Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

(TH) một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng viết câu, đoạn văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.35 KB, 13 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ............
TRƯỜNG TIỂU HỌC ............

ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
“Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng viết câu, đoạn văn cho
học sinh lớp 3B, trườngTiểu học ............”
Thuộc lĩnh vực: GIÁO DỤC

Người thực hiện: ............
Chức vụ: Giáo viên Tiểu học
Đơn vị công tác: Trường TH ............; huyện ............, tỉnh ............

............, tháng 4 năm 2019


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
Kính gửi: Hội đồng thẩm định sáng kiến huyện ............; tỉnh .............
Tôi ghi tên dưới đây:

Số
TT

Họ và tên

Tỷ lệ (%) đóng
góp vào việc
Nơi cơng tác
Tŕnh độ
tạo ra sáng


Ngày tháng
(hoặc nơi
Chức danh chuyên
kiến
năm sinh
thường trú)
môn
(ghi rơ đối với
từng đồng tác
giả, nếu có)

01

............

04/10/1971

Trường
Giáo viên Đại học
TH ............ Tiểu học Tiểu học

100%

Là tác giả, đề nghị xét công nhận sáng kiến: “Một số biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng viết câu, đoạn văn cho học sinh lớp 3B, trường Tiểu học ............”
I. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Khơng có.
II. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
- Lĩnh vực Giáo dục.
III.Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
- Ngày 15 tháng 09 năm 2018.

IV.Mô tả bản chất của sáng kiến
- Lí do chọn sáng kiến
Tiếng Việt là mơn học trọng tâm, có vị trí quan trọng trong nội dung chương trình
và cũng là mơn học chiếm thời lượng lớn nhất trong thời gian học tập ở trường của học
sinh Tiểu học.Tập làm văn là phân mơn có tính chất tích hợp của các phân mơn khác.
Qua tiết Tập làm văn học sinh có khả năng xây dựng một văn bản từ bài nói, thành bài
viết đoạn văn ngắn. Thơng qua đó học sinh thực hiện q trình tư duy, chiếm lĩnh tri
thức, thể hiện cảm xúc, hình thành nhân cách của các em qua bài viết. Ngôn ngữ (dưới
dạng nói - ngơn bản và dưới dạng viết - văn bản) giữ vai trò quan trọng trong sự phát
triển xã hội. Chính vì vậy hướng dẫn học sinh nói đúng và viết đúng là hết sức cần thiết.
Nâng cao chất lượng viết câu, đoạn văn (Tập làm văn) cho học sinh lớp 3, chính
làtạotiền đề cho Học sinh học tốt môn Tập làm văn ở lớp 4.
2


Để tiếp tục nâng cao chất lượng Giáo dục Tiểu học, đặc biệt là đổi mới căn bản và
toàn diện Giáo dục, tạo điều kiện thuận lợi cho Giáo viên và Học sinh, dạy học theo
hướng chủ động và tích cực, với những kinh nghiệm giảng dạy lớp 3 tôi đã quyết định
tìm hiểu, nghiên cứu phân mơn Tập làm văn lớp 3 về: “Một số biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng viết câu, đoạn văn cho học sinh lớp 3B trường Tiểu học ............”.
IV. 1. Đặc điểm tình hình
Lớp

Tổng số

Dân tộc

Nữ

Nữ dân tộc


Khuyết tật

3B

36

12

18

06

0

- Đầu năm họclớp 3, có 4 em cịn gặp khó khăn khi viết chữ.Khi nghe viết chính tả,
các em khơng kịp tốc độ viết. (thường sai về độ cao, lỗi chính tả…)
IV. 2. Khảo sát thực trạng
a. Sách giáo khoa
Chương trình có 35 tuần thực học. Các tuần học được gắn tên các các chủ điểm.
Trong các chủ điểm có các bài Tập đọc, Luyện từ và câu… có liên quan mật thiết đến
bài làm Tập làm văn cuối tuần. Ví dụ: Tuần 5 - tuần 6 chủ điểm: Tới trường, thì tiết Tập
làm văn của Tuần 6 có bài - Viết về buổi đầu em đi học.
- Viết về người hàng xóm. (Chủ điểm Cộng đồng - Tuần 8)
- Viết về cảnh đẹp đất nước. (Chủ điểm Bắc - Trung - Nam - Tuần 12)
- Viết về tổ em. (Chủ điểm Anh em một nhà - Tuần 15)
- Viết về người lao động trí óc. (Chủ điểm Sáng tạo - Tuần 22)
- Viết về buổi biểu diễn nghệ thuật. (Chủ điểm Nghệ thuật - Tuần 23)
- Viết về một ngày hội. (Chủ điểm Lễ hội - Tuần 26)
- Viết về một trận thi đấu thể thao. (Chủ điểm Thể thao - Tuần 29)

