Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Bảo hiểm hoả hoạn Thực trạng và giải pháp đối với Tổng Công ty Bảo Việt.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.48 KB, 42 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU
Những năm gần đây, công cuộc đổi mới của Chính phủ với việc
chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã mở
ra cơ hội kinh doanh, làm ăn lớn cho các nhà đầu tư nước ngồi và góp
phần đẩy nhanh tiến trình tư nhân hố tại Việt Nam. Một trong những
vấn đề đang được các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế quan
tâm là bảo hiểm nói chung và bảo hiểm tài sản nói riêng do vai trị quan
trọng của chúng trong việc bảo tồn vốn, hình thành tâm lý ổn định, an
tâm cho người được bảo hiểm trong quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Đây cũng là mối quan tâm lớn đối với các doanh nghiệp bảo hiểm
Việt Nam, nhất là từ khi thị trường bảo hiểm đã chuyển từ "thị trường
của người bán" thành "thị trường của người mua". Vấn đề nghiên cứu,
cải tiến, áp dụng và triển khai các loại hình bảo hiểm mới đang trở
thành một trong những chiến lược quan trọng mà các công ty bảo hiểm
sử dụng để cạnh tranh trên thị trường.
Đối với những cán bộ bảo hiểm cũng như những ai đang nghiên
cứu, học tập trên lĩnh vực này, nghiệp vụ Bảo hiểm Hoả hoạn đã khơng
cịn xa lạ. Tuy nhiên, làm thế nào để hiểu thấu đáo, tường tận cơ sở lý
luận và thực tế triển khai loại hình này cho phù hợp với điều kiện Việt
Nam mà vẫn đáp ứng được với nhu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp
của các doanh nghiệp đang là câu hỏi lớn đặt ra với tất cả các công ty
bảo hiểm hoạt động tại Việt nam. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Bảo
hiểm hoả hoạn thực trạng- giải pháp đối với Tổng Công ty Bảo Việt “
làm nội dung nghiên cứu.
Mục đích của đề tài nhằm tập hợp, hệ thống hoá các nguyên tắc lý
luận được áp dụng chung trong loại hình Bảo hiểm Hoả hoạn, các đặc

Tạ Quang Tuấn F4-K36



1


Chuyên đề tốt nghiệp

điểm riêng biệt của loại hình, cũng như những công tác cần thiết trong
việc triển khai nghiệp vụ. Ngoài ra, đề tài cũng dành một phần đề cập
đến thực tế tình hình triển khai nghiệp vụ tại Tổng Công ty Bảo hiểm
Việt Nam - công ty bảo hiểm đầu tiên tiến hành loại hình bảo hiểm mới
mẻ này trong những năm vừa qua.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bản luận văn bao gồm 3
chương với những nội dung cơ bản sau:
Trong quá trình xây dựng và hồn thiện đề tài này, chúng tơi đã
nhận được sự giúp đỡ tận tình thiết thực của Thầy giáo hướng dẫn Thân
Danh Phúc và một số cán bộ công tác tại Phòng Bảo hiểm Hoả hoạn và
Kỹ Thuật thuộc Tổng Công ty Bảo hiểm Hà Nội. Xin chân thành bày tỏ
lịng cảm ơn về sự giúp đỡ q báu đó.
Bản chuyên đề này chắc chắn sẽ không thể tránh khỏi những
khiếm khuyết trong biên tập và trình bày. Rất mong được sự góp ý và
phê bình của thày giáo và các bạn đồng nghiệp.
Sinh viên thực hiện
Tạ Quang Tuấn

Tạ Quang Tuấn F4-K36

2


Chuyên đề tốt nghiệp


CHƯƠNG I
MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. Vài nét về lịnh sử bảo hiểm hoả hoạn
Hiệp hội bảo hiểm hoả hoạn lần đầu tiên ra đời trên thế giới là ở Đức
năm 1591 mang tên Feuer Casse. Một thời gian ngắn sau đó xuất hiên thêm
vài Cơng ty nữa nhưng khơng để lại dấu ấn gì lớn cho tới giữa thế kỷ 17.
Năm 1666 đẫ xẩy ra một vụ Hoả hoạn khủng khiếp ở Lôn Đôn. Vụ Hoả
hoạn kéo dài năm ngày. Thiêu huỷ gần như toàn bộ thành phố đã kích thích
sự ra đời của bảo hiểm hoả hoạn. Một nhà vật lý người Anh tên là
NICHOLAS BARBEN chuyển nghạch sang lĩnh vực xây dựng trong thời
gian xây dựng lại thành phố đã đồng thời cũng bắt đầu bảo hiểm hoả hoạn
cho các ngôi nhà mới xây dựng. Ban đâu ông điều khiển Công ty theo kiểu
Cơng ty tư nhât nhưng sau đó năm 1680 ơng đổi thành Công ty cổ phần
mang tên là “ The Fire Office “. Một số Công ty khác cũng theo đó ra đời
trong đó có Hand in Hand năm 1696 và Sun Fire Office năm 1710.
Công ty bảo hiểm đầu tiên thành công ở Mỹ là Công ty bảo hiểm tương hỗ,
do Benfamir Franklin và một số thành viên khác sáng lập năm 1752, mang
tên là The Philadenphia Contributionship chuyên bảo hiểm Hoả hoạn cho
nhà cửa. Công ty bảo hiểm cổ phần đầu tiên ở Mỹ mang tên là The
insurance company of Noth America được thành lập năm 1792.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế. Bảo hiểm hoả hoạn đã phát triển mạnh mẽ và
trở thành nghiệp vụ truền thống với phí thu hàng năm rất cao. ở Nhật, số
phí bảo hiểm hoả hoạn thu hàng năm 1993 là 1.017.008 triệu yên ( trên 10
tỷ đô la) chiếm 15,5% doanh thu nghiệp vụ bảo hiểm phí nhân thọ.

