Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

hoạt động tín dụng của hệ thống nhtm việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.96 KB, 32 trang )

Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường tài chính Việt Nam trong những năm gần đây đang chứng kiến
bước phát triển nhanh chóng của các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng
không ngừng tăng vốn, tăng dư nợ tín dụng, mở rộng mạng lưới chi nhánh hoạt
động trong nỗ lực cải thiện tình hình hoạt động của bản thân để chuẩn bị cho
cuộc cạnh tranh mạnh mẽ khi Việt Nam hoàn toàn gia nhập Tổ chức thương mại
thế giới WTO. Là trung gian tài chính trong nền kinh tế, đối tượng của hoạt
động ngân hàng chính là vốn, và qui mô vốn của ngân hàng sẽ quyết định lợi
nhuận mà nó kiếm được. Việc tìm kiếm, huy động vốn luôn giữ vai trò hết sức
quan trọng vì nó liên quan tới việc duy trì & mở rộng thị phần, từ đó là sức cạnh
tranh và tiềm năng phát triển của ngân hàng.
Để có thể hiểu rõ hơn về hoạt động tín dụng trong các NHTM và vai trò to
lớn của nó trong nền kinh tế thị trường nhằm khai thác có hiệu quả hoạt động tín
dụng ngân hàng góp phần phát triển nền kinh tế việt nam, em xin chọn đề tài "hoạt
động tín dụng của hệ thống nhtm việt nam trong giai đoạn hiện nay". bài viết
bao gồm những nội dung sau:
- Chương I: Tổng quan về Ngân hàng thuơng mại, vốn và nghiệp vụ huy
động vốn của Ngân hàng thương mại.
- Chương II: Thực trạng hoạt động huy động vốn trong nhtm ở việt nam hiện
nay và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động huy động ngân
hàng.
Em hy vọng bài viết có thể làm rõ một số lý luận về NHTM, hoạt động huy
động vốn ngân hàng, và thực trạng của hoạt động huy động vốn trong các NHTM ở
Việt nam. bài viết chắc còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của
thầy cô và các bạn để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Tài chính doanh nghiệp 18A
1
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI, VỐN VÀ


NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM
I. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Khái niệm Ngân hàng thương mại (NHTM)
Ngân hàng Thương mại (NHTM) là tổ chức tài chính trung gian có vị trí
quan trọng nhất trong nền kinh tế, nó là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh
trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng. Theo pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của Hội
đồng Nhà nước xác định:" Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà
hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán".
2. Những nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
Ngân hàng Thương mại là một tổ chức tài chính trung gian, hoạt động kinh
doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng giống như
một doanh nghiệp thương mại, đều hướng đến mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi
nhuận. Ngân hàng Thương mại tìm kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay và cho vay lại.
So với các doanh nghiệp thương mại dịch vụ khác thì hàng hoá của Ngân hàng
Thương mại là một loại hàng hoá đặc biệt, đó là tiền vốn. Giá cả của loại hàng hoá
này biểu hiện ra bên ngoài là các mức lãi suất huy động hoặc lãi suất cho vay, nó
chịu tác động bởi quan hệ cung - cầu vốn trên thị trường và trên cơ sở khoản lợi
nhuận đạt được khi đưa vốn vay vào sản xuất kinh doanh. Vì vậy lợi nhuận chủ yếu
của hoạt động ngân hàng sẽ là khoản chênh lệch giữa chi phí trả lãi huy động với
thu nhập từ lãi cho vay. Để có hàng hoá kinh doanh, ngân hàng phải đưa ra một giá
mua hợp lý cũng như đa dạng các hình thức huy động.
2.1. Nghiệp vụ nhận tiền gửi:
Đây là một hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại. Ngân hàng nhận được
các khoản tiền gửi của khách hàng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền
gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng nhận tiền gửi
Tài chính doanh nghiệp 18A
2
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà

của cá nhân, của tổ chức và các doanh nghiệp. Ngân hàng phải hoàn trả gốc và lãi
cho khách hàng khi đến hạn hoặc khi khách hàng có nhu cầu sử dụng đến rút tiền ở
ngân hàng.
2.2. Nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng:
Nguồn vốn huy động sau khi đã thực hiện nghiệp vụ ngân quỹ (nghiệp vụ liên
quan đến việc điều hành ngân quỹ của ngân hàng nhằm duy trì năng lực thanh toán
bình thường), sẽ được sử dụng để cho vay. Nghiệp vụ cho vay là nghiệp vụ đặc
trưng nhất của Ngân hàng Thương mại. Nó tạo ra hình thức tín dụng ngân hàng và
ngân hàng sẽ tiến hành phân phối có trọng điểm nguồn vốn đã hình thành trong
nghiệp vụ huy động, điều tiết vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, bổ sung vốn cho sản
xuất kinh doanh. Đối với ngân hàng, đây là nghiệp vụ quan trọng nhất, sử dụng
phần lớn nguồn vốn và tạo ra thu nhập chủ yếu.
Dựa vào tính chất và hình thức cho vay nghiệp vụ tín dụng được phân thành:
2.2.1. Căn cứ vào mục đích:
- Cho vay bất động sản: là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng
bất động sản nhà ở, đất đai.
- Cho vay công nghiệp và thương mại: là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp.
- Thuê mua và các loại khác.
2.2.2. Căn cứ vào thời hạn cho vay.
- Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng, chủ yếu được
sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của các
doanh nghiệp.
- Cho vay trung hạn: Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
thì loại cho vay này có thời hạn từ 1 đến 3 năm.
- Cho vay dài hạn: Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 3 năm (Việt
nam).
Tài chính doanh nghiệp 18A
3

Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
Loại tín dụng này thường để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như: xây dựng nhà ở,
các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng.
- Cho vay không bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
sự bảo lãnh của bên thứ ba mà việc cho vay chỉ dựa vào sự uy tín của bản thân
khách hàng.
- Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay được ngân hàng cung ứng nhưng phải có
tài sản thế chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
2.2.4. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng.
- Cho vay bằng tiền: là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cung
cấp bằng tiền. Đây là loại cho vay chủ yếu của các ngân hàng và được thực hiện
bằng các kỹ thuật như tín dụng ứng trước, thấu chi, tín dụng thời vụ,
- Cho vay bằng tài sản: là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa dạng,
ví dụ như tài trợ thuê mua.
2.2.5. Căn cứ vào phương pháp hoàn trả.
- Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi
theo định kỳ.
- Cho vay hoàn trả theo yêu cầu.
2.2.6. Ngoài các loại cho vay trên, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh
cho khách hàng bằng uy tín của mình. Đối với loại nghiệp vụ này, ngân hàng không
phải cung cấp tiền, nhưng khi người được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ
theo hợp đồng thì ngân hàng phải thay thế để thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Vì thế,
nghiệp vụ này còn được gọi là tín dụng bằng chữ ký. Tín dụng bằng chữ ký bao
gồm: tín dụng chấp nhận, tín dụng chứng từ, bảo lãnh của ngân hàng.
2.3. Nghiệp vụ đầu tư :
Ngân hàng tham gia vào đầu tư, mua bán chứng khoán trên thị trường chứng
khoán nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận từ lợi tức chứng khoán và từ chêch lệch
thị giá chứng khoán mua bán trên thị trường.
Tài chính doanh nghiệp 18A