- Viết về bảo vệ môi trường. (Chủ điểm Ngôi nhà chung - Tuần 32)
Đặc biệt phân môn Tập làm văn lớp 3 có sự đan xen khá hợp lí: Tuần học kể
chuyện (các em được nghe để kể lại thường ngắn gọn, có nội dung vui nhộn, hài hước
và gắn với chủ điểm đã học); tuần thực hành nói về chủ điểm; tuần sau viết lại những
điều đã nói ở tuần trước (từ 5 đến 7 câuở học kì I; 7 đến 10 câu ở học kì II).
Trong năm học, các em thực hành viết 13 bài (đoạn văn). Trong đó có 4 bài (tập
viết thư và viết thư cho bạn, người thân); 1 bài viết giới thiệu về tổ em; còn lại 9 bài viết
bài (đoạn văn) về các chủ điểm đã học.

3


Trong số các bài viết ở trên, chỉ có bài: Viết giới thiệu về tổ em; Viết về một trận
thi đấu thể thao được dạy trong một tiết trọn vẹn. Các bài còn lại chỉ được dạy trong nửa
tiết (1 nửa dành cho học sinh nói - theo gợi ý trong SGK; nửa tiết còn lại dành cho học
sinh viết lại những điều vừa nói)
b. Học sinh
Qua thực tế giảng dạy ở lớp, với phân môn Tập làm văn, tôi thấy Học sinh gặp
nhiều khó khăn, lúng túng khi viết câu, viết đoạn văn (mặc dù các đoạn văn viết đều
theo chủ điểm học trong tuần), hay mắc lỗi chính tả, việc hiểu nghĩa và sử dụng từ ngữ,
liên kết các câu tạo thành đoạn văn cịn lúng túng. Có em cịn băn khoăn khơng biết bắt
đầu viết bài thì nên viết gì, viết thế nào, nên nội dung bài viết còn sơ sài, chủ yếu liệt kê
sự việc, kể vụn vặt (kể theo ý thích của mình), khi viết sử dụng dấu câu chưa đúng, hay
lặp lại từ, hầu hết các em chỉ biết trả lời ngắn gọn theo câu hỏi gợi ý trong sách giáo
khoa mà chưa sáng tạo, chưa biết phân biệt cách viết văn thành ba phần rõ ràng. Nhiều
Phụ huynh học sinh thay vì hướng dẫn con học, đã mua quyển văn mẫu cho con, học
sinh thụ động, viết theo khuôn mẫu nhất định. Thậm chí, có một học sinh cịn bỏ trống
phần viết Tập làm văn ở bài thi cuối học kì I.
IV. 3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng
Trình độ tư duy của các em còn hạn chế, nhận thức chậm, kinh nghiệm sống cịn ít,

một số em thấy khó nên lười viết bài. Một vài bài trong chương trình đề văn ra chưa gần
gũi với học sinh như: Lễ hội;Thể thao; Buổi biểu diễn nghệ thuật…(mặc dù đã có điều
chỉnh) vì thế Học sinh không nắm bắt được thông tin, bài làm khơng đạt hiệu quả cao.
Một số em cịn lệ thuộc vào quyển văn mẫu: Đọc; học thuộc; chép nguyên văn bản bài
văn mẫu thành bài văn viết của mình và nộp cho thầy, cơ giáo.
Trong phân phối chương trình học một tuần chỉ có 1 tiết Tập làm văn, lại khơng có
tiết học nào dành cho việc trả bài viết văn của học sinh, rút kinh nghiệm cho học sinh
sau mỗi bài viết đó. Đây cũng là vấn đề khó khăn cho cả thầy và trị, vì phân mơn Tập
làm văn (viết văn) của học sinh không thể thiếu được trong kì thi: Cuối học kì I và kì thi
cuối năm (bài viết văn được chấm và đánh giá bằng điểm số: tổng là 6 điểm và viết
trong thời gian là 25 phút).
Từ thực tế trên tôi thấy dạy: Viết câu, đoạn văn cho học sinhchưa đáp ứng được
mục tiêu của giờ học. Kết quả khảo sát ở những tháng học đầu tiên thể hiện rất rõ:
HS có kĩ năng viết văn tốt