Tạ Quang Tuấn F4-K36

3



Chuyên đề tốt nghiệp

II . Sự cần thiết và vai trò của bảo hiểm hảo hoạn
Hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng phát triển thì nhu cầu tập trung
vật tư, hàng hố rất lớn, quy trình cơng nghệ ngày càng phức tạp và những
loại máy móc hiện đại sẽ được phổ biến hơn. Trong khi đó, khoa học kỹ
thuật an toàn thường đi sau, nguồn vốn sử dụng cho các biện pháp an toàn
thường rất thấp so với vốn đầu tư phát triển sản xuất thêm vào đó điều kiện
tự nhiên ngày càng khắc nghiệt và đã khiến cho khả năng xảy ra rủi ro tai
nạn nhiều hơn so với mức độ thiệt hại về người và của nghiêm trong hơn.
Chỉ tính riêng hoả hoạn mỗi năm nước ta xẩy ra hàng nghìn vụ Hoả hoạn
nổ, làm chết hoặc bị thương hàng trăm người, thiệt hại về tài sản hàng chục
tỷ đồng. Có những vụ Hoả hoạn làm thiêu huỷ hàng trăm nóc nhà, tồn bộ
khu chợ lớn hoặc cả một cơ sở sản xuất kinh doanh hàng chục tỷ đồng, làm
cho hàng nghìn người khơng cịn nhà ở hàng nghìn hộ kinh doanh phải điêu
đứng vi mất hết tồn bộ hàng hố, tiền của , khơng cịn chỗ kinh doanh làm
cho hàng trăm cơng nhân khơng cịn nơi làm việc. Số liệu thống kê về hoả
hoạn ở Việt Nam của cục cảnh sát phòng Hoả hoạn chữa Hoả hoạn trong 5
năm 1998-2003 như sau:
Bảng 1_ Hoả hoạn ở Việt Nam trong năm 1998-2002
Năm Số
vụ

Địa điểm
Nghành kinh tế
Thành Nông Nhà Tập Tư
phố


thôn

nước thể

Liên

Thiệt hại
Chế Thương Tài

nhân doanh t

tật

sản(tỷ

199

949

678

270

273

60

619

4


47

111

đồng)
40019

8
199

941

657

284

238

39

664

7

65

110

43418


9
200

102

670

356

277

44

704

3

127

465

86218

0
200

6
105


750

305

199

27

825

2

88

215

215102

Tạ Quang Tuấn F4-K36

4


Chuyên đề tốt nghiệp

1
200

5
109


2

1

720

372

226

33

830

5

105

140

92660

Vậy làm thế nào doanh nghiệp trách được tổn thất bảo tồn nguồn vốn
kinh doanh của mình? Thực ra nó cịn nhiều biên pháp sử dụng như sử
dụng các biện pháp an toàn, thành lập quỹ dự trữ đề phịng xẩy ra tổn
thất...Trước đây chúng ta có một vài Công ty bảo hiểm hoả hoạn tại miền
Nam trong thời kỳ Pháp thuộc song sang năm 1975 do cơ chế bao cấp, nhà
nước đứng ra bù đắp mọi thiệt hại, bảo đảm tài chính cho các doanh nghiệp
khi khơng may gặp rủi ro nên bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hoả hoạn

nói riêng khơng có mảnh đất phát triển. Trong điều kiên nền kinh tế chuyển
sang cơ chế thị trường hiên nay các doanh nghiệp phải tự chủ về nguồn tài
chính, tham gia bảo hiểm tài sản mà cụ thể là bảo hiểm Hoả hoạn vẫn là
phương án tối đa.
Theo quy tắc bảo hiểm Hoả hoạn hiện nay vẫn sử dụng ở các Công ty
bảo hiểm trong nước, người tham gia bảo hiểm có thể tham gia đăng ký bảo
hiểm cho những tài sản như nhà của trang thiết bị hàng hố, ngun vật liệu
của mình...Ngồi Hoả hoạn là rủi ro chính họ cịn đăng ký cho các rủi ro
phụ như nổ, giông bão, động đất nước chảy hay rò rỉ tràn từ bể chứa đường
ống hoặc thiết bị chữa Hoả hoạn, xe cộ hay súc vật đâm vào....Trong
trương hợp xẩy ra tổn thất, các Công ty bảo hiểm bồi thường cho những
thiệt hại trực tiếp từ các nguyên nhân kể trên và cả những chi tiết cần thiết
hợp lý nhằm hạn chế tổn thất tài sản được bảo hiểm trong và ngay khi chấy.
Tuy nhiên Hoả hoạn không chỉ gây thiệt hại trực tiếp đến cho con
người và tài sản mà nó cịn để lại những thiệt hại và tổn thât khổng lồ cho
các doanh nghiệp. Trên thực tế sau khi Hoả hoạn hoạt động sản xuất không
thể phát triển theo kế hoạch kinh doanh đặt ra, các doanh nghiệp sẽ mất
khoản lợi nhuận do nhà xưởng, máy móc bị hư hại. Để tránh bị phá sản họ

Tạ Quang Tuấn F4-K36

5


Chuyên đề tốt nghiệp

phải tiến hành các biện pháp khôi phục lại sản xuất. Bên cạch việc duy trì
chi trả tiền lương cho nhân cơng và thanh tốn các chi phí cố định như tiền
thuê nhà xưởng, khấu hao, điện nước lãi xuất ngân hàng các doanh nghiệp
còn phải thuê thêm nhân viên làm việc thêm giờ để hoàn tất đơn đặt hàng