4
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện hùn vốn, liên doanh qua đó trực tiếp góp vốn
vào các doanh nghiệp để thành lập công ty, xí nghiệp mới.
2.4. Nghiệp vụ kinh doanh đối ngoại.
Các ngân hàng có thể tham gia mua bán ngoại tệ, huy động vốn ngoại tệ nhằm
đáp ứng nhu cầu của đầu tư cho vay cũng như kiếm lời. Việc kinh doanh ngoại tệ
còn góp phần thúc đẩy trong công tác thanh toán quốc tế, tài trợ cho xuất nhập
khẩu,
2.5. Các hoạt động dịch vụ khác của ngân hàng:
- Dịch vụ chuyển tiền: Ngân hàng theo sự uỷ nhiệm của khách hàng sẽ chuyển
tiền để đáp ứng nhu cầu chi dùng của họ. Có hai phương thức chuyển tiền là chuyển
tiền bằng điện và chuyển tiền bằng thư.
- Thu chi hộ tiền hàng: Theo những lệnh uỷ nhiệm thu hoặc uỷ nhiệm chi, ngân
hàng sẽ tiến hành trích tiền trên tài khoản tiền gửi của khách hàng chuyển trả tiền
hàng hoá, dịch vụ đã nhận hoặc thực hiện thu hộ tiền hàng khi nhận được chứng từ
khách hàng nhờ thu hộ
- Nghiệp vụ uỷ thác: Là nghiệp vụ mà ngân hàng thực hiện theo sự uỷ thác của
khách hàng trong việc quản lý tài sản, chuyển giao tài sản thừa kế, bảo quản chứng
khoán, vàng bạc, giấy tờ có giá để hưởng hoa hồng.
- Mua bán hộ: Theo sự uỷ nhiệm của khách hàng ngân hàng thực hiện nghiệp vụ
phát hành hộ trái phiếu hoặc chứng khoán cho các công ty, hoặc phát hành trái
khoán Chính phủ. Thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng có được một khoản thu nhập
dưới hình thức hoa hồng phát hành. Ngân hàng có thể tham gia mua bán chứng
khoán trên thị trường theo lệnh của khách hàng với tư cách là một trung gian môi
giới trên thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán.
Tài chính doanh nghiệp 18A
5
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
II. VỐN VÀ NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG VỐN TRONG NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI
1. Vốn của Ngân hàng thương mại.
1.1. Khái niệm về vốn.
Vốn của các ngân hàng thương mại phần lớn là các khoản tiền tệ tạm thời nhàn
rỗi trong sản xuất kinh doanh được gửi vào ngân hàng với những mục đích khác
nhau. Ngân hàng đóng vai trò tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để
chuyển đến các nhà đầu tư có nhu cầu về vốn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Vốn
và các hoạt động về huy động vốn quyết định trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển
hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Vốn đóng vai trò chi phối và
quyết định đối với việc thực hiện các chức năng của ngân hàng thương mại.
1.2. Cơ cấu vốn của ngân hàng thương mại.
1.2.1. Vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu là vốn tự có của ngân hàng, nó là vốn điều lệ khi ngân hàng mới
đi vào hoạt động và được bổ sung thường xuyên. Vốn điều lệ phải lớn hơn hoặc
bằng vốn pháp định do ngân hàng nhà nước trung ương quy định. Vốn điều lệ quy
định cho một ngân hàng sẽ tuỳ thuộc vào quy mô và hoạt động của nó. Tuỳ theo
loại hình ngân hàng mà vốn điều lệ được hình thành có thể khác nhau. Vốn điều lệ
của ngân hàng có nguồn gốc hình thành do ngân sách nhà nước cấp phát ban đầu
nếu là ngân hàng thương mại quốc doanh, còn nếu là ngân hàng thương mại cổ phần
thì sẽ do các cổ đông đóng góp.
Các quỹ dự trữ của ngân hàng: Được coi là nguồn vốn tự có và được bổ sung
hằng năm từ lợi nhuận ròng của ngân hàng. Theo khoản 1 điều 87 luật các tổ chức
tín dụng thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997 quy định về việc trích lập các quỹ từ
lợi nhuận, các ngân hàng thương mại phải tiến hành trích lập các quỹ:
- Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Được trích lập hằng năm theo tỷ lệ 5% trên
tổng lợi nhuận sau thuế hằng năm tới mức tối đa do Ngân hàng Nhà nước quy định.
- Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro : Để dự phòng và bù đắp thiệt hại có nguy cơ ăn
mòn vốn do những rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, các ngân hàng
Tài chính doanh nghiệp 18A
6

Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
được trích từ lợi nhuận ròng hằng năm theo tỷ lệ 10% cho tới khi bằng 100% vốn
điều lệ.
Hai quỹ này bắt buộc phải trích lập tại các tổ chức tín dụng, không được dùng
các quỹ này để trả lợi tức cổ phần hoặc chuyển ra nước ngoài.
Mặt khác, với tư cách là một đơn vị kinh doanh, ngân hàng còn tiến hành trích
lập các quỹ từ lợi nhuận thu được:
- Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng.
- Quỹ phúc lợi, khen thưởng.
Các quỹ này tỷ lệ trích lập theo quyết định của Đại hội cổ đông hoặc theo chỉ
đạo của Nhà nước.
Vốn riêng của ngân hàng được dùng để mua sắm tài sản cố định, các phương
tiện cần thiết cho hoạt động kinh doanh ngân hàng, nhưng không quá 50% vốn tự
có, để tài trợ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ ngân hàng và được sử dụng để hùn vốn
liên doanh, mua cổ phần
Vốn tự có và các quỹ so với tổng số vốn hoạt động của ngân hàng chỉ chiếm một
phần nhỏ.
1.2.2. Vốn huy động.
Các khoản tiền gửi loại này không thuộc sở hữu của ngân hàng nhưng ngân hàng
được quyền sử dụng đối với những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi này. Đây là khoản
vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn. Các hoạt động sử dụng vốn tồn
tại và phát triển được là nhờ nguồn vốn huy động này.
1.2.2.1. Vốn tiền gửi của khách hàng.
Đây là khoản vốn hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, chiếm tỷ trọng cao
nhất trong nguồn vốn. Tuy nhiên, một bộ phận đáng kể trong vốn tiền gửi này luôn
luôn biến động, do vậy khi sử dụng ngân hàng luôn phải dự trữ để đảm bảo khả
năng thanh toán, chi trả. Dựa vào yếu tố thời gian và tính chất của những khoản
tiền gửi, tiền gửi của khách hàng có hai loại: Tiền gửi kỳ hạn và tiền gửi không kỳ
hạn.
- Tiền gửi không kỳ hạn: Là loại tiền gửi có thể rút ra theo yêu cầu của người gửi