HS bước đầu có kĩ năng
viết văn
4

HS chưa cókĩ năng viếtvăn


3/36 = 8,3%

13/36 = 36, 1%

20/36 = 55, 6%

Kết quả chưa tốt, ln thơi thúc tơi phải tìm ra:“Một số biện pháp nhằm nâng
cao chất lượng viết câu, đoạn văn cho học sinh lớp 3B trường Tiểu học ............” để

kịp thời khắc phục những hạn chế khó khăn của Học sinh, đồng thời hồn thành được
mục tiêu của mơn học.
IV. 4. Giải pháp thực hiện
a.Xác định trọng tâm đề bài; phác họa nét chính “khung xương”
- Với mỗi bài viết văn, tôi giúp Học sinh xác định đúng trọng tâm đề bài (nội dung
chính để kể); phác họa những nét chính “khung xương” để các emdễ áp dụng, viết
khơng lộn xộn và sáng tạo trong bài viết của mình.
- Viết câu mở đầu (Giới thiệu đối tượng cần viết).
- Viết câu phát triển đoạn văn (Kể về đối tượng- Đây là nội chính, cần kể sâu hơn).
- Viết câu kết thúc (Tình cảm, suy nghĩ, mong ước của mình về đối tượng). Khi học
sinh biết viết theo một trình tự quy định, đó cũng là nền tảng để các em biết viết văn ở
các lớp học cao hơn.
Ví dụ: Hãy viết về một người hàng xóm
G Người hàng xóm tên là gì?
i

i Bao nhiêu tuổi? Ở đâu
t
h

Làm cơng việc gì?

5


Đặc điểm chính người hàng xóm
Đặc điểm bề ngồi: Nét đẹp, nét chính: Hình dáng; tóc, da, đơi mắt…

Tính cách: Hiền lành, chăm chỉ…
Cử chỉ: Hay giúp đỡ mọi người…

Cảm nghĩ, về người hàng xóm
Quý mến, trân trọng người hàng xóm

Mong muốn tình cảm gắn bó với người hàng xóm

b. Giúp học sinh tích lũy vốn từ và hiểu nghĩa của từ, ghi chép sổ tay
- Để viết được câu văn hay, giàu hình ảnh… nhất thiết phải có vốn từ phong phú.
Vốn từ này được cung cấp trong tiết học: Luyện từ và câu và trong các giờ Tập đọc.
Vào cuối tuần, tôi giao cho học sinh về nhà đọc các bài của tuần học: Tập đọc; Chính tả;
Luyện từ và câu, sau đó làm bài tập theo yêu cầu. Các bài tập đó lần lượt được chữa bài
vào 15 phút đầu giờ học, sau đó Học sinh ghi vào sổ tay của mình (lưu giữ).
- Các từ ngữ được chú giải trong tiết Tập đọc và một số từ trong bài học, luôn được
tôi cung cấp kịp thời, giúp các em hiểu được nghĩa của từ, để vận dụng viết câu đúng.
Đặc biệt với các bài Tập đọc có liên quan đến chủ đề viết văn của học sinh, thì ngồi
câu hỏi trong bài ra tơi cho Học sinh tìm thêm từ, và câu văn hay, giúp Học sinh biết vận
dụng vào viết câu, viết đoạn văn.
+ Ví dụ học chủ điểm: “Nghệ thuật”
- Tìm các từ ngữ để miêu tả cái hay của tiết mục xiếc, ảo thuật? (vui nhộn, dí dỏm,
biến hố bất ngờ, dẻo dai, khéo léo, thú vị).
+ Ví dụ học chủ điểm: “Lễ hội”
+ Tìm từ ngữ, hình ảnh miêu tả người đi xem hội? (đơng như nước chảy, qy kín,
trèo lên cây xem cho rõ (Hội vật), nườm nượp người đi xe (Đi hội chùa Hương).
+ Tìm từ ngữ tả khơng khí tưng bừng, sôi nổi của lễ hội? (Chiêng khua trống đánh
vang lừng (Hội đua voi ở Tây Nguyên), tiếng trống dồn lên, gấp rút, giục giă (Hội vật).
6