tồn đọng...Rõ ràng những khám phá này không được bồi thường theo đơn
bảo hiểm Hoả hoạn.
Để đáp ứng được các khoản chi phí trên, nhiều doanh nghiệp đã sử
dụng các quỹ dự trữ, hoặc vay vốn từ ngân hàng và các tổ chức cho vay
khác, song các phương pháp này hoàn toàn thụ động . Một biện pháp hiện
nay đang khẳng định tính ưu việt với các nhà đầu tư nước ngồi đó là tham
gia bảo hiểm gián đoạn kinh doanh. Với loại hình này, các doanh nghiệp
khơng những được bồi thường tài chính cho các khoản chi phí nói trên mà
cịn được bù đắp phần lợi nhuận rịng bị mất mát mà lẽ ra họ được mà
khơng bị tổn thương. Như vậy có thể nói rằng bảo hiểm hoả hoạn đã hạn
chế tối thiểu mức ảnh hưởng của các rủi ro tới hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp.
Bằng việc đóng góp một khoản phí nhỏ ( thường là một phần ngàn giá
trị của tài sản) người được bảo hiểm có thể đầu tư tối đa và triệt để nguồn
vốn nhàn rỗi cho phát triển hoạt động sản xuất, bởi họ khơng phải trích lập
quỹ dự phòng trường hợp xẩy ra rủi ro và quan trọng hơn, bên cạnh việc
được bồi thường khi xẩy ra tổn thất họ có một tâm lý an tâm khi tiến hành
cơng việc kinh doanh của mình.
Tham gia bảo hiểm các doanh nghiệp cịn được các Cơng ty tư vấn về
các biện pháp phòng trách tổn thất, tăng cường biện pháp phịng Hoả hoạn
chữa Hoả hoạn và thực hiện chính sách quản lý rủi ro nhằm đảm bảo sự an
toàn cao nhất.
Bên cạnh việc mang lại lợi ích trên cho các doanh nghiệp bảo hiểm hoả
hoạn cũng đóng vai trị quan trọng trong việc ổn định và phát triển nền kinh
tế. Bời vì thơng qua việc hướng dẫn các doangh nghiệp thực hiện những
Tạ Quang Tuấn F4-K36

6



Chun đề tốt nghiệp

biện pháp an tồn, các Cơng ty bảo hiểm góp phần hạn chế tổn thất tai nạn
giúp khách hàng của họ có điều kiện thúc đẩy mở rộng sản xuất như mong
muốn. Mặt khác, một phần không nhỏ khoản phí thu được từ loại hình này
được Cơng ty bảo hiểm đóng góp vào ngân sách nhà nước để chính phủ sử
dụng các mục đích xã hội.
III. Việc thực hiện bảo hiểm hoả hoạn ở Việt Nam
ở Việt Nam bảo hiểm hoả hoạn bắt đầu được thực hiện từ năm 1989
sau khi có quyết định số 06/TCQĐ ngày 17/1/1989 của bộ trưởng bộ tài
chính ban hành quy tắc về bảo hiểm hoả hoạn. Sau một thời gian thực hiện
để phù hợp hơn với tình hình thực tế, Bộ tài chính lại có quyết định số 142/
TCQĐ ban hành quy tắc và biểu phí mới và quyết định số 212/TCQĐ ngày
12/4/1993 ban hành biểu phí và bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt
với các mức phí tối đa thay cho biểu phí bảo hiểm hoả hoạn theo quyết
định số 142/TCQĐ.
Đến nay bảo hiểm hoả hoạn đã được thực hiện trong khắp cả nước.
Nếu như năm 1991 số đơn vị hoả hoạn cấp ra mới chỉ có 413 thì tới năm
1994 con số này đã lên tới 2000 giá trị tài sản năm 1991 là 1000 tỷ đồng thì
năm 1992 trên 4000 tỷ, năm 1993 là 7000 và năm 1994 trên 14000 tỷ đồ
ng. Số tiền bảo hiểm phí tương ứng của các năm đó là 4,5 tỷ, 10,2 tỷ, 21,3
tỷ và 3902 tỷ. Bảo việt cũng phải chi bồi thường thiệt hại nhiều vụ Hoả
hoạn lớn như Công ty giầy Hiệp Hưng trên 10 tỷ, Công ty dược Đồng Tháp
4,5 tỷ đồng, chợ đồng xuân trên 8 tỷ đồng, Công ty sản xuất và xuất khẩu
sông Bé gần 18 tỷ đồng...Có thể nói rằng bảo hiểm hoả hoạn đã dần dần đi
vào tiềm thức của con người Việt Nam, đáp ứng đòi hỏi tất yếu của xã hội
và ngày càng củng cố vững chắc vị trí quan trọng của mình trong cơ cấu
chung của nghành bảo hiểm Việt Nam.
Từ khi bắt đầu bảo hiểm hoả hoạn tới nay. Tổng Công ty bảo hiểm
Việt Nam đã tổ chức nhiều đợt tập huấn nghiệp vụ, đã làm nhiều văn bản

tài liệu hưỡng dẫn. Tuy nhiên số người trực tiếp tham gia tập huấn không
Tạ Quang Tuấn F4-K36

7


Chuyên đề tốt nghiệp

phải là nhiều, tài liệu hướng dẫn cũng rải rác, không tập trung hơn nữa theo
thời gian bản thân những tài liệu đã ban hành trở nên lại lạc hậu địi hỏi
phải hồn thiện bổ xụng thêm.
Ngay cả quan điểm biện pháp thực hiên nghiệp vụ cũng có sự thay đổi
căn bản. Nếu như trước đây chúng ta tiến hành bảo hiểm trong điều kiên
độc quyền thì nay hoàn toàn ngược lại chúng ta phải cạnh tranh với nhiều
đối thủ trong và ngoài nước, hiệu quả kinh doanh đã trở thành thước đo
quan trọng cho hoạt động của Cơng ty. Điều đó phải địi hỏi các cán bộ
nghiệp vụ, ngoài các phẩm chất khác của người bán hàng, phải hết sức
nhanh nhậy trong việc đưa ra các tỷ lệ phí có sức cạnh tranh nhưng phải
đáp ứng đúng chuẩn mực quy định để đảm bảo kinh doanh có lãi và đáp
ứng yêu cầu của nhà nhận tái bảo hiểm. Đông thời cùng với việc mở rộng
kinh doanh, chúng ta cũng phải chú ý đến việc kiểm soát sự tích tụ rủi ro,
nhất là các rủi ro thiên tai như bão, lũ lụt để tránh các trường hợp tồn thất
hàng loạt. Trong việc giải quyết bồi thường cũng phải đảm bảo chính xác,
đúng điều kiện của đơn bảo hiểm và nhanh chóng hơn. Mặt khác người bảo
hiểm cũng phải tăng cường công tác quản lý rui ro, cùng với khách hàng
làm tốt công tác hạn chế tổn thất...
Xuất phát từ thực tế đó Cơng ty Bảo Việt đã khai thác tốt thị trường
bảo hiểm trong nước về lĩnh vực bảo hiểm hoả hoạn. Do đó những năm gần
đây doanh số của phòng bảo hiểm hảo hoạn tăng từ đó làm tăng doanh thu
của Cơng ty Bảo Việt.

