LUẬN VĂN:
Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay
a-/ Lời nói đầu
"Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
nước ta hiện nay" là đề tài nghiên cứu sự kết hợp hài hoà tương hỗ lẫn nhau giữa "Bàn
tay vô hình" và "Bàn tay hữu hình". Hay nói một cách khác là nghiên cứu sự kết hợp,
sự quản lý của Nhà nước và cơ chế thị trường để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và
phát triển ở mức cao nhất đồng thời hạn chế khắc phục những khuyết tật một cách có
hiệu quả nhất. Tìm ra nghệ thuật quản lý xuyên suốt từ định hướng chiến lược hệ
thống luật đến các công đoạn trong các khâu kế hoạch từ vĩ mô đến vi mô.
Như chúng ta đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức xã hội mà trong đó
sản xuất và tài sản sản xuất gắn chặt với thị trường tức là gắn chặt với quan hệ hàng
hoá tiền tệ với quan hệ cung cầu. Kinh tế thị trường không phải là một chế độ kinh tế
đồng nhất với chủ nghĩa Tư bản. Thực ra nó là thành quả của lịch sử nhân loại gắn với
sản xuất hàng hoá.
Đối với nước ta việc chuyển từ cơ chế cũ sang cơ chế thị trường là hết sức cần
thiết để đảm bảo phát triển tăng trưởng ổn định kinh tế - xã hội đẩy lùi nguy cơ tụt
hậu, nhanh chóng thực hiện thành công công việc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất
nước. Tuy nhiên cơ chế thị trường cũng không phải là cái gì hoàn hảo tốt đẹp cả mà đi
kèm với nó là những khuyết tật rất đáng lo ngại. Vì vậy cần có vai trò quản lý can
thiệp của Nhà nước để khắc phục, hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường. Mà
quan trọng nhất là sự định hướng của Nhà nước để phát triển kinh tế theo định hướng
xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã chọn. Đây là sự khác biệt giữa cơ chế thị trường ở
nước ta và nước khác.
Tuy nhiên vấn đề vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay là một vấn đề đang có nhiều tranh cãi với những ý kiến
khác nhau nhằm tìm ra một cách giải quyết khả thi mang lại hiệu quả cao. Vấn đề quan
trọng bức xúc này có ảnh hưởng lớn đến tiến trình phát triển kinh tế của đất nước.
Chính vì vậy để góp phần vào sự lựa chọn cơ chế quản lý cho phù hợp đặc biệt là giai
đoạn Việt Nam hiện nay em chọn đề tài "Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay" để nghiên cứu.
b-/ giải quyết vấn đề
chương I
tính tất yếu khách quan vai trò quản lý kinh tế
vi mô của Nhà nước trong nền kinh tế
I-/ Vai trò kinh tế của Nhà nước trong các giai đoạn lịch sử:
1-/ Nhà nước chủ nô:
Nhà nước chủ nô có từ rất sớm trong lịch sử xuất hiện từ thời kỳ chiếm hữu nô
lệ. Nhà nước chủ nô ra đời và trực tiếp dùng quyền lợi của mình nhằm can thiệp vào
việc phân phối của cải được sản xuất ra. Tuy rằng thời bấy giờ những người nô lệ làm
ra sản phẩm nhưng dưới sự chỉ huy của Nhà nước thì khối lượng lớn của cải đó không
phân phối cho nô lệ mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực lúc này Nhà nước
có vai trò được làm công cụ cho bọn chủ nô điều khiển, cưỡng bức kinh tế.
2-/ Phong kiến:
Nhà nước lúc này không chỉ can thiệp vào việc phân phối sản phẩm mà còn đứng
ra hợp lực xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp lúc này Nhà nước đã
khuyến khích nhân dân đi tìm các vùng đất mới thích hợp để gieo trồng. ở Việt Nam
đã có sự can thiệp của Nhà nước từ rất sớm thế kỷ thứ X trước công nguyên. Cơ sở
kinh tế của Nhà nước phong kiến là sở hữu của địa chủ phong kiến đối với ruộng đất
cũng như các loại tư liệu sản xuất khác và sở hữu cá thể của nông dân trong sự lệ
thuộc vào địa chủ.
Nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chính của giai cấp phong kiến là phương
tiện để giai cấp phong kiến duy trì địa vị kinh tế của mình và thực hiện quyền thống trị
đối với toàn xã hội.
3-/ Tư sản:
Trên thế giới vào thế kỷ XV xuất hiện các nhà tư bản là quá trình tích luỹ nguyên
thuỷ được thực hiện nên kinh tế thị trường dần dần hình thành. Nhằm giúp các nền
kinh tế của mình phát triển nhanh, tất nhiên giai cấp tư sản phải thực hiện thúc đẩy, vai
trò quan trọng của Nhà nước tư sản như là một “bà đỡ” bởi vậy ngày càng xác định rõ
vai trò của giai cấp tư sản và nâng cao dần dần.
Sự quản lý Nhà nước cũng rất khác tức là hết sức nghiêm ngặt, họ quản lý chặt
chẽ vốn của mình, họ tìm cách giữ chặt nguồn vốn của mình không để chạy tuột ra
nước ngoài, Nhà nước của các nước tư bản giai đoạn này đã đề ra luật buộc các thương
nhân nước ngoài không được mang tiền ra khỏi nước họ, chỉ mang hàng mà thôi. Nhà
nước còn quy định những nơi được phép buôn bán để dễ dàng cho việc kiểm soát của
mình. Các chính sách để có số nhân tiền lớn, tạo ra một lượng tiền nhỏ chạy ra ngoài
lưu thông và quay vòng vốn nhanh, có hiệu quả. Trong chính sách ngoại thương họ
dùng hàng rào thuế quan bảo hộ, đánh thuế nhập khẩu cao và thuế nhập khẩu các hàng
sản xuất trong nước thấp chỉ xuất thành phẩm chứ không xuất nhiên liệu, cũng như các
hàng xa xỉ phẩm. Mặt khác Nhà nước còn thực hiện việc hỗ trợ cho các thương nhân
trong nước các phương tiện vật chất, tài chính khi họ tham gia buôn bán quốc tế. Đồng
thời với nó Nhà nước quy định chặt chẽ tỷ giá hối đoái cấm trả cho người nước ngoài
cao hơn mức giá đó. Nhờ vậy mà các nước tư bản đã tích luỹ được một lượng của cải,
tiền tệ đáng kể. Đầu thế kỷ XVIII giai cấp tư sản tập trung phát triển mạnh lĩnh vực
sản xuất nhờ áp dụng công nghệ mới, nền sản xuất của các nước tư bản phát triển rất
nhanh, các nhà tư bản đua nhau mở rộng quy mô sản xuất. Tự do cạnh tranh đã trở
thành đòi hỏi cấp thiết trong đời sống của nền kinh tế này.
4-/ Nhà nước Xã hội chủ nghĩa:
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa (XHCN) là Nhà nước kiểu mới không dựa trên cơ sở
tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất mà có nhiệm vụ bảo vệ sở hữu toàn dân và các hình
thức sở hữu hợp pháp khác.
Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN) ở thời kỳ đầu mới xuất hiện đã tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển lực lượng sản xuất. Khi CNTB phát triển đến giai
đoạn tột cùng của nó là chủ nghĩa đế quốc khi mà lực lượng sản xuất đã phát triển ở
trình độ xã hội hoá tương đối cao thì quan hệ sản xuất TBCN dựa trên chế độ sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư, đã trở nên mâu thuẫn không còn phù
hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển. Mâu thuẫn đó đòi hỏi một cuộc cách mạng để
thay đổi quan hệ sản xuất (QHSX). Cuộc cách mạng về QHSX ấy tất yếu dẫn đến sự
thay đổi Nhà nước.
Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và QHSX biểu hiện về mặt xã hội là mâu
thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Nền sản xuất TBCN đã tạo ra những tiền
đề làm cho giai cấp vô sản phát triển mạnh mẽ về số lượng cũng như về tính tổ chức,
kỷ luật. Giai cấp vô sản trở thành giai cấp tiên tiến nhất trong xã hội có sứ mạng lịch
sử là lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động làm cách mạng, xoá bỏ Nhà nước tư sản,
xây dựng Nhà nước XHCN.
Bản chất của Nhà nước XHCN do cơ sở kinh tế và đặc điểm về quyền lực trong
CNXH quyết định. Cơ sở kinh tế của Nhà nước XHCN là tổng thể các QHSX được
hình thành trên nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, phát triển theo định hướng
XHCN trước sự lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân. Các kiểu Nhà nước khác
trong lịch sử đều dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất.
Nhà nước XHCN là Nhà nước kiểu mới có nhiệm vụ bảo vệ sở hữu toàn dân về
tư liệu sản xuất, là công cụ bảo vệ và đảm bảo quyền lợi của giai cấp công nhân, nông
dân, trí thức XHCN.
II-/ Các lý thuyết về vai trò kinh tế của Nhà nước của các nhà kinh tế học cổ
điển, tân cổ điện, Keynes:
1-/ Các nhà kinh tế học cổ điển:
Mầm mống tư tưởng tự do kinh tế được tiếp tục phát triển trong lý thuyết tự
nhiên của phái trọng nông ở Pháp. Song nổi bật là A. Smith (1723-1790) một nhà kinh
tế học nổi tiếng người Anh, Ông đã đưa ra lý thuyết “Bàn tay vô hình” và nguyên lý
“Nhà nước không can thiệp” vào tổ chức nền kinh tế hàng hoá. Theo ông phát triển
kinh tế cần tuân theo nguyên tắc tự do. Sự hoạt động của toàn bộ nền kinh tế là do các
quy luật khách quan tự phát chi phối sự hoạt động của thị trường, là do quan hệ cung
cầu và sự biến đổi tự phát của giá cả hàng hoá trên thị trường quyết định quan hệ giữa
người với người là quan hệ lợi ích kinh tế. Ông còn cho rằng mỗi người hoạt động chỉ
nhằm lợi ích của bản thân, song do “Bàn tay vô hình” chi phối buộc con người phải
phục tùng lợi ích chung của xã hội và điều này nằm ngoài ý định của các nhà kinh
doanh. Để cho nền kinh tế phát triển lành mạnh Nhà nước không nên can thiệp vào
kinh tế thị trường, vào hoạt động của các doanh nghiệp.
Mặc dù coi trọng “Bàn tay vô hình” song A. Smith cũng cho rằng đôi khi Nhà
nước cũng có những nhiệm vụ kinh tế nhất định, đó là trong các trường hợp các nhiệm
vụ kinh tế vượt quá khả năng của một doanh nghiệp như làm đường, xây bến cảng, đào
các con kênh lớn,
Thực tế chỉ ra là nền kinh tế muốn phát triển nhanh đòi hỏi đất nước phải có một
cơ sở hạ tầng (phục vụ sản xuất và đời sống) hiện đại. Điều này đã làm cho các nhà
kinh tế học thời kỳ này thấy rằng: nền kinh tế phát triển càng cao xã hội hoá càng mở
rộng, thị trường càng phát triển, càng cần có sự quản lý kinh tế của Nhà nước đối với
nền kinh tế. Song, họ vẫn coi tự do kinh tế là sức mạnh của nền kinh tế thị trường, quy
luật kinh tế là vô địch, mặc dù chính sách kinh tế có thể làm kìm hãm hay thúc đẩy ở
mức độ nhất định sự hoạt động của nó.
Nhưng vào những năm 30 của thế kỷ XX, những cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra
thường xuyên đặc biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) cho thấy
“Bàn tay vô hình” không thể đảm bảo những điều kiện ổn định cho kinh tế thị trường
phát triển. Thêm vào đó trình độ xã hội hoá phát triển ngày càng cao đã chỉ cho các
nhà kinh tế thấy rằng: cần phải có một lực lượng nhân danh xã hội can thiệp vào quá
trình hoạt động của nền kinh tế, điều tiết nền kinh tế.
2-/ Quan điểm của Keynes:
Nhà kinh tế học người Anh John Meynard Keynes (1884-1946) đã đưa ra lý
thuyết nền kinh tế thị trường. Theo J.M Keynes sự tăng lên của sản xuất sẽ dẫn đến sự
tăng lên của thu nhập, do đó làm tăng tiêu dùng. Song do khuynh hướng “tiêu dùng
giới hạn” nên tiêu dùng tăng chậm hơn so với thu nhập. Vì vậy cầu tiêu dùng giảm
tương đối, sự giảm cầu tiêu dùng sẽ kéo theo sự giảm sút của hàng hoá, từ đó làm cho
tỷ suất lợi nhuận giảm xuống. Và khi tỷ suất lợi nhuận nhỏ hơn hoặc bằng lãi suất thì
các chủ doanh nghiệp sẽ không có lợi trong việc vay vốn để đầu tư, họ sẽ không đầu tư
vào sản xuất kinh doanh nữa. Điều này sẽ dẫn đến nền kinh tế từ chỗ trì trệ, khủng
hoảng và làm cho nạn thất nghiệp ngày càng gia tăng. Để khắc phục tình trạng đó, Nhà
nước phải can thiệp vào nền kinh tế và thị trường, phải huy động được các nguồn tư
bản nhàn rỗi để mở mang các hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc
làm và tăng thu nhập cho dân cư, làm cho nhu cầu về cầu tăng lên, giá cả hàng hoá
tăng, thu nhập tăng, tăng hiệu quả của tư bản đầu tư. Điều đó khuyến khích mở rộng
đầu tư làm cho sản xuất tăng nhanh nhờ đó mà có điều kiện đẩy lùi khủng hoảng và
tình trạng thất nghiệp.
J.M Keynes và trường phái của ông cho rằng Nhà nước can thiệp vào kinh tế cả
tầm vi mô và vĩ mô. ở tầm vĩ mô, Nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất, chính
sách tín dụng, điều tiết lưu thông tiền tệ, lạm phát, thuế, bảo hiểm, trợ cấp, đầu tư phát
triển, ở tầm vi mô Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh và dịch vụ công cộng.
Trường phái Keynes cho rằng sự can thiệp của Nhà nước là tuyệt đối không một
cá nhân nào có thể thay thế.
3-/ Quan điểm hỗn hợp của Paul Samuelson - Sự phối hợp giữa “Bàn tay vô hình”
và “Bàn tay hữu hình”:
Paul Samuelson nhà kinh tế học người Mỹ thuộc trường phái hiện đại. Ông có tư
tưởng kết hợp “Bàn tay vô hình” với chức năng quản lý kinh tế Nhà nước để điều tiết nền
kinh tế thị trường. Ông cho rằng điều hành một nền kinh tế không có cả Chính phủ lẫn thị
trường cũng như định vỗ tay bằng một bàn tay. Cơ chế thị trường xác định giá cả trong
nhiều lĩnh vực trong khi Nhà nước điều tiết thị trường bằng các chương trình thuế, chi tiêu
và luật lệ. Cả thị trường có tầm quan trọng ngang nhau. Sự phối hợp đó tạo nên nền kinh
tế hỗn hợp.