+ Tìm các từ ngữ miêu tả các động tác, hoạt động của người và vật trong lễ hội?
(lao đầu chạy, phóng như bay (Hội đua voi ở Tây Nguyên); giữ cho thuyền không bị
nghiêng ngả, đi đúng đường đua (Hội bơi trải), đánh trước dứ sau, nhấc bổng, gò lưng,

xoay xoay, chống đỡ; lăn xả, đánh ráo riết (Hội vật)…
c. Cung cấp tranh ảnh đa dạng, phong phú, xem băng hình video…
Trong việc trang bị kiến thức cho Học sinh, không nên áp đặt các em vào một
khuôn mẫu nhất định như: Học sinh chỉ được quan sát bức tranh, một sự vật, con người
ở trong sách giáo khoa… như thế sẽ hạn chế năng lực sáng tạo của các em. Vì vậy cung
cấp tranh ảnh đa dạng, phong phú, xem băng hình video về nhiều cảnh đẹp: Đồng lúa,
dịng sơng; mái đình, cây đa…giúp học sinh hứng thú, có tình cảm để viết câu văn, đoạn
văn giàu cảm xúc hơn.
- Ví dụ: Tranh, ảnh (hoặc video) về Hồ Gươm.
Tơi sưu tầm tranh về Hồ Gươm dưới nhiều góc độ khác nhau: CầuThê Húc khi
ngắm từ xa, lúc sát gần như đang dạo bước trên cầu; cảnh Tháp Rùa vào ban ngày, cảnh
Tháp Rùa lúc về đêm…Sau đó học sinh trả lời hệ thống câu hỏi giáo viên đưa ra.

+ Tìm những từ ngữ để miêu tả mặt hồ, cầu Thê Húc, hàng liễu ven hồ?
- Tả mặt hồ: trong xanh, lăn tăn gợn sóng, phẳng lặng, in bóng mây trời, tựa hình
bầu dục, như chiếc gương trong…
- Tả tháp rùa: uy nghiêm, cổ kính, rêu phong, sữngsữngnằmgiữa long hồ…
- Tả cầu Thê Húc: cong cong hình con tơm, uốn lượn trên mặt nước…
- Tả rặng liễu ven hồ: lồ xồ, nghiêng mình soi bóng, mái tóc thướt tha.
Vídụ: Tranh, ảnh (hoặc video) về cảnh đồng lúa chín.
Tơi sưu tầm tranh đa dạng về cảnh đồng luá: Từ lúc cánh đồng lúa cịn ngun vẹn,
cảnh bác nơng dân lom khom gặt lúa, cảnh ông mặ ttrời lên cao và cảnh bác nông dân
gánh lúa trở về nhà… Học sinh quan sát và dễ dàng trả lời được hệ thống câu hỏi…
+ Tìm từ ngữ miêu tả cánh đồng lúa: rộng mênh mơng; rộng bao la; xa tít chân trời;
vàng rực; bông lúa nặng trĩu, hạt vàng căng trĩu lúc lắc, rung rinh trong gió…
+ Tìm từ chỉ động từ hoạt động của người nông dân: lượm lúa, cắt lúa, gánh lúa…
+ Tìm từ ngữ chỉ vẻ đẹp của mặt trời: Mặt trời nhô lên khỏi đỉnh núi; mặt trời to,
đỏ, tựa như chiếc thau đồng; mặt trời như quả cầu lửa…
- Với các nội dung: Kể về một ngày hội; Kể về một buổi biểu diễn nghệ thuật; Kể
về một trận thi đấu thể thao, là những nội dung khó trong chương trình, dù đă được điều

chỉnh thay đổi đề bài cho phù hợp nhưng Học sinh vẫn lúng túng khi thực hiện các nội
7