IV. Một số khái niệm cơ bản
1. Rủi ro có thể lựa chọn để bảo hiểm
Mỗi rủi ro có thể được nêu thành tên riêng. Hầu hết các Công ty trên
thế giới đều chấp nhận áp dụng các phương pháp tiêu chuẩn khi cấp đơn
bảo hiểm và lưu trữ, sử dụng số liệu các rủi ro này được đưa vào phụ lục
của “ Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt”.

Tạ Quang Tuấn F4-K36

8


Chuyên đề tốt nghiệp

Dùng áp dụng mẫu đơn bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tiêu
chuẩn của thị trường bảo hiểm Lôn Đôn ( standard Fire and Special Perils
Policy) hay ( Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt” của Việt
Nam thì rủi ro chính được bảo hiểm thì cũng là bảo hiểm hoả hoạn. Rủi ro
A cịn có rủi ro B- nổ, C- máy bay và...rơi vào, E- nổi loạn bạo động dân
sự... được coi là các rủi ro phụ. Các rủi ro phụ đó khơng được bảo hiểm
riêng mà chỉ có thể bảo hiểm cùng với rủi ro hoả hoạn. Các rủi ro phụ đó
cũng khơng được bảo hiểm một cách tự động mà chỉ được bảo hiểm khi
khách hàng yêu cầu với điều kiện phải đóng thêm phí và phải được ghi rõ
trong giấy yêu cầu và giấy chứng nhận bảo hiểm.
Dưới đây chúng ta sẽ xem xét một số rủi ro cơ bản dễ gây hiểu lầm còn
các rủi ro khác thì hiểu theo tên gọi của chúng
c Hoả hoạn
Rủi ro này thực chất bao gồm 3 phần: Hoả hoạn , sét và nổ.
Hoả hoạn : Trong đơn bảo hiểm Hoả hoạn tiêu chuẩn không định
nghĩa rõ thế nào là hoả hoạn vì người ta hiểu nó theo nghĩa thông

dụng nghĩa là sẽ được coi là hoả hoạn nếu có đủ 3 yếu tố sau đây
- Phải thực sự có phát lửa
- Lửa đó khơng phải là lửa chun dùng
- Về vật chất đám lửa phải bất ngờ ngẫu nhiên với người được bảo
hiểm chứ không phải là cố ý có chủ định của họ hoặc đồng lỗ của
họ. Tuy nhiên hoả hoạn được xẩy ra do bất cẩn của người được bảo
hiểm vẫn thuộc phạm vi được bồi thường.
Khi có đầy đủ 3 yếu tố trên và co thiệt hại về vật chất do những
nguyên nhân được coi là hợp lý gây ra những thiệt hại đó được bồi thường
dù cho là bị Hoả hoạn.
Mặc dù không được nêu rõ trong đơn bảo hiểm nhưng thiệt hại do hoả
hoạn ở đây bao gồm có:

Tạ Quang Tuấn F4-K36

9


Chuyên đề tốt nghiệp

- Thiệt hại do khói mà nguồn lửa gây ra thuộc phạm vi thuộc trách
nhiệm bảo hiểm
- Thiệt hại do nước dùng để chứa Hoả hoạn
-

Thiệt hại do phá rỡ để ngăn chặn Hoả hoạn lan

-

Thiệt hại do việc thực hiện nhiệm vụ chữâ Hoả hoạn


-

Thiệt hại mà người được bảo hiểm phải gánh chịu do việc bảo vệ tài
sản và kiểm soát sự phát triển của ngọn lửa.

Tuy vậy hoả hoạn ở đây loại trừ:
- Nổ ro ảnh hưởng của hoạ hoạn
- Động đất ngầm
-

Tài sản bị phá huỷ hay hư hỏng do

+ Do bị lên men hoặc toả nhiệt
+Quá trình sử lý bằng nhiệt
Việc loại trừ này nhằm thống nhất khái niệm hoả hoạn được dùng
trong toàn bộ đợn vị bảo hiểm bằng những rủi ro phụ riêng biệt
t

Nổ : Theo rủi ro hoả hoạn, phạm vi bảo hiểm bao gồm:
Các trương hợp hoả hoạn do nổ ngẫu nhiên được bảo hiểm như vậy ở

đây chỉ có những thiệt hại do nổ mà khơng gây Hoả hoạn vấn đề còn lại là:
-

Tổn thất và thiệt hại do nổ nhưng khơng gây chay thì khơng được bồi
thường trừ trương hợp nổ nồi khơi khí phục vụ cho sinh hoạt, với
điều kiện vụ nổ đó khơng phải do các nguyên nhân bị loại trừ

- Tổn thất do chay xuất phát từ nổ thì được bồi thường với điều kiện là

sự nổ không phải do các nguyên nhân bị loại trừ
- Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ xuất phát từ Hoả hoạn: Thiệt hại ban
đầu do Hoả hoạn được bồi thường nhưng những tổn thất do hậu quả
của nổ thì khơng
c

Sét : Theo khái niệm thơng thường được áp dụng trong đơn bảo hiểm
là người được bảo hiểm sẽ được bồi thường khi tài sản bị phá huỷ
trực tiếp do sét hoặc bị sét đánh gây Hoả hoạn. Tuy nhiên, cũng theo