4-/ Trường phái “Kinh tế thị trường xã hội”:
Trường phái này cũng mang tính chất hỗn hợp “Bàn tay vô hình” của thị trường
và “Bàn tay hữu hình” của Nhà nước. Tuy vậy tư tưởng can thiệp của Nhà nước cũng
rất đa dạng. Các nhà tư tưởng chủ nghĩa tự do muốn phát triển kinh tế tự do, Nhà nước
chỉ can thiệp mức độ nhất định. Quan điểm của họ là tự do thị trường nhiều hơn, Nhà
nước can thiệp ít hơn. Trong khi đó các nhà tư tưởng Bắc Âu lại chủ trương tăng
cường vai trò Nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực xã hội, xây dựng kiểu kinh tế thị
trường xã hội.
Tư tưởng vai trò kinh tế Nhà nước được vận dụng vào các nước mang tính chất đặc
thù. Như ở Mỹ ở đầu thế kỷ XX đã bắt đầu mở rộng sự can thiệp của Nhà nước liên bang
đối với nền kinh tế. Vai trò của Chính phủ liên bang tạo ra môi trường tự do cạnh tranh,
xây dựng các đạo luật chống độc quyền, kiểm soát các hoạt động kinh tế bằng các công cụ
tài chính, tiền tệ, tổ chức ngân hàng thương mại, trong đó ngân hàng Trung ương vừa làm
chức năng dự trữ, vừa làm chức năng điều tiết, kiểm soát lượng tiền tệ được cung ứng
thông qua ngân hàng thương mại, xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế, giao thông,
ở Đức thì nền kinh tế thị trường được hình dung như một sân bóng trong đó mỗi
doanh nghiệp là một cầu thủ Nhà nước đóng vai trò là trọng tài, là người thiết kế “luật
chơi” và dùng “luật chơi” để điều khiển nền kinh tế sao cho nền kinh tế tránh những
tai hoạ khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát. Nhà nước rất tôn trọng quyền tự do cạnh
tranh trên thị trường của các chủ doanh nghiệp, và chỉ giữ ở mức độ tối thiểu Nhà
nước coi trọng chỉ tiêu xã hội.
5-/ Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin:
Bất cứ Nhà nước nào cũng có vai trò và chức năng kinh tế. C. Mác coi quyền lực
của Nhà nước như vai trò “bã đỡ” cho xã hội cũ thai nghén của xã hội mới. F.
Ăngghen trong tác phẩm “Chống Đuy-ring” cũng nhấn mạnh rằng “Giai cấp vô sản
chiếm lấy chính quyền Nhà nước và biến tư liệu sản xuất trước hết thành sở hữu Nhà
nước” (Tuyển tập, tập V - NXB ST, HN 1983).
ở các thời kỳ khác nhau, ở các chế độ xã hội khác nhau, do tính chất Nhà nước
khác nhau nên vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước có biểu hiện khác nhau,
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin thì sự khác nhau thể hiện ở những
điểm sau đây:
Một là, các nhà nước trước CNTB, vai trò kinh tế chủ yếu là đặt ra chế độ thuế
khoá - một chế độ đóng góp có tính cưỡng bước để nuôi sống Bộ máy cai trị thực hiện
chức năng đối nội, điều hoà giai cấp, điều hoà sự xung đột và “Giữ cho sự xung đột đó
nằm trong vòng trật tự” nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị. Nguồn thu của
thuế khoá còn nhằm thực hiện chức năng đối ngoại, bảo vệ lãnh thổ theo đó là bảo vệ
lợi ích và mở rộng lợi ích của giai cấp thống trị khỏi bị xâm lược hoặc bị mất đi ở
nước ngoài.
Hai là, đến Nhà nước tư sản vai trò kinh tế của Nhà nước không dừng lại ở thuế
khoá, không chỉ đơn thuần là cơ quan cai trị ở bên ngoài. Bên trên quá trình sản xuất
như F. Ăngghen đã nhận xét: “Nền văn mình mà tiến lên thì bản thân thuế má là không
đủ nữa, Nhà nước phát hành hối phiếu, vay nợ tức là phát hành công trái” (C. Mác -
Ăngghen tuyển tập, tập V).
Và sự xuất hiện sở hữu Nhà nước đã làm cho Nhà nước bắt đầu ở bên trong quá
trình sản xuất. Nhà nước là: “Nhà tư bản tập thể lý tưởng. Nhà nước ấy càng chuyển nhiều
lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại càng biến thành tư bản tập thể
thực sự bấy nhiêu và càng bóc lột công nhân bấy nhiêu”. (“Chống Đuy-ring” - C. Mác -
Ăngghen, tập V - NXB Sự thật, 1982).
chương II
những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường
I-/ Ưu, nhược điểm của nền kinh tế thị trường:
1-/ Ưu điểm:
Khi chúng ta nói được nhược điểm của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp
tức là ta đã chứng minh được rằng kinh tế thị trường có tiến bộ hơn, như vậy thì tiến
bộ hơn ở chỗ nào? phải chăng đơn thuần chỉ là nền kinh tế tập trung được cải thiện hoá
mà thôi.
Thứ nhất, kinh tế thị trường là nơi để diễn ra sự cạnh tranh, sự đào thải của cái cũ
để dẫn đến đưa mọi sự vật phát triển cao hơn. Nói đến kinh tế thị trường là nói đến sự
cạnh tranh kinh tế giữa các chủ thể tham gia kinh tế thị trường. Cạnh tranh là sự ganh
đua giữa các chủ thể kinh tế trên thị trường, để giành sản xuất, tiêu dùng hàng hoá có
lợi cho mình nhằm thu lợi nhuận cao nhất, là cạnh tranh đối với tất cả các ngành giữa
người bán, người mua,
Do vậy nền kinh tế thị trường kích thích việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng
cao năng suất lao động, để nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất giá thành rẻ, chất
lượng cao, chỉ còn cách là nâng cao kỹ thuật công nghệ để cạnh tranh với các hãng
khác nhằm tối đa hoá lợi nhuận. C.Mác cũng đánh giá vai trò lợi nhuận đối với các nhà
tư bản với tư cách là chủ thể của nền kinh tế thị trường. Theo Mác, những nhà kinh
doanh ghét cay ghét đắng tình trạng không có lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít chẳng
khác gì giới tự nhiện ghê sợ chân không. Vậy mà cuộc sống lại đi lên hàng ngày vấn
đề phải thường xuyên áp dụng kỹ thuật mới, hợp lý hoá sản xuất làm cho năng suất lao
động cá biệt và năng suất xã hội tăng lên. Nhờ đó mà nền kinh tế thị trường tuy mới ra
đời mấy năm lại đây nhưng bề thế đã tạo cho mình khá dầy dặn là một khối lượng, lực
lượng sản xuất xã hội cao chưa từng thấy trong lịch sử xã hội loài người.