dung viết trên. Vì vậy phải cung cấp video cho các em là việc làm cần thiết.Với bài:
“Viết về một ngày hội”, tôi đă gợi ý cho học sinh viết về Ngày hội văn hóa trường học
của trường được tổ chức vào 4/3/2019. Khi học sinh viết về : “Buổi biểu diễn nghệ
thuật” tôi gợi ý cho học sinh nhớ lại buổi đi xem xiếc tại sân vận động xă An Khánhđược miễn phí vé xem ngày 20/3/2019, hoặc gần đây nhất là trận bóng U23 Việt Nam
thắng U23 Thái Lan (tỉ số 4- 0) trên sân vận động Mĩ Đình- Hà Nội…
Qua đó học sinh bổ sung vốn từ cho bản thân, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để
lựa chọn từ ngữ hợp lí trong việc vận dụng viết câu văn, đoạn văn
d. Giúp học sinh viết câu văn đúng ngữ pháp
Giúp Học sinh viết câu đủ và đúng ngữ pháp là việc mà người Giáo viện cần dạy
cho Học sinh mọi nơi, mọi lúc.
Dựa vào các mẫu câu đã học trong phân môn: Luyện từ và câu “ Ai là gì?” “Ai làm
gì?” hay “ Ai thế nào?” tôi hướng dẫn các em nhận biết: Bộ phận trả lời cho câu hỏi ai?
( hoặc cái gì?con gì?) Bộ phận trả lời cho câu hỏi là gì? làm gì? như thế nào? Trên cơ sở
đó giúp các em viết đúng chính tả, biết sử dụng đúng các dấu câu. Ngồi ra tơi cịn xây
dựng hệ thống bài tập để giúp Học sinh biết viết đủ câu (đủ hai bộ phận), biết dùng dấu
phẩy ngăn cách các cụm từ trong câu, sử dụng đúng dấu câu (dấu chầm câu; dấu chấm
than, dấu hỏi ở cuối câu).
* Cuối câu yêu cầu người nghe phải trả lời, ta đặt dấu chấm hỏi.
* Cuối câu kể đầy đủ ý (đủ hai bộ phận) thường dùng dấu chấm câu.
* Cuối câu bộc lộ cảm xúc của người nói, ta đặt dấu chấm than.
* Muốn cho câu văn giàu hình ảnh, sinh động, gợi tả, cần sử dụng phép nhân hóa
và so sánh.
Các bài tập này Học sinh được làm ở nhà và Giáo viên kiểm tra, chữa vào 15 phút
đầu các giờ học.
Những hình ảnh đẹp, câu văn hay sẽ là chất kết dính thành chuỗi, tạo nên những
dịng cảm xúc để viết được đoạn văn hay. Trí tưởng tượng, sự cảm nhận và quan sát hiện

thực mn màu của cuộc sống, chính là hành trang ni dưỡng tâm hồn, cảm xúc, hình
thành nhân cách của trẻ trong cách viết câu, đoạn văn của phân mơn Tập làm văn.
Ví dụ: Viết câu tả về rạp xiếc.
+ Rạp xiếc khổng lồ, vô cùng đẹp, trang trí lấp lánh vơ cùng đẹp.
Sửa: Rạp xiếc khổng lồ, gắn ánh đèn và hoa nhấp nháy, nom thật đẹp mắt.
Ví dụ : Tả về tiếng hót của chim họa mi
+ Mấy con chim hoạ mi hót trong vịm cây.
Sửa: Mấy chú chim hoạ mi cất tiếng hót véo von trong vòm cây.
8


