài liệu khác,
tôi cũng mạnh dạn đưa ra một vài ý kiến về một vài nét nghệ thuật của Nguyễn Du trong
"Truyện Kiều". Trong quá trình viết và thực hiện chuyên đề tôi đã được các đồng chí
đồng nghiệp trong tổ chun mơn đóng góp nhiều ý kiến quý báu. Tuy nhiên, cũng
không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Rất mong được các đồng chí và các bạn bổ
sung để chun đề của tơi được hồn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sông lô, ngày 20 tháng 2 năm 2014
Người thực hiện chuyên đề

Phạm Thị Nga

Chuyên đề môn Ngữ văn


download by :

25


×