Tạ Quang Tuấn F4-K36

10


Chun đề tốt nghiệp

khái niệm thơng thường thì sét đánh mà không phát lửa hoặc khônng
pha huỷ trực tiếp tài sản thì khơng thuộc phạm vi trách nhiệm bồi
thường.
ở đây cần lưu ý trừ khi trừ khi tia sét phá huỷ trực tiếp các thiết bị điện
được bồi thường, còn tia sét làm thay đổi dòng điện dẫn tới thiệt hại cho
thiết bị điện thì khơng được bồi thường.
2. Cụm rủi ro
Một nhóm những ngơi nhà hoặc kho tàng ngồi trời ở liền kề nhau
trong một khu vực, tách biệt với những ngơi nhà kho tàng ngồi trời
khác về khơng gian
Các ngơi nhà hoặc kho tàng ngồi tời được coi là tách biệt nhau về
không gian nếu khoảng cách giữa chúng là khoảng cách tối thiểu.
Khoảng cách tối thiểu là khoảng cách tính bằng chiều cao của ngơi nhà

cao nhất hoặc vượt quá 20m nếu tài sản là loại dễ Hoả hoạn và qua 10m
nếu tài sản là loại không Hoả hoạn hoặc khó Hoả hoạn. Khoảng cách
trên 20m được coi là tách biệt về không gian.
3. Đơn vị rủi ro
Một số ngơi nhà, bộ phận của nhà kho ngồi trời liền nhau nhưng tách
biệt với các ngôi nhà, bộ phận nhà kho ngồi trời khác về khơng gian hoặc
cấu trúc.
Đơn vị rủi ro được coi là tách biệt về không gian khi khoảng cách giữa
các ngôi nhà hoặc kho ngồi trời bằng vật liệu khơng Hoả hoạn đảm bảo
10m.
Đối với kho ngoài trời bằng vật liệu dễ Hoả hoạn, khoản cách đó phải
đảm bảo 20.
Đơn vị rủi ro được coi là cách biệt về mặt cấu trúc nếu các ngôi nhà bộ
phận nhà hoặc kho được ngăn bằng tường chống Hoả hoạn.
Phong được ngăn cách chống Hoả hoạn nếu:
-

Không lớn hơn 10% diện tích có tầng bằng phịng đó

Tạ Quang Tuấn F4-K36

11


Chuyên đề tốt nghiệp

- Được ngăn cắt bằng tường chông Hoả hoạn
- Trần làm bằng vật liệu không Hoả hoạn.
4.Tương ngăn Hoả hoạn.
Là tường ngăn Hoả hoạn để chia ngôi nhà hoặc kho ngoài trời thành

nhiều đơn vị rủi ro
Đặc điểm xây dựng của tường ngăn Hoả hoạn:
- tường ngăn Hoả hoạn phải có giới hạn chiu lửa ít nhất 90 độ
- Phải được xây kín các tầng và khơng được so le nhau
- Nếu mái nhà là loại khó Hoả hoạn thì tường ngăn Hoả hoạn phải
cách mái nhà ít nhất là 30m
-

Nếu có các cấu kiện khác nằm trong tường ngăn Hoả hoạn phân độ
dầy còn lại cũng phải đảm bảo giới hạn chịu lửa tối thiếu

- Không được để vật liệu cấu kiện dễ Hoả hoạn vắt nganh qua tường
ngăn Hoả hoạn.
- Tường ngăn Hoả hoạn phải xây cách những lỗ hở trên mái ít nhất
5m.
V. Đánh giá rủi ro
Đánh giá rủi ro là một trong những nhiệm vụ hết sức quan trọng trong
công tác quản lý rủi ro. Có làm tốt cơng cơng việc đánh giá rủi ro thì mới
có thể thực hiện đựơc cơng tác quản lý rủi ro. Đối với người khai thác bảo
hiểm việc đánh giá rủi ro sẽ giúp họ quyết định có nhận bảo hiểm hay
khơng, mức phí bao nhiêu. Tài liệu về định giá rủi ro coi như báo cáo của
họ trong hồ sơ về khách hàng, nó cũng là tài liệu để báo cáo cho các nhà
nhận bảo hiểm và cũng là cơ sở đối chiếu khi giải quyết bồi thường.
Nếu việc điều tra đánh giá rủi ro được thực hịên một cách đầy đủ, kỹ
lưỡng, kết hợp với bảng hưỡng dẫn tính phí hoặc sử dụng chương trình tính
phí bảo hiểm trên máy vi tính, cán bộ khai thác hồn tồn có thể tính tốn
ngay được một cách chính xác tỷ lệ phí. Điều này giúp cho việc chủ động,

Tạ Quang Tuấn F4-K36


12


Chuyên đề tốt nghiệp

nhanh chóng trong khai thác, trách được tình trạng phải tham khảo, hỏi
han, tốn kém mất thời giờ.

Tạ Quang Tuấn F4-K36

13


Chuyên đề tốt nghiệp

CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM
HOẢ HOẠN TẠI BẢO VIỆT
I. Thị trường bảo hiểm Việt Nam - Sự ra đời và phát triển của nghiệp
vụ bảo hiểm Hoả hoạn
Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam ( gọi tắt là Bảo Việt ) được thành
lập từ ngày 15.1.1965 theo Quyết định số 179/CP ngày 17.12.1964 của Thủ
tướng Chính phủ, là doanh nghiệp nhà nước duy nhất hoạt động kinh doanh
dịch vụ bảo hiểm. Bảo Việt có nhiệm vụ thành lập quỹ dự trữ bảo hiểm từ
sự đóng góp, tham gia bảo hiểm của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
Từ năm 1981, Bảo Việt đã thành lập các công ty chi nhánh ở các
tỉnh, địa phương để tiến hành các dịnh vụ bảo hiểm. Hoạt động của các chi
nhánh không những giúp Bảo Việt triển khai bảo hiểm trên phạm vi cả
nước mà cịn hình thành một mạnh lưới đảm bảo an tồn tài chính cho toàn
bộ người được bảo hiểm.