Hay như khi viết về cảnh đẹp quê hương (cảnh Hồ Gươm)
Ví dụ: + Ven hồ là những cây liễu.
Sửa: Ven hồ, hàng liễu lồ xồ, nghiêng mình soi bóng dưới làn nước xanh.
Khi viết câu, viết đoạn văn, Học sinh thường không chỉ mắc một loại lỗi mà các lỗi
của học sinh thường rất đa dạng và nếu không được chữa một cách cẩn thận thận, việc
tái mắc lỗi là điều không thể tránh khỏi. Vậy nên việc chữa bài cho học sinh là việc làm
rất quan trọng, nó không chỉ giúp cho các em tránh được các lỗi thơng thường trong khi
viết văn mà cịn bồi dưỡng khả năng viết văn cho các em.
Do khơng có một tiết chữa bài riêng nên tôi thường tổ chức chữa bài ngay cho học
sinh vào 15 phút đầu giờ các buổi học.Thơng thường tơi đọc bài viết (đó có thể là những
bài viết tốt, cũng có thể là bài viết có nhiều nhược điểm và mắc nhiều lỗi phổ biến) Sau
khi học sinh đọc bài, tôi thường cho Học sinh trong lớp nêu nhận xét về các bài viết.
Sau đó tơi đưa ra nhận xét, chỉ lỗi trong bài, các em có trách nhiệm về nhà viết lại bài
(đoạn học sinh lại được Giáo viên chỉ ra những lỗi ở lần hai, lần ba (nếu có) Cách chữa
lỗi bằng sử dụng máy chiếu cũng là cách rất hay, gây hứng thú cho Học sinh. Bài viết
của các em (không nêu tên) khi được trình chiếu, các em sẽ nhận ra: lỗi chính tả, lỗi
dùng dấu câu, lỗi câu chưa đúng ngữ pháp; hoặc những câu văn hay, giàu hình ảnh, biết
sử dụng nghệ thuật nhân hóa, so sánh khi viết văn. Bước đầu biết phân đoạn văn…Từ
đó các em sẽ đúc rút kinh nghiệm cho mình và ghi vào sổ tay của mình (lưugiữ)

đ. Giúp học sinh tập sử dụng biện pháp so sánh; nhân hóa trong viết câu
So sánh và nhân hóa là một trong những biện pháp nghệ thuật được sử dụng rất
phổ biến trong văn học, những vật vơ tri vơ giác khi được nhân hóa sẽ có tên gọi, có
hành động, lời nói suy nghĩ như con người.... Nếu Học sinh biết vận dụng những câu
văn có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa một cách hợp lí, sẽ giúp cho bài văn của
các em trở nên giàu hình ảnh và sinh động hơn. Vì vậy tôi giúp các em luyện tập để sử
dụng biện pháp so sánh, nhân hóa theo các mức độ khác nhau.
- Ví dụ: Viết vào chỗ chấm để tạo thành câu có sử dụng biện pháp so sánh:
+ Buổi sáng, những hạt sương cịn đọng lại trên lá trơng như…. (những hạt ngọc
sáng long lanh)
+ Những con chim sẻ kêu ríu rít trên cây.
Sửa: Trên cành cây, những chú chim sẻ trị chuyện râm ran.
- Ví dụ: Thêm các từ ngữ vào chỗ chấm để thành những câu văn có sử dụng
nghệ thuật nhân hóa và so sánh.
- Những đám mây trắng....( Những đám mây trắng nhởn nhơ rong chơi trên bầu
trời) hoặc: Bác mây trắng đủng đỉnh, nhẹ nhàng dạo chơi.
9


Phân tích các bài viết của Học sinh tơi thấy nhược điểm lớn nhất của các em là bài
viết còn sơ sài, dùng dấu câu chưa chính xác, viết lan man, khơng đúng trọng tâm, ít
hình ảnh gợi tả, nặng về kể lể, liệt kê các chi tiết một cách vụn vặt. Chẳng hạn, khi kể
về một buổi biểu diễn nghệ thuật xiếc, các em thường liệt kê các tiết mục mà ít tả kĩ các
cử chỉ, động tác, điệu bộ…của các nghệ sĩ biểu diễn, khơng khí sơi nổi, hào hứng của
buổi biểu diễn do đó bài văn chưa sinh động.
Dưới đây là một số bài viết của học sinh.
Đề bài: Viết đoạn văn ngắn (5 đến7 câu) kể về người hàng xóm mà em quý mến.
Trongcác bài viết này học sinh mắc nhiều lỗi như: không viết hoa tên người, chưa
biết cách sử dụng từ: Mái tóc nâu nâu, vầng trán nâu nâu, tóc đã gần trắng rồi…Bài viết
có chỗ chưa biết đặt đúng dấu câu. Bài viết cịn sơ sài, khơng biết kể vài nét chính về

đặc điểm ngoại hình…Sau những lần giáo viên nhận xét, các em tiếp tục điều chỉnh và
có bài viết có tiến bộhơn.