tiền mà không tôn trọng một kỳ hạn ký thác nào. Đây là khoản tiền gửi thường
Tài chính doanh nghiệp 18A
7
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
xuyên biến động ngân hàng không thể định ra kế hoạch sử dụng trước được mà chỉ
dựa vào kinh nghiệm quản lý, ngân hàng có thể tận dụng ở một mức độ cho phép.
Mục đích của người gửi tiền là sử dụng những dịch vụ trung gian thanh toán của
ngân hàng thương mại như giữ hộ, thu chi hộ, Ngân hàng không phải trả lãi hoặc
có trả lãi nhưng với một mức lãi suất rất thấp chỉ mang tính chất tượng trưng. Kinh
nghiệm trong quản lý ngân hàng cho thấy mặc dù tài khoản tiền gửi không kỳ hạn
của từng khách hàng có biến động do khách hàng thường xuyên có những khoản
thu và những khoản chi, nhưng trên tài khoản tổng hợp luôn có số “dư có” bình
quân tương đối ổn định. Vì vậy ngân hàng có thể động viên những khoản vốn tạm
thời nhàn rỗi trên các tài khoản không kỳ hạn làm nguồn vốn kinh doanh.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi mà người gửi tiền chỉ
được rút ra khi đến thời hạn quy định. Đây là bộ phận tiền huy động mang tính chất
ổn định và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tiền huy động từ khách hàng. Ngân hàng
sử dụng chủ yếu để cho vay có kỳ hạn. Chính điểm thuận lợi này mà ngân hàng
phải trả lãi cao vì mục đích của người gửi tiền là lợi nhuận.
1.2.2.2. Vốn vay.
Ngoài việc huy động tiền gửi theo các hình thức truyền thống, ngân hàng thương
mại có thể bổ sung vốn hoạt động của mình bằng cách đi vay từ các tổ chức và các
tầng lớp dân cư thông qua phát hành trái phiếu hoặc kỳ phiếu ngân hàng, nhưng
phải được Ngân hàng Nhà nước chấp nhận, Kỳ phiếu ngân hàng được phát hành
rộng rãi. Những người mua kỳ phiếu ngân hàng sẽ trực tiếp cho ngân hàng vay với
lãi suất cố định thông báo trước. Các tờ giấy nhận nợ này sẽ được ngân hàng thanh
toán khi tới hạn ghi trên mặt kỳ phiếu. Ngoài ra ngân hàng thương mại còn có thể
vay ở Ngân hàng Nhà nước dưới hình thức tái chiết khấu hoặc tái cầm cố các
thương phiếu chứng từ có giá. Vay của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín
dụng khác thông qua thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Ngân hàng thương mại cũng

có thể vay ở ngân hàng nước ngoài hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Vậy các
ngân hàng thương mại đi vay khi nào?
- Ngân hàng vay để đáp ứng nhu cầu khả năng thanh khoản của ngân hàng.
Vì hoạt động chủ yếu và thường xuyên của ngân hàng là nhận tiền gửi và với
trách nhiệm hoàn trả cho khách hàng khi khách hàng có nhu cầu rút tiền để sử dụng.
Do vậy có những trường hợp số tiền dự trữ và số tiền mà ngân hàng nhận được
Tài chính doanh nghiệp 18A
8
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
trước đó trong ngày ít hơn số tiền mà khách hàng rút ra thì ngân hàng sẽ gặp khó
khăn trong việc thanh toán tiền cho khách hàng, nghĩa là ngân hàng thiếu tiền trả
cho khách hàng.Vậy ngân hàng phải đi vay.
- Ngân hàng vay hộ cho khách hàng: Vì hoạt động cơ bản của ngân hàng là tài trợ
cho nền kinh tế nên khi có khách hàng có nhu cầu vay vốn ngân hàng và đảm bảo
các yêu cầu mà ngân hàng đề ra thì ngân hàng sẽ cho vay. Chẳng hạn: với những
khoản vay với số lượng lớn, thời gian dài mà ngân hàng lại không muốn dùng toàn
bộ số tiền mình có để đầu tư cho dự án này ( rủi ro cao) vì như thế sẽ mất đi toàn bộ
những cơ hội đầu tư khác. Vì vậy ngân hàng sẽ thay mặt khách hàng phát hành trái
phiếu nhằm thu gom tiền trong nền kinh tế để phục vụ cho dự án. Người ta chỉ phát
hành trái phiếu vừa đủ số tiền mà dự án cần dùng và trong một thời hạn bằng thời
gian tồn tại của dự án.
- Ngân hàng vay để cho vay: Hầu như toàn bộ số tiền trong lưu thông đã trở thành
tiền gửi tại các ngân hàng, nghĩa là các ngân hàng chia nhau nắm giữ lượng tiền
trong lưu thông. Để tăng lượng tiền gửi của mình, các ngân hàng thường tăng lãi
suất để thu hút các khoản tiền gửi ở các ngân hàng khác chảy về. Nhưng thực tế khi
một ngân hàng tăng lãi suất tiền gửi, để tránh sự chảy vốn các ngân hàng khác cũng
sẽ đồng loạt tăng lãi suất lên làm chi phí ngân hàng tăng lên mà lượng tiền gửi lại
thay đổi không đáng kể. Do vậy khi thiếu vốn để tài trợ cho các dự án mà ngân
hàng cho là có hiệu quả thì ngân hàng sẽ thực hiện chính sách đi vay. Do tính chất
hoạt động không đồng đều giữa các ngân hàng về huy động vốn và sử dụng vốn nên

những ngân hàng thiếu vốn có thể vay vốn ở những ngân hàng thừa vốn chưa sử
dụng hết. Mặt khác khi ngân hàng dự đoán được sự gia tăng về nhu cầu tín dụng
trong tương lai mà nguồn vốn thì có xu hướng tăng không đáp ứng đủ nhu cầu vốn
sử dụng trong thời kỳ tới thì ngân hàng cũng sẽ đi vay.
- Ngân hàng vay để giảm chi phí nguồn tiền cho giai đoạn sau: Vào cuối kỳ hạch
toán, nếu các chủ ngân hàng dự tính được thu nhập của kỳ đó lớn nghĩa là kỳ đó họ
phải chịu thuế nhiều. Nếu họ cũng dự tính được kỳ sau họ sẽ có những khoản chi
phí lớn thì họ có thể phát hành kỳ phiếu ngắn hạn trả lãi trước nhằm tăng chi phí
cho kỳ này và giảm chi phí cho kỳ sau.
1.2.2.3. Vốn tiếp nhận.
Tài chính doanh nghiệp 18A
9
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
Ngày nay, hệ thống ngân hàng thương mại được tổ chức theo mô hình của tổng
công ty và các công ty con gồm ngân hàng mẹ và hệ thống các chi nhánh ngân hàng
trực thuộc. Có một phương thức huy động vốn được sử dụng rất hiệu quả hiện nay
là chu chuyển nguồn vốn điều hoà. Do tình hình kinh tế xã hội của các vùng hoạt
động của ngân hàng chi nhánh là khác nhau. Những chi nhánh ngân hàng mà hoạt
động sử dụng vốn vượt quá khả năng huy động vốn thì đầu kỳ lập kế hoạch lên
ngân hàng mẹ và xin được nhận một lượng vốn điều hoà cần thiết cho hoạt động sử
dụng vốn của mình. Những ngân hàng mà khả năng huy động vốn vượt quá khả
năng sử dụng vốn thì đầu kỳ cũng lập kế hoạch sẽ điều chuyển một lượng vốn về
ngân hàng mẹ để được hưởng một lãi suất điều hoà. Như vậy ngân hàng mẹ chịu
trách nhiệm điều chuyển vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu của các chi nhánh ngân
hàng trong nền kinh tế. Chi phí nhận nguồn vốn điều hoà thấp hơn chi phí nguồn
vốn huy động nhưng tại sao các ngân hàng đều nhận nguồn vốn điều hoà sau khi đã
lập kế hoạch về lượng vốn huy động được trong kỳ sau, bởi vì tính độc lập của nó
với ngân hàng mẹ. Đây là một phương thức huy động vốn rất hiệu quả được áp
dụng nhiều trên thế giới hiện nay.
1.2.2.4. Vốn uỷ thác đầu tư.