Trong hơn 30 năm qua, ở Việt nam từ "bảo hiểm " đồng nghĩa với
"Bảo Việt " và ngược lại lúc nào người ta cũng nghĩ rằng chỉ duy nhất có
một cơng ty bảo hiểm hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Điều đó có lý do
của nó. Ngồi sự hiện diện và đóng góp của Bảo Việt đối với nền kinh tế,
xã hội và với mỗi gia đình, trong suốt thời gian qua khơng thấy nói đến một
tên cơng ty bảo hiểm nào khác.Với đường lối mở của của nhà nước, trong
cơ chế thị trườngthì việc Nhà nước dộc quyền trong lĩnh vực bảo hiểm ( kể
cả trên danh nghĩa) là điều khó có thể chấp nhận. Chính vì thế nên ngày
18-12-1993 Nghị định 100/CP của Chính Phủ đã ra đời cho phép các doanh
nghiệp trong nước cũng như nước ngoài được thành lập các công ty bảo
hiểm, tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, mở chi nhánh cơng ty nước ngồi
tại Việt Nam.

Tạ Quang Tuấn F4-K36

14


Chuyên đề tốt nghiệp

Tại Bảo Việt, các nghiệp vụ bảo hiểm như bảo hiểm thân tàu, bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu... đã
được tiến hành từ lâu và đã trở thành những nghiệp vụ bảo hiểm truyền
thống. Song đến năm 1989, Bảo Việt mới chính thức triển khai bảo hiểm
Hoả hoạn theo Quyết định 06/TCQĐ của Bộ Tài chính.
Năm 1990, trên cả nước đã có 16 cơng ty bảo hiểm tiến hành nghiệp
vụ này. Tuy nhiên nhìn chung mới chỉ bảo hiểm cho các nghành xăng, dầu
còn lại phần lớn các tài sản, các nhà máy, xí nghiệp, cơng xưởng, hệ thống
khách sạn từ Nam ra Bắc... trị giá nhiều tỷ đồng vẫn chưa được bảo hiểm.
Có nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan dẫn đến việc ngành bảo

hiểm chưa triển khai được toàn diện. Nguyên nhân cơ bản là chúng ta đã
quá quen với cơ chế bao cấp, Hoả hoạn và rủi ro xảy ra đã có Nhà nước bù
đắp thiệt hại còn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác thì
chưa có thói quen tham gia bảo hiểm tài sản. Bên cạnh đó về chủ quan,
cơng tác tuyên truyền, vận động thu hút khách hành của nghành bảo hiểm
còn nhiều hạn chế.
Sau một năm thực hiện, một yêu cầu cấp bách được đặt ra là phải có
quy định chung hướng dẫn về bảo hiểm Hoả hoạn. Vì vậy ngày 2. 5.1991,
Bảo Việt đã ban hành Quy tắc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt áp
dụng trên cả nước. Nghiệp vụ này ngày càng khẳng định được vị trí quan
trọng của nó đặc biệt là sau khi Hội đồng bộ trưởng ra quyết định số 332/
HĐBT ngày 23. 10 1991 về việc bảo toàn, phát triển vốn kinh doanh đối
với doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, thơng tư số 82/TC/CN hướng
dẫn cụ thể việc thực hiện quyết định trên của HĐBT : "... Để tránh các
trường hợp khơng bảo tồn được vốn do nguyên nhân khách quan như
thiên tai, rủi ro trong quá trình sản xuất kinh doanh... tránh các trường hợp
phải xử lý giảm vốn và đưa lỗ vào doanh nghiệp, các doanh nghiệp cần
phải mua bảo hiểm tài sản để tạo nguồn bù đắp cho các thiệt hại đó tại các
cơng ty bảo hiểm Việt nam. Khoản chi về bảo hiểm được hạch vào giá
Tạ Quang Tuấn F4-K36

15


Chun đề tốt nghiệp

thành hoặc chi phí lưu thơng của doanh nghiệp. Nhà nước sẽ không cho ghi
giảm vốn trong trường hợp tài sản bị tổn thất vì những rủi ro mà công ty
bảo hiểm trong nước triển khai loại hình bảo hiểm tương ứng...".
II Các hoạt động trong bảo hiểm hoả hoạn

Cũng giống như bất cứ một nghiệp vụ bảo hiểm nào, nghiệp vụ bảo
hiểm Hoả hoạn gồm các bước cơ bản sau :
- Khai thác
- Giám định
- Bồi thường
- Hạn chế tổn thất
Các bước này có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau. Kết quả của bước
này ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả của các bước tiếp sau nó và làm thành
một chu trình hoạt động của một nghiệp vụ.
1. Công tác khai thác bảo hiểm
Đây là bước đầu tiên và không thể thiêú trong nghiệp vụ bảo hiểm.
Cơng tác khai thác đóng một vai trị quyết định trong sự phát triển một
công ty. Khách hàng sẽ không mua bảo hiểm nếu họ không biết rằng mua
bảo hiểm họ sẽ được lợi gì. Do đó mà công việc tuyên truyền, quảng cáo
trong bước này là cần thiết và nó càng trở nên đặc biệt quan trọng đồi với
nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn - nghiệp vụ mà chưa có tập quán ở nước ta
1.1 Tuyên truyền, quảng cáo, chủ động tiếp cận khách hàng
Hàng năm Bảo Việt kết hợp với các cơ quan, ban ngành có liên quan
như : cảnh sát PCCC, đài truyền thanh, truyền hình, báo chí, các Bộ,
nghành để tun truyền về ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm Hoả hoạn. Qua
đó mới có thể thuyết phục được khách hàng mua bảo hiểm.
Mặt khác, cơng ty cử cán bộ xuống từng xí nghiệp, đơn vị kinh
doanh để giải thích, vận động mua bảo hiểm chứ không thụ động ngồi chờ
khách hàng hoặc chỉ gửi các công văn, quy tắc cho họ trả lời vì khách hàng