Đề bài: Viết đoạn văn ngắn (5 đến 7 câu) kể vềvề cảnh đẹp quê hương.
Học sinh viết bài bằng cách liệt kê sự việc: Có thuyền, có người bắt cá, có người
cưỡi trâu, có cây tre…hoặc viết (từ lúc đi học; đến lúc về, đến khi trời tối), nhưng lại
không viết được các chi tiết làm nổi bật cảnh đẹp cánh đồng. ĐượcGiáo viên nhận xét,
giúp đỡ, các em biết trình bày bài viết và có bài viết hồn thiện hơn.

10


Đây là một tiết học trong giờ học Tập làm văn của học sinh lớp 3B
Bài viết này thuộc chủ điểm Thể thao, là bài viết khó với học sinh. Một vài bạn đã quan
sát chi tiết, dùng tư duy để viết lại một tin Thể thao đáng chú ý...
Bài viết này thuộc chủ điểm Thể thao, là bài viết khó với học sinh. Một vài bạn đã
quan sát chi tiết, dùng tư duy để viết lại một tin Thể thao đáng chú ý.
IV.5. Tính mới, tính sáng tạo
Sáng kiến: “Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng viết câu, đoạn văn
cho học sinh lớp 3B trường Tiểu học ............”, tôi đã áp dụng 5 biện pháp sau:
a. Xác định trọng tâm đề bài; phác họa nét chính “khung xương”
b. Giúp học sinh tích lũy vốn từ và hiểu nghĩa của từ, ghi chép sổ tay
c. Cung cấp tranh ảnh đa dạng, phong phú, xem băng hình video…
d.Giúp học sinh viết câu văn đúng ngữ pháp
đ. Giúp học sinh tập sử dụng biện pháp so sánh; nhân hóa trong viết câu
- Trong 5 các biện pháp nêu trên, có 4 biện pháp mà sách Giáo viên cũng đã đề cập
tới, tuy nhiên tôi đã sử dụng linh hoạt và có phần điều chỉnh bổ sung.
- Biện pháp:Xác định trọng tâm đề bài; phác họa nét chính “khung xương”là biện
pháp mới, tơi đưa ra giúp Học sinh dễ nhìn, dễ xác định được phần nội dung trọng tâm
của bài viết, viết khơng lộn xộn và có em đã biết sáng tạo trong bài viết của mình.

- Trong chương trình học lớp 3, khơng có tiết trả bài viết văn. Tuy nhiên tôi vẫn
chú trọng nhận xét, chữa bài Tập làm văn Học sinh vào 15 phút đầu giờ các buổi học .
Cách chữa lỗi bằng sử dụng máy chiếu cũng là cách rất hay, gây hứng thú cho Học sinh.
Bài viết của các em (khơng nêu tên) khi được trình chiếu, các em sẽ nhận ra: lỗi chính
tả, lỗi dùng dấu câu, lỗi câu chưa đúng ngữ pháp; hoặc những câu văn hay, giàu hình
ảnh, biết sử dụng nghệ thuật nhân hóa, so sánh khi viết văn. Bước đầu biết phân đoạn
văn… Học sinh được trao đổi, chia sẻ, từ đó các em sẽ đúc rút kinh nghiệm cho mình và
ghi vào sổ tay của mình câu văn hay (lưu giữ).
- Sáng kiến kinh nghiệm của tôi không trùng với nội dung của sáng kiến đã được
cơng nhận trước đó, nên sáng kiến này có tính mới rõ rệt.
IV. 6. Khả năng áp dụng:
Sáng kiến này của tơi có thể áp dụng cho lớp 3B, cũng như Học sinh khối 3, trường
Tiểu học ............ nói riêng và Học sinh trên địa bàn huyện ............- tỉnh ............ nói
chung.
V. Những thơng tin cần được bảo mật: Khơng có
11