Một số ngân hàng con thực hiện nghiệp vụ ngân hàng đại lý. Khi đó trong cơ cấu
vốn của ngân hàng con còn có thêm khoản mục vốn uỷ thác đầu tư. Khoản vốn này
hình thành chủ yếu hình thành là do các tổ chức tài chính nước ngoài, trong nước uỷ
thác cho ngân hàng một khoản tiền để ngân hàng thực hiện cho vay các dự án của
mình. Có thể là các khoản vay của Chính Phủ được uỷ thác.
Trên đây là cơ cấu vốn chính của các ngân hàng thương mại. Vốn huy động là
nguồn vốn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của hoạt động sử dụng vốn. Tuy nhiên, các ngân hàng
thương mại phải tuân thủ theo luật định về mức vốn huy động tối đa không vượt
quá hai mươi lần vốn thuộc sở hữu của ngân hàng và phải chấp hành tốt các quy
định về tỷ lệ dự trữ
2. Vai trò của vốn đối với Ngân hàng thương mại.
Như mọi đơn vị kinh doanh khác, muốn hoạt động kinh doanh được tiến hành
cần phải có tư liệu sản xuất. Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền
tệ nên phải có tiền mới có thể hoạt động kinh doanh được. Hoạt động tìm kiếm tư
Tài chính doanh nghiệp 18A
10
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
liệu sản xuất của ngân hàng thương mại là hoạt động huy động vốn. Như vậy, huy
động vốn đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng thương
mại.
Thứ nhất: vốn là cơ sở để ngân hàng tiến hành hoạt động kinh doanh. Đối với bất
kỳ doanh nghiệp nào, muốn hoạt động kinh doanh được thì phải có vốn, vì vốn
phản ánh năng lực kinh doanh. Điều này thể hiện ở vốn tự có, vốn huy động, vốn đi
vay của ngân hàng. Nếu vốn tự có giữ vai trò quan trọng trong việc thành lập thì sau
khi đi vào hoạt động, vốn huy động quyết định tới quy mô đầu tư, cho vay nên sẽ
ảnh hưởng tới thu nhập của ngân hàng.
Vậy, nếu ngân hàng không có vốn thì không thể tiến hành hoạt động kinh doanh.
Bởi vì, với đặc trưng của hoạt động ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện kinh
doanh mà còn là đối tượng kinh doanh chủ yếu. Trên thực tế, ngân hàng nào có

khối lượng vốn lớn hơn thì ngân hàng đó có thế mạnh cạnh tranh trong kinh doanh.
Thứ hai: Vốn ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô các hoạt động của ngân hàng
thương mại.
Vốn của ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng,
hoạt động bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ hay trong hoạt động thanh toán của các
ngân hàng thương mại. Thông thường so với các ngân hàng nhỏ, các ngân hàng lớn
có những khoản mục về đầu tư cho vay đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng cho
vay của các ngân hàng này cũng lớn hơn. Trong khi các ngân hàng lớn hoạt động
trên phạm vi toàn thế giới thì các ngân hàng nhỏ lại giới hạn phạm vi hoạt động
chủ yếu trong một khu vực nhỏ, trong nước. Nếu khả năng về vốn của ngân hàng
đó dồi dào thì ngân hàng có thể mở rộng được các hoạt động của mình và đáp ứng
được nhu cầu về vốn của khách hàng về cho vay, bảo lãnh, đầu tư
Ví dụ như :
- Đầu tư cổ phần hoặc liên doanh không quá 50% vốn tự có.
- Cho vay đối tượng ưu đãi không quá 5% vốn tự có.
- Cho vay tối đa một khách hàng không quá 15% vốn tự có.
- Kinh doanh ngoại hối không quá 30 lần vốn tự có.
Tài chính doanh nghiệp 18A
11
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
Bên cạnh vốn lớn hay nhỏ thì chúng ta không thể coi nhẹ vai trò của tính ổn
định của vốn. Một ngân hàng có lượng vốn ổn định thì sẽ dễ dàng trong việc hoạch
định việc cung ứng đầu tư cho vay. Ngân hàng đó có thể dự kiến tương đối chính
xác lượng vốn cung ứng, cho nên sẽ dự kiến được lợi nhuận trong tương lai khá
chính xác.
Thứ ba: Vốn giúp ngân hàng chủ động trong kinh doanh.
Ngân hàng không thể hoạt động kinh doanh tốt nếu các hoạt động nghiệp vụ
hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đi vay: vay để cho vay, vay để đầu tư, vay để thanh
toán Bởi vì khi đi vay vốn để thực hiện các hoạt động của mình, ngân hàng sẽ
phụ thuộc hoàn toàn vào đối tượng cho vay về thời hạn vay, số lượng vay và chi

phí vay cao. Do đó có thể ngân hàng sẽ bỏ lỡ cơ hội trong kinh doanh. Ngược lại,
ngân hàng có lượng vốn huy động dồi dào sẽ hoàn toàn chủ động trong hoạt động
kinh doanh của mình, không phụ thuộc vào ai, không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.
Nguồn vốn huy động lớn cũng làm tăng khả năng hoạt động của ngân hàng như
chủ động đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh nhằm phân tán rủi ro và tăng thu
nhập, đạt mục tiêu cuối cùng của ngân hàng là an toàn và sinh lợi.
Thứ tư : Vốn giúp ngân hàng quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín
của mình trên thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt
động đòi hỏi các ngân hàng phải coi uy tín của mình trên thị thường là điều quan
trọng. Uy tín đó trước hết được thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán cho khách
hàng. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng càng lớn. Mặt
khác, uy tín của ngân hàng còn thể hiện ở khả năng cho vay và đầu tư của ngân
hàng (ngân hàng chỉ có thể cho vay những dự án lớn, thời hạn dài nếu như ngân
hàng có nguồn vốn lớn). Điều này phụ thuộc vào hoạt động huy động vốn của ngân
hàng. Với tiềm năng vốn và khả năng huy động vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt
động kinh doanh với quy mô ngày càng tăng, tiến hành cạnh tranh có hiệu quả; vừa
giữ chữ tín vừa nâng cao thanh thế của ngân hàng trên thị trường.
Bên cạnh đó, một trong những tác dụng lớn nhất của vốn tự có là tạo sự uy tín
trong công chúng. Một ngân hàng có trụ sở là tài sản riêng càng đồ sộ chừng nào
thì càng dễ gây tín nhiệm của dân chúng chừng ấy. Vốn tự có của ngân hàng càng
Tài chính doanh nghiệp 18A
12
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
lớn thì sức chịu đựng của ngân hàng càng mạnh khi mà tình hình kinh tế - xã hội
và tình hình hoạt động của ngân hàng trải qua giai đoạn khó khăn.
Thứ năm: Vốn quyết định năng lực cạnh tranh của ngân hàng.
Quy mô, trình độ cán bộ, công nhân viên, phương tiện kỹ thuật hiện đại của ngân
hàng là tiền đề thu hút vốn. Khả năng vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với ngân
hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng đối với các thành phần kinh tế cả về quy