Tạ Quang Tuấn F4-K36

16



Chun đề tốt nghiệp

rất ngại đọc. Một phần vì khó hiểu, một phần vì khơng nhận thức được hết
ý nghĩa, tác dụng của bảo hiểm.
Cán bộ bảo hiểm cần chủ động đến gặp khách hàng, cùng họ đi thăm
cơ sở sản xuất, nghiên cứu quy trình sản xuất của họ..., chỉ cho họ thấy
những rủi ro mà họ có thể gặp phải và những hậu quả của nó. Cán bộ bảo
hiểm giải thích rõ cho khách hàng khi tham gia bảo hiểm họ được gì và mất
gì, ước tính số phí mà họ phải trả, giải đáp những vấn đề mà họ còn thắc
mắc, chưa hiểu rõ, gây cho họ lòng tin và nhu cầu tham gia bảo hiểm. Kinh
nghiệm cho thấy rằng, hướng tuyên truyền vận động nên tập trung vào
những đối tượng "ăn nên làm ra ", có của ăn của để. Vì thế, Bảo Việt đã
chú ý đến các đơn vị, doanh nghiệp lớn có khả năng tài chính khai thác
như : Cơng ty liên doanh về các thiết bị viễn thông COMVIK đã mua bảo
hiểm với số tiến bảo hiểm là 19000000 $, mức phí là 47500 $ ; công ty liên
doanh INDOCHINA CERAMIC sản xuất vật liệu xây dựng, trang thiết bị
nội thất đã mua với số tiền bảo hiểm là 12250000 $, mức phí là 20825 $.
Để tìm ra các doanh nghiệp "ăn nên làm ra" khơng phải là khó, cán
bộ khai thác nên chú ý theo dõi quảng cáo trên các phương tiện thơng tin
đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình...) đồng thời phải có sự phối
hợp với các ngân hàng, cơ quan khác để nắm bắt được đối tượng.
1.2 Đánh giá rủi ro
Công tác đánh giá rủi ro được tiến hành sau khi khách hàng gửi giấy
yêu cầu bảo hiểm với mục đích giá chính xác các rủi ro có thể xảy ra với
các đối tượng bảo hiểm. Qua đó xác định tỷ lệ phí bảo hiểm thích hợp
tương ứng với các rủi ro mà công ty bảo hiểm nhận bảo hiểm.
Để có cơ sở đáng giá đúng rủi ro, thơng thường công ty bảo hiểm sẽ
gửi cho khách hàng bản phiếu điều tra các rủi ro (bảng câu hỏi). Qua phần
trả lời khách hàng trong phiếu điều tra, các công ty bảo hiểm sẽ xác định
được bậc chịu lửa của cơng trình, loại PCCC (các thiết bị PCCC được trang

bị, đội cứu hoả, bảo vệ... ), hạng sản xuất (với đơn vị sản xuất), loại kinh
Tạ Quang Tuấn F4-K36

17


Chuyên đề tốt nghiệp

doanh dịch vụ ( với đơn vị kinh doanh dịch vụ ), mức độ nguy hiểm với các
tài sản để trong kho, cửa hàng, từ đó xác định mức phí thích hợp.
Tuy nhiên trên thực tế, để đảm bảo sự chính xác, trung thực khi đánh
giá rủi ro, ngoài việc gửi phiếu điều tra rủi ro, các cán bộ khai thác bảo
hiểm sẽ đến làm việc trực tiếp với khách hàng, nghiên cứu và khảo sát thực
tế kỹ hơn, hướng dẫn khách hàng trả lời các câu hỏi trong phiếu điều tra,
cùng cộng tác với cảnh sát PCCC đánh giá thực tế về công tác PCCC,
phương tiện chuyên môn (khách hàng cần những phương tiện PCCC nào,
bố trí ở đâu, với số lượng là bao nhiêu...). Cuối cùng trên cơ sở đánh giá rủi
ro, cán bộ khai thác sẽ thoả thuân với khách hàng về tỷ lệ phí sẽ áp dụng.
Như vậy cơng tác đánh giá rủi ro có ý nghĩa vơ cùng quan trọng. Nó
u cầu cán bộ bảo hiểm không những phải giỏi chuyên môn mà cịn phải
có sự năng động, tận tình và cẩn thận.Trong bảo hiểm Hoả hoạn, khâu đánh
giá rủi ro là khâu quyết định trong việc cấp đơn bảo hiểm cũng như việc
đưa ra mức phí phù hợp.
1.3 Cấp giấy chứng nhận bảo hiểm (đơn bảo hiểm)
Đối với nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn, công ty bảo hiẻm sẽ cấp giấy
chứng nhận bảo hiểm cho khách hàng sau khi họ đã chấp nhận mức phí.
Giấy chứng nhận bảo hiểm Hoả hoạn bao gồm :
- Số đơn bảo hiểm
- Tên, địa chỉ người được bảo hiểm
- Ngành sản xuất kinh doanh

- Những rủi ro được bảo hiểm
- Tài sản dược bảo hiểm
- Tổng giá trị tài sản
- Số tiền bảo hiểm
- Chi phí dọn dẹp hiện trường
- Mức miễn thường
- Thời hạn bảo hiểm
Tạ Quang Tuấn F4-K36

18


Chun đề tốt nghiệp

- Phí bảo hiểm cả năm
Thơng thường tài sản được bảo hiểm của khách hàng có nhiều loại
không thể hiện được chi tiết trong Giấy yêu cầu bảo hiểm . Vì vậy, kèm
theo Giấy chứng nhận bảo hiểm cịn có bản danh mục tài sản. Bản này
được coi như một bộ phận của Giấy chứng nhận bảo hiểm và có giá trị
pháp lý, nó thể hiện từng hạng mục tài sản, số lượng, đơn giá, giá trị, số
tiền bảo hiểm của từng loại đó :
Giấy chứng nhận bảo hiểm cần được lập thành bốn bản : Một bản
trao cho khách hàng, một bản cho tài vụ, một bản lưu và một bản cho Tổng
công ty.Hiện nay Bảo Việt cũng quy định phạm vi mức phân cấp khai thác
cho từng cơng ty. Nếu đối tượng bảo hiểm có số tiền bảo hiểm trong phạm
vi đó thì cơng ty chỉ cần gửi một bản giấy chứng nhận. Nếu vượt quá mức
phân cấp, trước khi cấp giấy chứng nhận cho khách hàng, các công ty cần
gửi hồ sơ cho Tổng công ty xem xét và quyết định.
1.4 Bổ sung tài sản được bảo hiểm và theo dõi tình hình thu phí
Trên thực tế, có nhiều khách hàng u cầu sửa đổi, bổ sung tài sản