VI. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sángkiến
VI. 1. Điều kiện cơ sở vật chất
- Bàn học đầy đủ, đúng quy định, lớp học thống mát.
- Máy tính, máy chiếu phục vụ cho dạy học (hoặc vô tuyến kết nối mạng)
VI. 2. Thiết bị dạy học, tài liệu
- Sách giáo khoa, sách giáo viên, các tài liệu tham khảo, có liên quan đến dạy phân
mơn Tập làm văn cho Học sinh lớp 3.
- Các tập tranh ảnh phục vụ cho các chủ điểm trong tuần (hoặc vi deo)
- Nam châm; bảng phụ, bút dạ…
VI. 3. Giáo viên; Học sinh
a. Chuẩn bị của giáo viên
- Sách giáo khoa, sách giáo viên, các tài liệutham khảo, có liên quan đến phân môn

họcTập làm văn.Khidạyhọcvềcácchủđiểmcần sưu tầm thêm các tranh ảnh (hoặc
video)đadạng, phongphú.
- Xác định đúng trọng tâm đề bài (nội dung chính); phác họa những nét chính
“khung xương”. Định hướng cho Học sinh viết theo ba phần chính của bài văn viết.
- Chú trọng khâu chữa bài viết cho Học sinh trong các tiết học, mọi nơi, mọi lúc.
b. Chuẩn bị của học sinh
- Với thời gian là 40 phút, một học sinh lớp 3 phải hồn thành nói miệng (theo câu
hỏi gợi ý trong sách giáo khoa) và viết lại những điều em vừa kể (từ 5 đến 7 câu - ở học
kì I; 7 đến 10 câu - ở học kì II)) quả là rất khó để có thể viết đầy đủ và tốt được. Vì vậy,
việc chuẩn bị bài ở nhà của các em là rất cần thiết. Trước hơm có tiết Tập làm văn, tơi
u cầu các em đọc đầu bài sau đó tơi gợi ý sơ qua về yêu cầu của bài. Ví dụ với đề bài:
“Viết về buổi đầu đi học”, các em có thể nhớ lại những kỉ niệm của buổi đầu đi học và
ghi chép sổ tay những từ ngữ, hình ảnh có liên quan đến ngơi trường. Hoặc bài: “Viết
về một người hàng xóm”, nếu khơng biết tuổi , hoặc nghề nghiệp của người đó, các em
có thể hỏi bố, mẹ để phục vụ cho việc viết bài của các em…
VII. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng
kiến theo ý kiến của tác giả
- Sau một thời gian áp dụng các biện pháp dạy học theo hướng tích cực tơi đã nêu
trên, tôi thấy kết quả học Tập làm văn viết của lớp mình đạt được thật đáng mừng.
+ Học sinh tự tin, khơng cịn lúng túng khi học phân mơn Tập làm văn. Học sinh
có tiến bộ rõ rệt.
+ Các em biết cách làm bài đúng nội dung yêu cầu. Hầu hết các em đều viết câu
văn đúng ngữ pháp, đúng chính tả. Thậm chí một số em biết vận dụng biện pháp nghệ
12


thuật: Nhân hóa, so sánh trong khi viết văn.
- Học sinh hứng thú với môn học, tự giác học tập, luôn thi đua học tập.
+ Một số em đã hứng thú với phân môn Tập làm văn. Biết rút kinh nghiệm và làm
lại những bài văn, lưu giữ và ghi chép vào thành quyển.

- Ban giám hiệu trường khảo sát chất lượng Tiếng Việt trong tháng 2/2019, có phần
đặt câu có hình ảnh so sánh. Kết quả đạt: 32/36 = 88,8 %.
- Phòng giáo dục về khảo sát chất lượng môn Tiếng Việt của lớp 3B (đầu tháng
3/2019). Điểm 9-10: 32 em; điểm 7-8: 4 em. Khơng có Trung bình và dưới Trung bình.
Chất lượng cụ thể mơn Tập làm văn đã chuyển biến như sau:
TSHS
Đầu năm
Cuối năm

HS có kĩ năng viết
văn tốt
TS
%

HS bước đầu có kĩ năng
viết văn
TS
%

HS chưa có
kĩ năng viết văn
TS
%

3/36

8,3 %

13/36


36, 1 %

20/36

55, 6 %

6/36

16, 7 %

26/36

72, 2 %

4/36

11, 1 %

VIII. Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng
kiến lần đầu: Khơng có.
Tơi xin cam đoan mọi thơng tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn
toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
............, ngày 9 tháng 4 năm 2019
Người nộp đơn
(Ký và ghi rõ họ tên)

13




×