mô tín dụng, lẫn việc chủ động về thời hạn cho vay và thậm chí trong khi quyết
định lãi suất phù hợp với khách hàng. Điều này sẽ thu hút ngày càng nhiều khách
hàng đến với mình, nghĩa là doanh số hoạt động của ngân hàng sẽ tăng lên trong
tương lai và ngân hàng có nhiều thuận lợi hơn trong kinh doanh. Hơn nữa, vốn của
ngân hàng lớn sẽ giúp cho ngân hàng có đủ năng lực tài chính kinh doanh đa năng
trên thị trường không chỉ cho vay mà còn đầu tư trên thị trường tiền tệ, liên doanh,
liên kết, thực hiện dịch vụ thuê mua Và chính sự đa dạng hoá hoạt động sẽ góp
phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo lợi nhuận cho ngân hàng,
đặc biệt là tăng sức mạnh cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường.
Để ngân hàng tồn tại và phát triển, ngoài vốn chủ sở hữu (thường chiếm tỷ trọng
rất nhỏ trong tổng nguồn vốn) các ngân hàng phải chú trọng tới việc tăng trưởng
nguồn vốn nghĩa là phải làm tốt công tác huy động vốn.
3. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội để hoạt động là lẽ sống quan
trọng nhất của các Ngân hàng thương mại. Đặc biệt là các ngân hàng có quy mô
lớn. Trong vòng ba thập niên từ sau cuộc đại suy thoái 1930, hầu hết các Ngân hàng
thương mại trên thế giới đều quan tâm nhiều nhất tới việc quản lý tài sản có, hay nói
khác đi là kế hoạch và phương hướng đầu tư các nguồn đã có. Tuy nhiên, từ thập
niên 60 đến nay, khi chế độ lãi suất trả cho tiền gửi được thả nổi linh hoạt, tài sản
nợ trở nên đa dạng và sự cạnh tranh khốc liệt giữa các Ngân hàng thương mại với
nhau trong việc tìm kiếm vốn hoạt động đã dần dần hướng các ngân hàng chú ý đến
sự giao động của tài sản nợ. Vả lại từ thập niên 60 trở đi thì với sự phát triển nhanh
của các thị trường tài chính liên quốc gia, đã có rất nhiều loại tài sản có lợi tức ổn
định và thanh khoản cao được mở ra trước mắt các ngân hàng ở các nước phát triển.
Cho nên, vấn đề khó khăn không còn là đầu tư vào đâu mà là làm thế nào có đủ
Tài chính doanh nghiệp 18A
13
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
vốn cho đầu tư giữa môi trường cạnh tranh đầy kịch tính trong hệ thống ngân hàng
thế giới.

3.1. Các hình thức huy động tiền gửi của Ngân hàng Thương mại.
Đây là hình thức huy động vốn mà ngân hàng huy động được từ tổ chức kinh tế, cá
nhân, trong xã hội thông qua hoạt động nhận tiền gửi tiết kiệm, thanh toán hộ, các
khoản cho vay tạo tiền gửi và các nghiệp vụ kinh doanh khác.
Các hình thức nhận tiền gửi của các Ngân hàng Thương mại tuỳ thuộc vào các
tiêu thức khác nhau mà được chia thành từng loại khác nhau:
Tài chính doanh nghiệp 18A
14
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
3.1.1. Phân loại theo tiêu thức kỳ hạn.
Ngày nay, người ta thường phân chia các khoản tiền gửi theo tiêu thức này để có
thể quản lý tốt lượng tiền gửi, tiền lãi, và là cơ sở để ngân hàng xây dựng chiến lược
dự trữ phù hợp.
- Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là khoản tiền gửi không có kỳ hạn xác định, người
gửi có thể rút ra bất kỳ lúc nào do đó lãi suất thường thấp. Tiền gửi không kỳ hạn là
một trong những nguồn vốn biến động nhiều nhất và ngân hàng khó có thể dự báo
về quy mô tiền gửi không kỳ hạn (giao dịch) có thể huy động. Hình thức này chủ
yếu là mở cho các doanh nghiệp. Bởi vì các doanh nghiệp gửi tiền vào ngân hàng
mục đích chính không phải để nhận lãi mà là để hưởng các dịch vụ mà ngân hàng
cung cấp; đó là các dịch vụ thanh toán, ngân quỹ, thu chi hộ,
Tuy nhiên, tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn có thể đáp ứng nhu cầu của những
khách hàng chưa có dự định rõ ràng trong tương lai, hoặc không thực sự an tâm về
việc gửi tiền mà chỉ mong muốn nhận được một số tiền lãi nào đó với lượng tiền
hiện còn nhành rỗi.
Do tính chất không ổn định của nó nên ngân hàng chỉ được sử dụng một tỷ lệ
phần trăm nhất định nào đó của lượng tiền gửi không kỳ hạn nhận được, và ngân
hàng muốn sử dụng thì phải dự tính về sự ổn định tương đối của lượng tiền này. Do
vậy, quản lý tiền gửi không kỳ hạn là một phần quan trọng của quản lý dự trữ trong
các ngân hàng.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận giữa người gửi tiền và

ngân hàng về số lượng, kỳ hạn, lãi suất của khoản tiền gửi. Do có sự xác định rõ
ràng về kỳ hạn, nên nguồn tiền gửi có kỳ hạn là nguồn tiền có sự ổn định cao, ngân
hàng có thể sử dụng để cho vay với thời hạn tương ứng hoặc có thể chuyển đổi một
phần tiền gửi ngắn hạn để cho vay trung dài hạn. Chính vì lý do này mà lãi suất của
các khoản tiền gửi kỳ hạn thường cao hơn nhiều lãi suất tiền gửi không kỳ hạn. Bởi
vì mục đích chính của việc gửi tiền vào ngân hàng là tiền lãi. Thông thường thì lãi
suất tỷ lệ thuận với kỳ hạn, tức là khoản tiền gửi càng lâu thì lãi suất càng cao và
ngược lại.
3.1.2. Phân loại theo tiêu thức nguồn hình thành.
Tài chính doanh nghiệp 18A
15
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
- Các khoản ký gửi của các cá nhân và tổ chức là các khoản tiền mà họ trực tiếp
chuyển vào ngân hàng: Cá nhân gửi tiền tiết kiệm, doanh nghiệp nộp tiền bán
hàng, Đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế được ngân hàng
tập trung lại. Các cá nhân và tổ chức thường gửi tiền với mục đích và kỳ hạn khác
nhau. Cá nhân gửi tiền thường với mục đích là để hưởng lãi còn mục đích của các
doanh nghiệp thường là để sử dụng các dịch vụ của ngân hàng.
- Tín dụng tạo tiền gửi: Đây cũng là một hình thức nhận tiền gửi, khi ngân hàng
cho khách hàng vay tiền thì ngân hàng chuyển số tiền này vào tài khoản tiền gửi của
khách hàng ngay trong ngân hàng. Khi khách hàng chưa có nhu cầu rút tiền ngay
lập tức thì ngân hàng có thể sử dụng số tiền đó mặc dù với thời hạn rất ngắn.
3.1.3. Phân loại theo tiêu thức mục đích sử dụng.
- Tiền gửi tiết kiệm: Phần lớn là các khoản ký gửi của các cá nhân với mục đích là
tìm kiếm một khoản thu nhập. Thường thì mỗi khoản tiền gửi tiết kiệm có khối
lượng nhỏ, thời hạn ngắn. Những người gửi tiền tiết kiệm là những đối tượng giảm
chi tiêu trong hiện tại với hy vọng là sẽ tăng được chi tiêu trong tương lai.
- Tiền gửi tiết kiệm có mục đích: Loại hình này khá phổ biến ở các nước phát
triển, thường được sử dụng với những hộ có thu nhập thấp và trung bình. Người gửi
để dành một khoản tiền gửi vào ngân hàng (thường là các khoản tiết kiệm đều đặn