Thứ hai, kinh tế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh
chóng khi sản xuất một mặt hàng nào đó cái cần thiết là phải biết được thị hiếu của dân
chúng, hãng nào sản xuất các mặt hàng lạ, đẹp mắt và hợp thời trang sẽ đạt nhiều lợi
nhuận hơn. Muốn vậy có nhiều hình thức như quảng cáo, tiếp thị, thu nhập thông tin
khi thấy mặt hàng của mình ít ưu chuộng hoặc là ưu chuộng giảm tức là cầu đang giảm
dần thì người sản xuất phải ngừng ngay sản xuất lại. Chính điều đó dẫn tới sự tiết kiệm
hao phí lao động xã hội vì vậy trong nền kinh tế thị trường luôn luôn diễn ra sự đổi
mới. Nhiều sản phẩm trước đây vẫn bán nay mất đi vì không có nhu cầu, nhiều sản
phẩm mới với chất lượng, quy cách ngày càng được hoàn thiện hơn.
Thứ ba, không kể tới nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế có nhiều hàng hoá
và dịch vụ. Đó là một nền kinh tế dư thừa chứ không phải thiếu hụt. Do nền kinh tế thị
trường tạo điều kiện vật chất để thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất, văn hoá
và sự phát triển toàn diện của con người.
Thứ tư, đó là nơi thúc đẩy xã hội hoá và tập trung dân chủ cao, phân phối thu
nhập hợp lý. Đúng theo nguyên tắc làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm
không hưởng.
Nhưng những mặt tốt của nó lại đi kèm những nhược điểm mà nó được gọi là
những mặt trái của nền kinh tế thị trường.
2-/ Mặt trái của nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất, nếu nói rằng thị trường là nơi mà các thông tin phải rất nhạy bén và
chính xác thì chỉ cần một thông tin lệch lạc hay sự “lỡ” sản xuất dẫn đến sản xuất mù
quáng gây ra các cuộc khủng hoảng thừa và thiếu nghiêm trọng, có những lúc thị
trường khan hiếm, nhưng có nhiều lúc lại quá thừa dẫn đến tình trạng đổ đi một cách
quá lãng phí.
Thứ hai, chính thị trường cạnh tranh đó làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
không theo kịp và tất nhiên sẽ có quá nhiều doanh nghiệp phải đi đến phá sản, phải
đào thải công nhân, thất nghiệp tràn lan, dẫn đến các tệ nạn xã hội tăng lên đáng kể
như: nghiện hút, cơ bạc,
Thứ ba, cũng chỉ vì theo đuổi mục đích tối đa lợi nhuận mà các hãng kinh doanh
sẽ chỉ đầu tư vào những ngành có lợi nhuận cao mà không quan tâm đến sự phát triển
kinh tế như thế nào dẫn đến nền kinh tế có sự không cân đối giữa các ngành dịch vụ
gây ra sự mất cân bằng.
Thứ tư, khi gắng gia tăng sản lượng cao nhất vô tình con người đã thải ra môi
trường một lượng chất thải vượt xa với lượng chất thải mà môi trường có thể tự phân
huỷ, bởi vậy ô nhiễm môi trường một cách nặng nền hơn thế có thể làm ảnh hưởng tới
cuộc sống hay sức khoẻ con người sự tàn phá thiên nhiên một cách tàn nhẫn.
Thứ năm, ta không thể không nói đến vấn đề “độc quyền” trong nền kinh tế thị
trường, chính sự độc quyền này làm gây ra rất nhiều những bức xúc và dẫn đến có thể
làm đảo lộn nền kinh tế khi một công ty tung tiền ra với một lượng quá lớn sẽ gây ra
lạm phát cao và gây ra sự mất hiệu quả của nền kinh tế, không có sự canh tranh giữa
các doanh nghiệp với nhau mà chỉ có một mức giá cố định.
II-/ Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường:
Đây là những đặc trưng nội cộm nhất, tiêu biểu nhất của một nền kinh tế vận
hành theo cơ chế thị trường.
Có năm đặc trưng lớn:
Thứ nhất, đó là thể chế của những chủ thể tự chủ, tự do kinh doanh theo pháp
luật, các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh, vừa liên kết, hợp tác và phát triển xã hội
hoá cao.
Thứ hai, khi ở nền kinh tế thị trường thông tin là một điều tối quan trọng và ngày
càng đóng vai trò trực tiếp hướng dẫn sản xuất các hãng kinh doanh lựa chọn phương
án sản xuất cho mình để ngày càng mở rộng quy mô sản xuất, lợi nhuận nhiều hơn hay
có hiệu quả trong việc sử dụng các tài nguyên thiên nhiên, lựa chọn các phương án sản
xuất bao gồm thời gian tiến hành, nơi tiến hành, thiết bị, lực lượng lao động, tất cả
những điều này là thể chế của những chủ thể tự chủ. Các hãng tự quyết định lấy hành
vi của mình nhưng phải theo một khuôn khổ với sự quản lý vĩ mô của Nhà nước và
tuân theo pháp luật. Do lợi nhuận các hãng luôn thay đổi các thiết bị, mẫu mã để cạnh
tranh với các hãng khác, giành giật hợp đồng cũng như khách hàng. Nhưng trong nền
kinh tế thị trường vẫn phải có khuôn phép, có luật bảo vệ. Ngoài ra, ở nền kinh tế thị
trường không nên dàn đều các mặt quan trọng như một tổ chức ta sẽ phân công cho
phát triển các vị trí then chốt, vị trí không thể thiếu được của cuộc sống, để tạo ra thế
vững chắc, đồng đều và cân bằng.
Trong nền kinh tế thị trường điều thiết yếu là sở hữu cá nhân và tư nhân (về lao
động, vốn, tài sản, ) được tôn trọng, đồng thời phải phát triển các hình thức sở hữu,
hỗn hợp, đan xen trong các tổ chức kinh doanh. Đối với các tổ chức kinh tế quốc
doanh ta nên tách quyền sở hữu tài sản của Nhà nước với quyền kinh doanh tài sản của
doanh nghiệp. Riêng kinh tế hợp tác tự nguyện được khuyến khích và hỗ trợ. Làm sao
cho các thành phần kinh tế phải được công bằng trước pháp luật.
Thứ ba, giá tự do tức giá thị trường, tự do hoá thương mại (ban đầu ở trong nước
dần dần mở rộng ra thị trường ngoài nước) và cạnh tranh tạo mọi khả năng cho thị
trường phát huy vai trò tự điều chỉnh sản xuất kinh doanh và cung cầu hàng hoá.
Sự sai lầm của chúng ta trong cơ chế cũ là Nhà nước quy định giá cho các mặt
hàng, giá cả cứng nhắc, tiền lương thực tế không thay đổi khi gia tăng làm ảnh hưởng
rõ rệt đến nền kinh tế là lạm phát quá cao gây lộn xộn mất ổn định của nền kinh tế. Và
bây giờ khi chuyển sang một nền kinh tế mới, hơn hết chúng ta hãy để thị trường,
doanh nghiệp tự quyết định hành vi của mình mà cho giá cả phù hợp cũng như tuỳ
thuộc vào lượng cung cầu mà sản xuất kinh doanh. Thấy rõ khi cung lớn cầu ta phải
ngừng sản xuất ngay để tiêu thụ hết tất cả các sản phẩm tồn kho, để tránh khủng hoảng
thừa hay để lợi ích cận biên giảm. Khi cầu lớn hơn cung giá cả sẽ tăng và các hãng
doanh nghiệp rất muốn mở rộng quy mô sản xuất.
Tuy rằng xã hội luôn mong muốn cầu và cung ở trạng thái cân bằng để tránh gây
suy thoái hay gây lạm phát bằng các chính sách, các hình thức kinh tế, các hoạt động
kinh tế, luật pháp, chế độ phân phối mà điều tiết cũng như hạn chế sao cho phù hợp.
Các hình thức trợ giá hay phát hành cổ phiếu, để hạn chế mặt trái của thị trường.
Thứ tư, trong khi điều hành nền kinh tế đừng đưa những quy định cứng nhắc, bảo
thủ, cần hạn chế tối đa các mệnh lệnh hành chính để làm sao đưa nền kinh tế thị trường
đúng như quy luật của thị trường tức là diễn ra theo các quy luật: quy luật cung cầu,
quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh nhằm diễn ra theo nguyên tắc vận hành chủ yếu.
Nhưng không vì vậy mà ta bỏ mặc nền kinh tế thích ra sao thì ra mà vẫn phải có sự
quản lý của Nhà nước để chỉnh hướng đi theo nền kinh tế có kế hoạch, có mục tiêu
kinh tế xã hội. Bởi vậy ta không nên cô lập thị trường mà nên kết hợp nền kinh tế kế
hoạch và nền kinh tế thị trường để đảm bảo chính sách kinh tế của nước nhà, suy cho
cùng nền kinh tế thị trường không phải là vạn năng, có nhiều cái nó không thể làm
được. Tầm quan trọng của kế hoạch ở năng lực điều chỉnh hành vi của nó, đó là khi ta
dự đoán chính xác đưa ra các chính sách phương án và phương hướng phát triển nền
kinh tế đưa cái nào là mũi nhọn như phát triển công nghiệp, sự nghiệp công ích mà thị
trường không đoái hoài đến. Đồng thời là sự uốn nắn những sai lầm của thị trường loại
bớt, giảm và hạn chế tối đa.
Thứ năm, mọi yếu tố sản xuất phải đi vào thị trường bởi nó tạo điều kiện cho nền
kinh tế hoạt động bình thường phải đưa tất cả vào đừng vì bất cứ cái gì mà chần chừ.
Tiếp tục đẩy mạnh cơ chế lưu thông hàng hoá xây dựng hệ thống thị trường thông suốt
và thống nhất ở các thị trường hàng hoá dịch vụ, vốn, kỹ thuật, chứng khoán, bất động
sản.
Đặc trưng xã hội cũng như vai trò xã hội to lớn của Nhà nước XHCN trở thành
đặc trưng nổi bật của thể chế nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
mô hình kinh tế mà con người là nhân vật trung tâm.
Một nền kinh tế thị trường thành công không phải dừng lại đơn thuần là sự tăng
trưởng kinh tế mà đi kèm với nó là không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống như
lương và thu nhập thực tế tăng trưởng mạnh, y tế tăng, phân hoá giầu nghèo không còn
rõ nét, không làm phương hại lớn đến chúng, mặt khác phải giữ vững vai trò cũng như
bảo tồn nền văn hoá truyền thống của xã hội.
Muốn vậy khi quyết định ta phải nêu ra các chi tiêu cần phải đạt được về mặt
giáo dục, y tế, việc làm, xoá đói giảm nghèo, lĩnh vực văn hoá xã hội, đảm bảo môi
sinh môi trường, đồng thời nâng cao vai trò xã hội của Nhà nước XHCN theo chế độ
bảo hiểm xã hội, theo nguyên tắc công bằng, bình đẳng, tuy vậy ta phải quan tâm chú
ý săn sóc đến các thành viên có công với cách mạng, các bà mẹ anh hùng, liệt sỹ,
thương binh, người già, trẻ em mồ côi.
Chương III
Mục tiêu, chức năng, vai trò quản lý kinh tế
vĩ mô của nhà nước
I-/ Mục tiêu quản lý vĩ mô của Nhà nước:
Mỗi vấn đề đặt ra đều có những mục tiêu riêng của nó. Vậy thì khi ta nghiên cứu sự
quản lý vĩ mô của Nhà nước ta sẽ có những mục tiêu nào để từ đó đưa ra các chính sách
cũng như các biện pháp quản lý hợp lý và đúng đắn nhất.
1-/ Mục tiêu phân bố nguồn lực có hiệu quả:
Để phân bố có hiệu quả Nhà nước phải dựa vào những công cụ kế hoạch định sự
phát triển toàn diện nền kinh tế, thông qua các công cụ này Nhà nước có thể nắm bắt
được tất cả các yếu tố cung cũng như cầu, trạng thái nền kinh tế, đặc điểm từng vùng
để hướng tới sự phân bố, định hướng về quy mô và sản lượng từng vùng để xử lý
nguồn lực đang có một cách tốt hơn. Xác định quy mô từng vùng để có khả năng phát
triển tốt nhất các mặt mạnh của vùng đó, đặc trưng và tài nguyên. Bởi vậy hiện nay
cũng có rất nhiều vùng khác nhau có mũi nhọn như: than, lúa, sắt, từ đó Nhà nước có
thể cung cấp vốn, kỹ nghệ, sức lao động để sử dụng có hiệu quả nhất. Và đây cũng
chính là công cụ để Nhà nước có thể khẳng định được ý đồ cũng như mục đích của
mình trong tất cả các lĩnh vực, công cộng, khoa học, kỹ thuật, kinh tế, giảm bớt rủi ro
với các thành phần kinh tế đảm bảo các hoạt động đi vào guồng máy hơn, tạo sự hài
hoà thống nhất các khu vực với nhau.
2-/ Mục tiêu phân bố công bằng sản phẩm làm ra và giải quyết tốt vấn đề xã hội:
a-/ Phương pháp cân bằng:
Để đảm bảo phân bố công bằng và giải quyết tốt các vấn đề xã hội Nhà nước có
chức năng phân phối thông qua sự điều tiết kinh tế. Phân phối theo chủ sở hữu, phân
phối theo lợi nhuận, phân phối theo lao động một cách công bằng nhất, ai làm người
đó hưởng, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Nhà nước phải đại diện cho quyền
lợi nhân dân lao động. Tuy nhiên Nhà nước vẫn phải trợ cấp cho các người già, thương
binh, bảo hiểm, công nghệ bằng các chính sách tiền tệ nhằm hạn chế tối đa sự bất bình
đẳng, bất công bằng trong xã hội. Ngoài ra Nhà nước còn áp dụng các chính sách kinh
tế khác như: chính sách thuế, chính sách phân phối lợi nhuận, chính sách lãi suất.
b-/ Giáo dục:
Cùng với sự phân phối cân bằng thì giải quyết các vấn đề xã hội cũng là mục tiêu
lớn. Đó là mục tiêu nâng cao mặt bằng văn hoá dân tộc, đẩy lùi nạn mù chữ, đồng thời tạo
điều kiện giảng dạy cho thật tốt, có hiệu quả, Khi ta có trí thức ta sẽ dễ dàng nhận thức
được nhiệm vụ cũng như hành động của mình.
3-/ Mục tiêu ổn định và tăng trưởng kinh tế:
Đây là mục tiêu cần thiết và quan trọng nhất. Tăng trưởng không có nghĩa là chỉ
tăng về số lượng mà tăng cả về chất lượng đồng thời với nó là nền kinh tế đã đi vào
nhịp thở như nhịp thở của trái tim vậy, hoà quyện với nhau để cùng tồn tại và phát
triển.
Nhà nước có vai trò tối quan trọng ở đây đó là tạo môi trường lành mạnh để các
doanh nghiệp có thể tự do cạnh tranh, kết hợp theo cấu trúc và theo quy định của pháp
luật, làm sao để phát huy đẩy mạnh các mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, nhằm cho
các doanh nghiệp thuận lợi để sản xuất tối đa sức sản xuất của mình.