hàng năm) với ý định tích luỹ tiền cho một mục đích nhất định. Đây là hình thức
huy động vốn trung và dài hạn khá hiệu quả, có tính ổn định, đồng thời có tác dụng
tích cực trong việc hỗ trợ cho người dân mua sắm nhà cửa, phương tiện.
- Tiền gửi thanh toán: Là khoản ký gửi của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh. Họ gửi tiền mục đích không phải là để hưởng thu nhập mà là
hưởng các dịch vụ của ngân hàng. Thông thường các khoản tiền gửi thanh toán có
khối lượng lớn. Do đó, khi các khoản tiền này tạm thời chưa sử dụng thì ngân hàng
có thể sử dụng vào kinh doanh.
3.1.4. Phân loại theo tiêu thức loại tiền gửi.
- Tiền gửi nội tệ: Đây là khoản tiền gửi quan trọng của các ngân hàng, nó phụ
thuộc vào thu nhập trong nước và chiếm tỷ trong rất lớn trong tổng lượng tiền gửi.
- Tiền gửi ngoại tệ: Bên cạnh tiền gửi nội tệ thì ngân hàng còn nhận tiền gửi dưới
dạng ngoại tệ như USD, GBP, DEM, những khoản ngoại tệ này cũng rất quan
Tài chính doanh nghiệp 18A
16
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
trọng cho hoạt động ngân hàng như kinh doanh ngoại tệ trong nước, tài trợ xuất
nhập khẩu, thanh toán quốc tế,
3.2. Chứng thư tiền gửi loại lớn.
Chứng thư tiền gửi loại lớn là một loại hình phiếu nợ do ngân hàng phát ra để
vay tiền của thị trường. Có hai cách phát hành loại chứng thư này:
Một là khi có các đối tượng đến vay tiền để sản xuất hoặc tiêu dùng theo hợp
đồng với ngân hàng, ngân hàng phát lại chứng thư này cho họ. Hoặc ngân hàng có
thể công bố phát hành chứng thư này cho các đối tượng muốn đầu tư hoặc muốn gửi
tiền vào ngân hàng. Thay vì một cuốn sổ tiền gửi có kỳ hạn, họ có thể nhận loại
chứng thư này. Nhưng chứng thư loại này không có những đơn vị quá nhỏ bằng tiền
mặt.
- Khi ngân hàng thương mại phát ra chứng thư này, nó hướng tới việc vay tiền của
thị trường, của nhân dân và chứng thư là giấy xác nhận khoản vay này. Đồng thời
trên chứng thư có ghi rõ thời hạn sẽ trả lại tiền mặt (6 tháng, 1 năm, ) và lãi suất

người cho vay được hưởng. Đến ngày đáo hạn cuối cùng, người sở hữu chứng thư
đem nộp nó cho ngân hàng đã phát hành để nhận lại cả vốn theo giá trị bề mặt và
tiền lời.
- Loại chứng thư này ở các nước công nghiệp thường có thời gian đáo hạn không
qúa 6 tháng kể từ ngày phát hành. Với thời gian ngắn và tính chất được sử dụng,
chấp nhận không khác gì Séc hay tiền mặt, trong khi nó có lãi suất mà Séc và tiền
mặt không có lãi suất, chứng thư này trở thành loại đầu tư ngắn hạn hấp dẫn nhất
đối với các nhà kinh doanh và hộ gia đình.
Tuy nhiên, khả năng vay vốn từ thị trường thông qua việc phát hành chứng thư
tiền gửi hay tín phiếu tuỳ thuộc vào 4 yếu tố: Mức độ chấp nhận của nhân dân đối
với nó như một phương tiện thanh toán trong lưu thông- Sự khuyến khích hay
không của Ngân hàng Trung ương- Hiệu quả của việc sử dụng đồng vốn đã vay
được- Sự phát triển của thị trường tài chính, tiền tệ.
3.3. Vay ngắn hạn tại Ngân hàng Trung ương.
Trong quá trình hoạt động của mình, do có những ngày cho vay quá nhiều, sự
thiếu hụt dự trữ tại Ngân hàng Trung ương là điều thường xảy ra đối với các ngân
hàng thương mại. Trong khi có một số ngân hàng thương mại thiếu dự trữ, thì nó
Tài chính doanh nghiệp 18A
17
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
cũng có một vài bộ phận khác thừa dự trữ. Để đảm bảo dự trữ theo quy định của
Ngân hàng Trung ương, các ngân hàng thương mại điện thoại hoặc liên lạc bằng
Computer vay lẫn nhau dự trữ trong một ngày là chuyện bình thường. Thủ tục vay
được tiến hành qua Fax hoặc điện tín.
Việc vay qua vay lại như thế diễn ra hàng ngày trong hệ thống ngân hàng thương
mại. Nó hình thành nên một loại tài sản nợ khá thường xuyên. Tuy nhiên, khoản nợ
này thường rất ngắn không quá một tuần, và thường là chỉ một hay hai ngày vì mọi
ngân hàng đều tự ý thức không thể lạm dụng kéo dài thời gian gây khó khăn cho
ngân hàng có thiện chí giúp mình.
3.4. Vay ngắn hạn thông qua hợp đồng mua lại.

Hợp đồng mua lại là hình thức vay ngắn hạn trên thị trường của ngân hàng
thương mại. Trong hoạt động mỗi ngày, việc thiếu tiền mặt bất ngờ cho những
thượng vụ đầu tư đã được ký kết hoặc hụt dự trữ tại Ngân hàng Trung ương là
chuyện không có gì lạ đối với các ngân hàng thương mại. Ngoài những biện pháp
nêu trên, trong những trường hợp cấp thiết, ngân hàng thương mại có thể vay của
thị trường trong vài ngày đến vài tuần bằng cách phát hành hợp đồng mua lại.
Đây là một hợp đồng bán chứng khoán giữa ngân hàng và đối tượng kinh doanh
chứng khoán tương đối thừa tiền mặt trong thị trường như các công ty tài chính, tổ
chức tín dụng, các quỹ tiết kiệm, hưu trí, các công ty kinh doanh và môi giới chứng
khoán.
3.5. Vay ngắn hạn bằng giấy nợ phụ.
Đây là khoản mục cuối cùng trong các khoản vay từ thị trường và cũng là loại tài
sản ít thông dụng nhất. Ngân hàng có thể vay nóng, với lãi suất khá cao và thời gian
từ ngắn đến rất ngắn, mỗi khi quá kẹt tiền mặt bằng những thoả thuận với các thân
chủ giàu có vẫn quan hệ thường xuyên với ngân hàng như các công ty, các tập đoàn
kinh doanh, các đại lý tài chính khác, Hình thức vay này được thực hiện thông qua
một hợp đồng trong đó thuyết minh rõ người cho vay chấp nhận rõ khoản tiền mà
họ cho vay sẽ là loại tài sản nợ được đền bù sau chót trong trường hợp ngân hàng
vỡ nợ. Vì sao có thoả thuận này! vì họ đã được lãi suất cao hơn bất kỳ một khoản
vay nào khác.
Tài chính doanh nghiệp 18A
18
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
3.6. Vay của Ngân hàng Trung ương.
Các ngân hàng thương mại hầu như đều được sự cho phép thành lập của Ngân
hàng Trung ương, cho nên nó đều được quyền vay tiền tại Ngân hàng Trung ương
trong những tình huống thiếu hụt dự trữ.
Trường hợp không may diễn ra khi ngân hàng thương mại đến vay giữa lúc
Ngân hàng Trung ương không muốn khuyến khích sự bàng trướng tín dụng, hoặc
thậm chí nó đang thắt chặt cung ứng tiền để chống lạm phát. Lúc đó lãi suất chiết