Nhà nước phải xác định rõ quyền sở hữu tài sản để đảm bảo nguồn lực tham gia
vào kinh tế vốn, kỹ nghệ, các dự án đầu tư, đồng thời khuyến khích nhằm nâng cao
sức sản xuất cũng như sự cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền và phát triển toàn
diện các yếu tố lao động vốn, kỹ thuật, đất đai theo không gian và thời gian.
Ngoài ra Nhà nước còn có một nhiệm vụ đó là nguồn tài trợ cuối cùng đối với
các doanh nghiệp chủ chốt để phát huy không làm cho nền kinh tế chệch hướng xã hội
chủ nghĩa.
4-/ Củng cố và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội:
Kết cấu hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là mục tiêu không thể thiếu được khi
xây dựng một nền kinh tế mở và toàn diện. Muốn vậy ta phải phát triển giáo dục cũng
như tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài tạo sự tiến bộ mới cho nền kinh tế
đồng thời tạo nền kinh tế thị trường có sức cạnh tranh, đổi mới công nghệ.
5-/ Mục tiêu củng cố quốc phòng, an ninh trật tự:
Bảo vệ và phát triển luôn đi kèm với nhau. Yêu cầu cao nhất của xã hội đó là
phát triển bền vững và có sự vững chắc về quốc phòng cũng như an ninh.
II-/ Chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường:
Vai trò nhà nươc trong nền kinh tế thị trường được thực hiện thông qua các chức
năng cơ bản sau:
1-/ Thiết lập khuông khổ pháp luật:
Chức năng này có ý nghĩa quan trọng đối vói sự phát triển kinh tế mà cá doanh
nghiệp, người tiêu dùng và cả bản thân chính phủ đều phải tuân thủ. Nó bao gồm qui
định về tài sản, các qui tắc về hợp đồng và hoạt động kinh doanh, các trách nhiệm
tương hỗ của các liên đoàn lao động, ban quản lý và nhiều luật lệ để xác định môi
trường kinh tế.
Về nhiều mặt, các quyết định của khuôn khổ pháp luật xuất phát từ những mối
quan hệ vượt ra ngoài lĩnh vực kinh tế đơn thuần. Các luật lệ đưa ra nhằm đáp ứng
những giá trị và quan điểm được đồng tình rộng rãi về sự công bằng hơn là qua một sự
phân tích kinh tế được mài dũa rất cẩn thận về chi phí và lợi lộc. Nhưng khuôn khổ
pháp luật có thể tác động sâu sắc tơi các ứng xử kinh tế của con người.
2-/ Hiệu quả:
Nhà nước sửa chữa những khiếm khuyết của thị trường để thị trường hoạt động có
hiệu quả như: Hạn chế ảnh hưởng của động quyền, tình trạng vô chính phủ dẫn đến khủng
hoảng kinh tế, thất nghiệp, nạn ô nhiễm môi trường
Trước hết, những thất bại mà thị trường gặp phải làm cho hoạt động của nó
không hiệu quả là ảnh hưởng của độc quyền. Cần phải nói rằng, lợi dụng ưu thế của
mình, các tổ chức độc quyền có thể qui định giá để thu lợi nhuận, và do vậy phá vỡ ưu
thế cạnh tranh hoàn hảo. Vì vậy cần phải có sự can thiệp của Nhà nước để hạn chế độc
quyền, đảm bảo tính hiệu quả cạnh tranh thị trường. Điều đó đảm bảo được ganh đua
của những người kinh doanh, đảm bảo tính hiệu quả của nền kinh tế.
Song song cạnh tranh không hoàn hảo hay độc quyền thì một người cạnh tranh
không hoàn hảo có thể làm thay đổi giá cả của mặt hàng nào đó. Vì người độc quyền
trên thực tế là người duy nhất cung cấp một mặt hàng cụ thể nào đó. Vì vậy có khả
năng qui định giá cao để thu hút siêu lợi nhuận. Tình trạng đó làm cho giá cả cao hơn
mức hiệu quả, làm biến dạng về cầu và xuất hiện siêu lợi nhuận. Tình trạng đó làm cho
giá cả cao hơn mức hiệu quả, làm biến dạng về cầu và xuất hiện siêu lợi nhuận. Những
lợi nhuận này có thể được sử dụng vào những hoạt động như quảng cáo lừa dối, mua
ảnh hưởng. Vì vậy nhà nước không thể coi mọi hoạt động của độc quyền là tất yếu.
Nhà nước cần đưa ra các luật chống độc quyền và luật lệ kinh tế để làm tăng hiệu quả
của hệ thống thị trường cạnh tranh không hoàn hảo.
Thứ hai, những tác động bên ngoài cũng dẫn đến tính không hiệu quả của hoạt
động của thị trường và cũng đòi hỏi nhà nước phải can thiệp. Tác động bên ngoài xẩy ra
khi doanh nghiệp tạo ra chi phí lợi ích cho doanh nghiệp khác hoặc người khác mà
doanh nghiệp đó không phải trả đúng số chi phí phải trả hoặc không được nhận những
lợi ích nhẽ ra anh ta được nhận. Ví dụ, Doanh nghiệp A sử dụng tài nguyên hiếm như
không khí hay nước sạch mà không phải trả tiền cho những người phải sống trong bầu
không khí bị ô nhiễm hay nước bẩn. Những tác động bên ngoài như vây làm cho hoạt
động kinh tế không hiệu quả. Vì vậy, nhà nước phải sử dụng đến luật lệ để hành kinh tế
như là một phương pháp để ngăn chặn những tác động tiêu cực bên ngoài như ô nhiễm
nước và không khí. Khai thác đến cạn kiệt khoáng sản, chất thải gây nguy hiểm cho thức
ăn, nước uống, thiếu an toàn và các chất phóng xạ
Nhà nước phải đảm bảo nhiệm vụ sản xuất hàng hoá công cộng. Theo các nhà
kinh tế, hàng hoá tư nhân là loại hàng hoá mà nếu như một người đã dùng thì người
khác không thể dùng được nữa. Còn hàng hoá công cộng là một loại hàng hoá mà
nhiều người cùng sử dụng. Ví dụ không khí trong sạch và quốc pòng là hàng hoá công
công. Đặc trưng của hàng hoá công cộng là:
Về mặt kỹ thuật, một người tiêu dùng mà không làm giảm số lượng sẵn có đối
với người khác. Nó không loại trừ bất cứ ai ra khỏi việc tiêu dùng này trừ khi phải trả
giá quá đắt.
ích lợi giới hạn của hàng hoá công cộng đối với xã hội và tư nhân là khác nhau.
Nhìn chung lợi ích giới hạn mà tư nhân thu được từ hàng hoá công cộng là rất nhỏ. Vì
vậy, tư nhân thường không muốn sản xuất hàng hoá công cộng. Mặt khác, có nhiều
hàng hoá công cộng có ý nghĩa quan trọng cho quốc gia như quốc phòng, luật pháp,
trật tự trong nước nên không thể giao cho tư nhân được. Vì vậy nhà nước cần phải sản
xuất hàng hoá công cộng.
Thứ ba, là thuế. Trên thực tế phần chi phí của Chính phủ phải được trả giá bằng
thuế thu được. Tất cả mọi người đều phải chịu theo luật thuế. Sự thực là toàn bộ công
dân tự mình phải đặt gánh nặng thuế lên mình và mỗi công dân cũng phải được hưởng
phần hàng công cộng do Chính phủ cung cấp.
Như vậy Nhà nước phải can thiệp vào thị trường để nâng cao hiệu quả của thị
trường. Nhà nước đề ra luật đi đường và đảm bảo hàng hoá công cộng như đường sá,
do đó tạo điều kiện dễ dàng cho tư nhân hoạt động, ngăn cản sự lạm dụng của các
doanh nghiệp khi họ trở thành những kẻ tham lam, độc quyền chiếm đường và kiềm
chế hoạt động của các doanh nghiệp khác.
3-/ Đảm bảo sự công bằng
Mục đích của chức năng này là để vừa đảm bảo ổn định xã hội, vừa không làm
triệt tiêu tính tích cực sản xuất kinh doanh của các thành viên trong xã hội. Để thực
hiện chức năng này, một mặt, Nhà nước phải tạo ra những cơ sở về tổ chức để mọi
người có cơ hội ngang nhau và đều được hưởng phần tương xứng với kết quả lao động
và phần đóng góp của mình; mặt khác, trong điều kiện hoạt động hoàn hảo nhất, lý
tưởng nhất của cơ chế thị trường, vẫn thấy rằng sự phân hoá, bất bình đẳng sinh ra từ
kinh tế thị trường là tất yếu. Một hệ thống thị trường có hiệu quả vẫn có thể gây ra sự
bất bình đẳng lớn. Vì vậy, chính sách để phân phối lại thu nhập. Công cụ quan trọng
nhất của Chính phủ trong lĩnh vực này là thuế thu nhập, thuế người giầu theo tỷ lệ thu
nhập lớn hơn người nghèo. Thông thường là thuế luỹ tiến áp dụng cho thuế thu nhập
và thuế thừa kế.
Bên cạnh thuế, phải có hệ thống hỗ trợ thu nhập để giúp đữ cho người già, người
tàn tật, người phải nuôi con và bảo hiểm thất nghiệp cho người không có công ăn việc
làm. Hệ thống thanh toán chuyển nhượng này tạo ra mạng lưới an toàn cho những
người không may khỏi bị huỷ hoại về kinh tế.
Cuối cùng, Chính phủ đôi khi phải trợ cấp tiêu dùng cho những nhóm có thu
nhập thấp bằng cách phát tem phiếu thực phẩm, trợ cấp y tế, cho thuê nhà với giá rẻ,
4-/ ổn định kinh tế vĩ mô:
Từ khi ra đời, chủ nghĩa tư bản từng gặp những thăng trầm chu kỳ của lạm phát
(giá cả tăng) và suy thoái (nạn thất nghiệp rất cao). Đôi khi những hiện tượng này rất
dữ dội, như thời kỳ siêu lạm phát ở Đức trong những năm 20, thời kỳ đại suy thoái của
Mỹ những năm 30.
Nhờ học thuyết của John Meynard Keynes và những người theo học thuyết của
ông mà chúng ta hiểu được làm thế nào để kiểm soát những thăng trầm của chu kỳ
kinh doanh. Ngày nay, chúng ta hiểu rằng, việc sử dụng một cách trân trọng quyền lực
về tiền tệ và tài chính của nhà nước có thể ảnh hưởng đến sản lượng, việc làm và lạm
phát. Quyền lực về tài chính của Nhà nước là quyền đánh thuế và chi tiêu. Quyền lực
về tiền tệ bao hàm quyền điều tiết về tiền tệ và hệ thống ngân hàng để xác định mức lãi
suất và điều kiện tín dụng. Bằng hai công cụ trung tâm này của chính sách kinh tế vĩ
mô, nhà nước có thể ảnh hưởng đến sản lượng, công ăn việc làm và giá cả của một nền
kinh tế nhờ đó thúc đẩy nền kinh tế thị trường trên thế giới mở mang chưa từng có kể
từ chiến tranh thế giới lần thứ hai đến đầu những năm 70.
Nhà nước thực hiện chức năng trên đây thông qua ba công cụ: Các loại thuế, các
khoản chi tiêu và những qui định hay kiểm soát về tiền tệ. Thông qua thuế, Chính phủ
điều tiết tiêu dùng, đầu tư của tư nhân, khuyến khích hoặc hạn chế hoạt động kinh
doanh của doanh nhân. Các khoản chi tiêu của Chính phủ sẽ thúc đẩy các doanh
nghiệp hay công nhân sản xuất ra một số hàng hoá hay dịch vụ, và cả những việc
chuyển tiền nhằm trợ cấp thu nhập (như bảo hiểm, trợ cấp thất nghiệp, ). Những qui
định hay kiểm soát của Chính phủ cũng nhằm hướng nhân dân đi vào hoặc từ bỏ
những hoạt động kinh doanh.
Nhưng trong nền kinh tế thị trường ngày nay không thể nào vừa có đủ công ăn
việc làm vừa không có lạm phát.
Trong thực tế, cho đến nay người ta thấy những nước thực hiện tốt các chức năng
trên đây đều thành công trong việc quản lý kinh tế. Vượt quá những chức năng đó
hoặc là dẫn đến chi tiêu tốn kém, tạo ra bộ máy quan liêu cồng kềnh kém hiệu lực hoặc
là làm cho nền kinh tế rối ren, dẫn đến tình trạng quản lý kém hiệu quả của Nhà nước.
Từ sự phân tích trên đây có thể đi đến một ssó nhận xét có ý nghĩa phương pháp
luận đối với việc thiết lập cơ chế điều hành nền kinh tế thị trường là:
Thứ nhất, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, ở các mức độ khác nhau cơ chế
điều tiết kinh tế có hiệu quả là cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước
hay là cơ chế kinh tế hỗ hợp.
Thứ hai, việc vận dụng cơ chế hỗn hợp phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội
của mỗi nước, vào hệ tư tưởng, quan điểm phát triển được nghiên cứu một cách khoa
học của mỗi dân tộc.
Thứ ba, trong sự phát triển kinh tế thị trường cần coi trọng tự do kinh doanh, đảm
bảo tính tự chủ của nhà kinh doanh (được tự do đầu tư, lựa chọn thị trường, cung cầu,
giá cả). Sự áp đặt của Nhà nước về giá cả thị trường sẽ làm sai lệch sự phát triển theo
qui luật, gây ra những tổn thất, thiệt hại và hạn chế sự phát triển năng động của nền
kinh tế,
Thứ tư, trong nền kinh tế thị trường, sự can thiệp của Nhà nước chủ yếu thông
qua việc hoạch định các chiến lược phát triển, các công cụ kinh tế vĩ mô, đặc biệt là
chính sách tài chính, tiền tệ, điều tiết thu nhập, chính sách đầu tư, tích luỹ, tiết kiệm
tiêu dùng.
Thứ năm, cuối cùng nhà nước phải xây dựng được một hệ thống luật pháp hoàn
chỉnh tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế, phải nâng cao năng lực điều hành vĩ mô
nền kinh tế của nhà nước.
III-/ Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường:
Khi nước ta chuyển từ một nước tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị
trường vai trò của Nhà nước cần phát huy hơn bao giờ hết. Khi là nền kinh tế thị
trường thì vai trò của Nhà nước không thể thiếu được - nó là nơi sẽ trả lời những câu
hỏi ai sẽ là người can thiệp, điều khiển nền kinh tế, hạn chế những tật xấu của nền kinh
tế thị trường,
Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất và sự dao động lên xuống
thường xuyên của các nhân tố như tài nguyên, xã hội, chính trị, kinh tế làm biến động
nền kinh tế. Làm sao để không lâm vào chu kì lúc thặng dư quá, lúc kém quá mà nên
giảm biên độ chu kỳ để nền kinh tế là một đường dốc lên, tức là tăng trưởng. Muốn
như vậy cần phải vững chắc vai trò của Nhà nước, củng cố, phát huy, đưa ra những
định hướng, kế hoạch mục tiêu và môi trường thuận lợi để sản xuất cũng như các hãng
kinh doanh yên tâm để tạo ra sản phẩm cho phù hợp với thời đại.