khấu được đưa lên cao với những khoản lỗ trông thấy khi vay vốn của Ngân hàng
Trung ương. Do đó, các ngân hàng thương mại chỉ miễn cưỡng vay trong những
tình huống thật ngặt nghèo và tìm mọi cách trả nợ rất nhanh.
Dù vay ít hay nhiều, vay thường xuyên hay chỉ thỉnh thoảng một năm đôi ba lần,
dịch vụ vay từ cửa ngõ chiết khấu của Ngân hàng Trung ương vẫn là một khoản
mục cố định trong tài sản nợ vì không có ngân hàng thương mại nào mà chưa hề
vay của Ngân hàng Trung ương bao giờ từ khi thành lập.
3.7. Các khoản vay từ công ty mẹ.
Một hình thức vay vốn khác ngoài các hình thức trên là vốn vay từ công ty mẹ
(parents company). Tại các nước đã phát triển, một công ty hoặc một tập đoàn kinh
doanh có thể là chủ của một đến rất nhiều ngân hàng thương mại. Thay vì ngân
hàng phát hành trái phiếu hoặc giấy nợ để vay tiền của thị trường bằng các hình
thức kể trên, có thể chịu nhiều sự quản lý và ràng buộc của Ngân hàng Trung ương
về dự trữ, lãi suất và kể cả thủ tục, các công ty mẹ của ngân hàng có thể thay thế nó
làm chuyện đó dưới hình thức phát hành trái phiếu, cổ phiếu công ty hoặc các loại
thương phiếu, rồi chuyển vốn đã huy động được về cho ngân hàng hoạt động.
Trên đây là các hình thức huy động vốn thường thấy của ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên đối với mỗi ngân hàng khác nhau, ở các nước khác nhau và trong các
giai đoạn khác nhau thì có thể có các phương thức huy động khác.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của NHTM
4.1. Các nhân tố khỏch quan
4.1.1. Chu kỳ phát triển kinh tế.
Tài chính doanh nghiệp 18A
19
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
Tình trạng phát triển của nền kinh tế là một yếu tố vĩ mô có tác động trực tiếp
đến mọi hoạt động của các ngân hàng thương mại nên cũng ảnh hưởng đến hoạt
động huy động vốn. Trong điều kiện nền kinh tế phát triển ổn định, thu nhập dân cư
được đảm bảo và ổn định thì nguồn tiền vào ra của các ngân hàng cũng ổn định, số
vốn huy động được của ngân hàng ngày càng tăng lên và cơ hội đầu tư cho vay của

ngân hàng cũng được mở rộng do lòng tin của các nhà đầu tư vào nền kinh tế. Nếu
nền kinh tế suy thoái, thu nhập dân cư biến động thì lòng tin về đồng tiền của dân
chúng bị giảm sút. Khi đó khả năng huy động vốn của ngân hàng không những bị
giảm xuống mà lượng tiền dân cư đã ký gửi vào ngân hàng cũng có nguy cơ bị rút
ra. Và như vậy ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong công tác huy động vốn, quản lý dự
trữ và củng cố niềm tin cho khách hàng.
4.1.2. Môi trường luật pháp.
Mọi hoạt động kinh doanh, trong đó hoạt động của ngân hàng đều phải chịu sự
điều chỉnh của luật pháp. Các hoạt động của ngân hàng thương mại chịu sự điều
chỉnh của luật các tổ chức tín dụng và hệ thống các văn bản pháp luật khác của Nhà
nước. Mặt khác, ở Việt nam hiện nay các ngân hàng thương mại được tổ chức theo
mô hình tổng công ty, do vậy các chi nhánh ngân hàng trong hoạt động của mình
ngoài việc phải tuân thủ theo pháp luật và các văn bản dưới luật của nhà nước ban
hành còn phải tuân thủ theo các quy định mà ngân hàng mẹ ban hành trong từng thời
kỳ về lãi suất, tỷ lệ dự trữ, hạn mức cho vay Trong sự ràng buộc về luật pháp, các yếu
tố của nghiệp vụ huy động vốn thay đổi làm ảnh hưởng đến quy mô và chất lượng của
hoạt động huy động vốn.
4.1.3. Điều kiện về môi trường cạnh tranh.
Khi định ra chiến lược phát triển cho ngân hàng rõ ràng cần phải tính đến điều
kiện về môi trường kinh doanh. Sự cạnh tranh của các ngân hàng khác trên địa bàn
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng. Để có thể tồn tại và phát triển,
ngân hàng cần phải định ra chiến lược kinh doanh phù hợp để có thể thắng trong
cạnh tranh với ngân hàng khác. Trong quá trình cạnh tranh với đối thủ, ngân hàng
buộc phải cải tiến và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, thực hiện mức lãi suất hợp
lý, nghiên cứu kỹ thị trường và làm tốt công tác marketing. Ngân hàng phải bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ để có thể làm tốt công việc của mình. Như vậy, cạnh tranh
Tài chính doanh nghiệp 18A
20
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
vừa là thách thức vừa là một nhân tố thúc đẩy sự phát triển chất lượng các hoạt

động ngân hàng trong đó có hoạt động huy động vốn.
4.1.4. Yếu tố thuộc về văn hoá - xã hội, tâm lý khách hàng.
Khách hàng của ngân hàng bao gồm những người có vốn gửi tại ngân hàng và
những đối tượng sử dụng vốn đó. Về môi trường xã hội ở các nước phát triển,
khách hàng luôn có tài khoản cá nhân và thu nhập được chuyển vào tài khoản của
họ. Nhưng ở các nước kém phát triển, nhu cầu dùng tiền mặt thường lớn hơn. ở
khoản mục tiền gửi tiết kiệm có hai yếu tố quan trọng tác động vào là thu nhập và
tâm lý của người gửi tiền. Thu nhập ảnh hưởng đến nguồn vốn tiềm tàng mà ngân
hàng có thể huy động trong tương lai. Còn yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến sự biến
động ra vào của các nguồn tiền. Tâm lý tin tưởng vào tương lai của khách hàng có
tác dụng làm ổn định lượng tiền gửi vào, rút ra và ngược lại nếu niềm tin của khách
hàng về đồng tiền trong tương lai sẽ mất giá gây ra hiện tượng rút tiền hàng loạt vốn
là mối lo ngại lớn của mọi ngân hàng. Một đặc điểm quan trọng của đối tượng
khách hàng là mức độ thường xuyên của việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Mức
độ sử dụng càng cao, ngân hàng càng có điều kiện mở rộng việc huy động vốn.
4.2. Các yếu tố chủ quan.
4.2.1. Các hình thức huy động vốn mà ngân hàng sử dụng.
Để thực hiện tốt công tác huy động vốn, các ngân hàng thường đưa ra nhiều hình
thức huy động vốn đa dạng. Khối lượng vốn mà ngân hàng huy động được phụ
thuộc trực tiếp vào các hình thức huy động vốn mà ngân hàng áp dụng. Khi áp dụng
nhiều hình thức huy động vốn sẽ tạo những cơ hội để người gửi lựa chọn, đáp ứng
được các nhu cầu của người gửi. Mỗi ngân hàng đều tìm cho mình những hình thức
huy động vốn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, tâm lý dân cư vùng mà ngân
hàng đặt địa điểm, đồng thời phù hợp với yêu cầu sử dụng cũng như dễ dàng quản
lý có hiệu quả nguồn vốn của mình. Khi hình thức huy động vốn đa dạng nghĩa là
số lượng vốn huy động được tăng lên và chi phí huy động có xu hướng giảm xuống.
Tài chính doanh nghiệp 18A
21
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
4.2.2. Chiến lược kinh doanh của ngân hàng.