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường thể hiện rõ ở những vai trò sau:
1-/ Định hướng chiến lược đúng đắn vai trò quan trọng mang tính chất tiên quyết
đối với sự phát triển kinh tế:
Quản lý nền kinh tế quốc dân có nghĩa là Nhà nước sử dụng các công cụ, các
chính sách của mình để can thiệp vào nền kinh tế cũng như điều tiết nó để phát triển và
ổn định theo xu thế của đất nước, của thời đại tăng trưởng hơn theo mỗi năm. Điều đó
phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, nếu nó phù hợp và đúng đắn
hiệu quả mang lại sẽ rất nhiều ví dụ như ở những năm 50 và 60 ở các nước ASEAN
đều thực hiện chiến lược “phát triển thay thế nhập khẩu” nhằm giảm bớt sự phụ thuộc
đối với hàng nhập khẩu từ bên ngoài. Các nước này đã tìm cách hạn chế tối đa hàng
thành phẩm công nghiệp nhập từ các nước công nghiệp phát triển tập trung phát triển
một số ngành công nghiệp trong nước thay thế hàng nhập khẩu, mở rộng thị trường nội
địa tận dụng tối đa vốn đầu tư trong nước.
Nhà nước chú ý đầu tư xây dựng thêm nhiều ngành và cơ sở công nghiệp, cơ sở
quốc doanh, nhưng lại có hiệu quả thấp. Trong điều kiện kinh tế “mở” hàng hoá trong
nước không đủ sức cạnh tranh với hàng nước ngoài. Do vậy các nước vẫn phải tiếp tục
nhập máy móc ngày càng nhiều hơn, vật liệu kỹ thuật từ bên ngoài và kinh tế càng lệ
thuộc vào các nước công nghiệp phát triển.
Chính sự quyết định này làm cho sự phát triển kinh tế không thể hoà nhập với
nền kinh tế thị trường, thị trường trong nước nhỏ hẹp, đầu tư giảm dẫn đến giá tăng,
lạm phát, nợ nước ngoài càng nhiều gây mất ổn định.
Trong nền kinh tế của chúng ta hiện nay các doanh nghiệp được quyền lựa chọn
phương án sản xuất kinh doanh Nhà nước không can thiệp vào họ sản xuất cái gì? sản
xuất như thế nào và sản xuất bằng cách nào, tiêu thụ ở đâu. Các doanh nghiệp khi sản
xuất họ đã dựa vào “lợi nhuận” để đề ra sự lựa chọn sao cho lợi nhuận tối đa. Và chính
vì điều này mà gây sự cạnh tranh các doanh nghiệp với nhau, dẫn đến môi trường phá
huỷ, kinh tế không phát triển.
Nhà nước can thiệp bằng cách đưa ra các luật, chia xẻ pháp luật định hướng ta
cần phát triển như thế nào và phát triển cái gì làm chủ đạo. Nhà nước không theo đuổi
mục tiêu lợi nhuận mà chỉ vươn tới một xã hội ổn định hơn.
Định hướng cho các doanh nghiệp là định hướng sự phát triển của nền kinh tế là
thống nhất các lợi ích khác nhau sao cho mỗi người theo đuổi lợi ích cá nhân của mình
nhưng cũng đồng thời góp phần của mình theo đuổi lợi ích dân tộc bằng việc hoạch
định các chính sách theo cơ cấu ngành, vùng, lãnh thổ, tài nguyên thiên nhiên để mang
tính định hướng cao hơn.
ở nước ta khi định hướng “theo hướng phát triển thay thế nhập khẩu” không có
hiệu quả. Thì năm 1969 các nước ASEAN đã đề ra một chiến lược hoàn toàn mới là
phát triển theo hướng xuất khẩu. Sự thay thế này là sự khôn ngoan của Chính phủ của
tất cả các nước ASEAN nhằm tận dụng tối đa nguồn vốn và công nghệ tiên tiến từ bên
ngoài vào việc khai thác tiềm năng của mỗi nước, tập trung vào phát triển các ngành
công nghiệp có thể xuất khẩu được để từng bước cạnh tranh và chiếm lĩnh trên thị
trường thế giới. Các ngành công nghiệp khai khoáng và ngành công nghiệp chế biến
hướng vào xuất khẩu do đó có điều kiện phát triển nhanh chóng quá trình phát triển
kinh tế đối ngoại. Chiến lược này vừa phù hợp với nhu cầu đầu tư và chuyển giao công
nghệ đến các nước đang phát triển của các nước phát triển.
Sau khi lựa chọn chiến lược phát triển đúng đắn Nhà nước đều đề ra các chương
trình phát triển kinh tế xã hội nhằm dẫn dắt, khuyến khích mọi thành phần kinh tế
hướng vào mục tiêu đề ra.
Sự dẫn dắt của Nhà nước với những chiến lược đúng đắn sẽ là bước vững chắc
để xã hội có thể bước được những bước cao hơn.
2-/ Nhà nước có chính sách thu hút vốn đầu tư từ các nguồn trong và ngoài nước
đặc biệt là vốn đầu tư từ nước ngoài:
Vốn đầu tư là phần quan trọng của một dự án để phát triển và “đứng vững” dự án
của mình. Tuy vậy, chúng ta luôn đứng trong trạng thái thiếu vốn lưu động. Không chỉ
cần đầu tư trong nước mà còn cần cả đầu tư của nước ngoài nữa.
Đầu tư luôn là vấn đề đau đầu không chỉ một người mà tất cả mọi người, sự thiếu
vốn sẽ làm cho sản xuất đình đốn, kinh tế kém phát triển. Nhà nước luôn phải giữ mức
lãi suất tiết kiệm là dương nghĩa là phải cao hơn lạm phát để khuyến khích gửi tiền tiết
kiệm cũng như sử dụng vốn vay có hiệu quả.
Các hình thức lưu động vốn khá phong phú và linh hoạt có thể bằng nhiều hình
thức cổ phiếu, trái phiếu, thị trường chứng khoán rất phát triển. Hoạt động của thị
trường chứng khoán sẽ góp phần quan trọng vào việc huy động vốn tạo điều kiện cho
vốn di chuyển dễ dàng đến những khu vực kinh doanh có hiệu quả và bổ sung hoạt
động của hệ thống ngân hàng.
Nguồn vốn bao gồm: viện trợ, vốn vay đầu tư và vốn trực tiếp từ nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài sẽ có lợi hơn bởi lẽ vốn góp phần chuyển giao công
nghệ giúp cho các nhà kinh doanh có những kinh nghiệm tốt trong quản lý của mình.
Khuyến khích đầu tư nước ngoài bằng các chính sách ưu đãi đảm bảo và tạo điều kiện
thuận lợi cho các tư bản nước ngoài đầu tư vào nhanh chóng phát huy vốn đầu tư, xác
định rõ quyền sở hữu kinh doanh của các tư bản nước ngoài.
Nhà nước bảo hiểm đối với đầu tư nước ngoài, không hạn chế vào những ngành
then chốt miễn là đầu tư nhiều vốn, dùng nhiều nhân công, có kỹ thuật hiện đại và quy
trình công nghệ mới, dùng nguyên liệu bản địa.