Trong một ngân hàng, nghiệp vụ huy động vốn chịu tác động trực tiếp từ các
hoạt động về sử dụng vốn. Mỗi ngân hàng đều có một chiến lược kinh doanh riêng
theo từng thời kỳ, tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động của bản thân ngân hàng và
điều kiện môi trường kinh doanh. Từ đó ngân hàng có thể đưa ra chiến lược huy
động vốn là thu hẹp hay mở rộng cho phù hợp với chính sách thu hẹp hay mở rộng
tín dụng của ngân hàng trong thời kỳ đó. Cơ cấu nguồn vốn có thể thay đổi về tỷ lệ
các khoản mục cấu thành, chi phí huy động có thể tăng hay giảm. Nếu chiến lược
kinh doanh được xây dựng đúng đắn phù hợp với điều kiện bản thân ngân hàng, các
nguồn vốn được khai thác tối đa và hợp lý thì công tác huy động vốn phát huy hiệu
quả.
4.2.3. Ảnh hưởng của lãi suất huy động.
Lãi suất huy động vốn thường là mối quan tâm hàng đầu của cá nhân và tổ chức
muốn gửi tiền vào ngân hàng. Điều này hoàn toàn hợp lý vì trong nền kinh tế lĩnh
vực có lợi nhuận cao hơn bao giờ cũng thu hút được nhiều người tham gia đầu tư
hơn. Tuy nguồn tiền gửi không chỉ phụ thuộc vào lãi suất cao mà còn phụ thuộc vào
các nhân tố khác như kỳ hạn, mức độ rủi ro, điều kiện thanh toán, uy tín, địa
điểm của ngân hàng nhưng với lãi suất cao, linh hoạt, hợp lý thì luôn luôn có tác
dụng kích thích người gửi tiền. Nhưng lãi suất có ảnh hưởng lớn nhất đến lượng
tiền gửi tiết kiệm vì khách hàng chọn gửi tiền theo phương thức này thường có mục
đích hưởng lãi.
4.2.4. Trình độ công nghệ ngân hàng.
Trình độ công nghệ ngân hàng ngày càng cao, khách hàng sẽ càng cảm thấy hài
lòng về dịch vụ được ngân hàng cung ứng và yên tâm hơn khi gửi tiền tại các ngân
hàng. Đây là một yếu tố rất quan trọng giúp ngân hàng cạnh trạnh phi lãi suất vì khách
hàng mà ngân hàng phục vụ, không quan tâm đến lãi suất mà quan tâm đến chất lượng
và loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung ứng. Với cùng một lãi suất huy động như
nhau, ngân hàng nào cải tiến chất lượng dịch vụ tốt hơn, tạo sự thuận tiện hơn cho
khách hàng thì sức cạnh tranh sẽ cao hơn.
Tài chính doanh nghiệp 18A
22

Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
4.2.5. Uy tín của ngân hàng.
Trên thực tế, mỗi ngân hàng đã, đang và sẽ tạo được một hình ảnh riêng của
mình trong lòng khách hàng. Một ngân hàng lớn, sẵn có uy tín sẽ có lợi thế hơn
trong hoạt động huy động vốn. Sự tin tưởng của khách hàng sẽ giúp cho ngân hàng
có khả năng ổn định khối lượng vốn huy động và tiết kiệm chi phí huy động. Từ đó
ngân hàng có thể đề ra chiến lược dự trữ dễ dàng hơn. Thậm chí trong điều kiện lãi
suất gửi tiền tại ngân hàng có uy tín thấp hơn đôi chút, những người có tiền vẫn lựa
chọn ngân hàng đó để gửi mà không tìm những nơi trả lãi hấp dẫn hơn vì họ tin
rằng ở đây đồng vốn của mình sẽ tuyệt đối an toàn.
Tài chính doanh nghiệp 18A
23
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TRONG HỆ
THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM NHỮNG
NĂM VỪA QUA
1. Những kết quả đạt được
Sau đây là những thành tựu ngân hàng đạt được trong hoạt động huy động
vốn
- Các hình thức và nguồn huy động vốn càng ngày được đa dạng hoá.
- Các kênh huy động vốn càng ngày được mở rộng. Các Ngân hàng đã áp dụng
thành công nghiệp vụ quỹ tiết kiệm gắn với dịch vụ thanh toán chuyển tiền nên đã
tạo được sức hút khá lớn lượng khách hàng đến giao dịch.
- Cơ sở vật chất, công nghệ ngân hàng phục vụ hoạt động nghiệp vụ huy động
vốn đã và đang được đổi mới, nâng cấp .
- Trình độ cán bộ ngày càng được nâng cao.
- Quan hệ của ngân hàng đối với các ngân hàng khác trong nước ngày một phát
triển hỗ trợ đắc lực cho việc huy động vốn và sử dụng vốn của ngân hàng
- Tích cực khai thác và huy động nguồn vốn tại chỗ, tranh thủ được sự hỗ trợ kịp

thời, có hiệu quả của nguồn vốn trong nội bộ, đáp ứng thoả mãn kịp thời mọi nhu
cầu hợp lý về vốn của khách hàng .
Những thành tựu mà ngân hàng đạt được trong công tác huy động vốn là do:
- Trạng thái phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua. Những
năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân đã thu được những thành
tựu đáng kể. Nền kinh tế tiếp tục phát triển trên nhiều lĩnh vực. Kết cấu hạ tầng
được cải thiện, năng lực sản xuất được năng cao thúc đẩy tăng cường và chuyển
dịch cơ cấu ngành nghề, tạo điều kiện phát triển cho thời kỳ sau. Đời sống vật chất
của nhân dân ngày càng được nâng lên, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về kinh tế
của địa phương so với mức trung bình của cả nước. Những kết quả đạt được này đã
góp phần thúc đẩy công tác huy động vốn của từng Chi nhánh.
Tài chính doanh nghiệp 18A
24
Đề án lý thuyết tài chính tiền tệ Nguyễn Thị Thu Hà
- Ngân hàng đã sử dụng những hình thức huy động vốn phù hợp với tình hình
thực tế của ngân hàng và tình hình phát triển của địa phương, địa bàn mà ngân hàng
hoạt động.
- Sự bố trí hợp lý các nhân viên ngân hàng vào công việc phù hợp của ban lãnh
đạo ngân hàng. Thái độ phục vụ tận tình của nhân viên ngân hàng đối với khách
hàng .
- Nhà nước ta đã thành lập Công ty bảo hiểm tiền gửi nhằm bảo vệ lợi ích cho
người gửi tiền, điều này làm tăng niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng, đối
với đồng tiền .
- Ngân hàng đã làm tốt công tác sử dụng vốn, hiệu quả kinh doanh cao. Do vậy
uy tín ngân hàng được nâng lên trên thị trường. Từ số lượng doanh nghiệp và tổ
chức kinh tế, cá nhân quan hệ với ngân hàng phát triển. Điều này có nghĩa là tiền
gửi của các tổ chức kinh tế tăng lên.
2. Những vấn đề còn tồn tại.
- Cơ chế lãi suất chưa thực sự tạo ra được sự hấp dẫn với khách hàng, trong đó
các hình thức dịch vụ cũng chưa được phát triển nhiều.

- Chưa đa dạng hoá các hình thức huy động vốn trung và dài hạn .
- Chính sách khách hàng, công tác tuyên truyền quảng cáo chưa được chú trọng.
- Các dịch vụ mới, công cụ mới, phương tiện mới cho hoạt động ngân hàng tuy có
cố gắng cải thiện nhưng vẫn còn chậm.
- Công tác thông tin trong hệ thống ngân hàng chưa được vi tính hoá toàn bộ, hạn
chế trong các công tác xử lý nghiệp vụ, hạn chế việc tìm hiểu thị trường, tìm hiểu
thông tin về khách hàng và đối thủ cạnh tranh.
- Cơ sở vật chất còn hạn chế, công nghệ còn lạc hậu, nhiều quỹ tiết kiệm của Chi
nhánh còn hoạt động thủ công.
- Trong thời gian qua, Chi nhánh đã coi trọng và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ
công nhân viên. Tuy nhiên, đội nghũ cán bộ còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm, trình độ
chuyên môn còn bị hạn chế.
Tài chính doanh nghiệp 18A
25

×