được bảo hiểm sau khi đã được cấp giấy chứng nhận bảo hiểm. Các công ty
cần xem xét kỹ yêu cầu thay đổi như : giá trị bảo hiểm, các yếu tố ảnh
hưởng đến tỷ lệ phí để từ đó tính tốn, điều chỉnh lại tỷ lệ phí, phí bảo hiểm
cho thích hợp. Bản bổ sung sửa đổi cũng được lập thành bốn bản trao cho
các bộ phận nói trên.
Ngồi ra các cán bộ khai thác cũng cần định kỳ xuống thăm các đối
tượng bảo hiểm, kiểm tra các công tác PCCC, nêu ra các đề xuất để tăng
cường công tác này. Đồng thời phải phối hợp với các bộ phận tài vụ để
theo dõi việc đóng phí của khách hàng, nhắc nhở họ tái tục bảo hiểm khi
thời hạn bảo hiểm sắp hết.
1.5 Hoa hồng
Trong cơng tác khai thác khơng thể khơng nói đến vấn đề hoa hồng.
Đây là một khoản chi được tính theo tỷ lệ phần trăm so với số phí bảo
Tạ Quang Tuấn F4-K36

19


Chuyên đề tốt nghiệp

hiểm. Khoản hoa hồng này, công ty trả cho người trực tiếp đứng ra tham
gia bảo hiểm hoặc trả cho người môi giới nhằm động viên khuyến khích họ
nhiệt tình cơng tác, thu hút thêm nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm. Đây
cũng là một hình thức tạo dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng.Từ
năm 1995, để tạo tính chủ động, linh hoạt trong hoạt động, khoản chi hoa
hồng được tính vào chi quản lý nghiệp vụ.
Có thể nói cơng tác khai thác có một vai trò quan trọng trong hoạt
động kinh doanh bảo hiểm. Thực hiện tốt khâu này sẽ tạo tiền đề cho các
công ty bảo hiểm mở rộng và chiếm lĩnh thị trường.
2. Công tác giám định tổn thất

Khâu giám định tổn thất có vị trí quan trọng đối với cơng tác bồi
thường. Các giám định viên bảo hiểm có nhiệm vụ xác định : nguyên nhân
rủi ro có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không, giá trị thiệt hại thực tế là bao
nhiêu...
2.1 Điều tra tai nạn
Nhận được thông báo tai nạn, giám định viên bảo hiểm sẽ xuống
ngay hiện trường để nắm tình hình và điều tra tai nạn. Mục đích của việc
điều tra tai nạn là thu nhập các bằng chứng và sự kiện. Trên cơ sở đó giải
đáp các câu hỏi : tai nạn đã xảy ra như thế nào, ở đâu, khi nào, vì sao.
Muốn vậy trong quá trình điêù tra, giám định viên phải thu thập hai loại
thông tin : các tang vật và lời khai của nhân chứng.
- Tang vật : Là bất cứ một việc gì có liên quan giúp cho việc xác định
những sự việc liên quan đến tai nạn. Hầu hết các tang vật đều có thể tìm
thấy ở hiện trường hay cũng có thể tìm thấy ở nơi sửa chữa bị hư hại.
- Lời khai của nhân chứng : Là những lời kể, những câu trả lời của các
nhân chứng thường là những người có mặt ở nơi hiện trường khi xảy ra tai
nạn. Lời khai của nhân chứng cũng giúp cho việc xác định những vấn đề có
liên quan đến tai nạn. Người bảo hiểm cần có những khả năng phân tích

Tạ Quang Tuấn F4-K36

20


Chuyên đề tốt nghiệp

tìm ra những lời khai xác thực vì các lời khai của nhân chứng thường khác
nhau và có khi mâu thuẫn với nhau.
Ngồi việc tiếp xúc, trao đổi, hỏi chuyện với các nhân chứng, giám
định viên cần gặp gỡ, trao đổi với người được bảo hiểm, với cơng an

PCCC. Qua đó, ngun nhân Hoả hoạn, đánh giá sơ bộ và khái quát mức
độ thiệt hại.
2.2 Đề xuất các biện pháp hạn chế tổn thất
Thông thường sau khi gặp hoả hoạn, người được bảo hiểm rất hoang
mang và lúng túng khơng biết phải làm gì. Vì vậy trên cơ sở xem xét hiện
trường và song song với việc điều tra tai nạn, giám định viên bảo hiểm phải
góp ý kiến với người được bảo hiểm các biện pháp hạn chế tổn thất như
sau:
- Cách ly khu vực và tài sản bị thiệt hại.
- Rào kín những nơi mà người ngồi có thể đột nhập vào.
- Bơm rút nước cứu hoả còn đọng lại ra khỏi những nơi chứa tài sản
để tránh tài sản hư hỏng thêm.
- Di chuyển các mảnh đổ vỡ, tro than để cứu tài sản,
Qua quá trình điều tra, các giám định viên phải tìm ra được nguyên
nhân gây Hoả hoạn. Chú ý rằng đó phải là những nguyên nhân trực tiấp dẫn
đến hoả hoạn. Cuối cùng các giám định viên bảo hiểm sẽ xác định mức độ
thiệt hại và lập biên bản giám định. Biên bản giám định sẽ được trình lên
cơng ty một bản và Tổng công ty một bản.
3. Công tác bồi thường
Một trong những yêu cầu và cũng là một trong những phẩm chất
quan trọng đối với người làm công tác bảo hiểm là phải quan tâm và cảm
thông sâu sắc tới các nhu cầu và nguyện vọng của khách hàng. Phẩm chất
đó phải được thể hiện đặc biệt rõ nét trong khâu trong khâu giải quyết bồi
thường. Giải quyết bồi thường tốt có nghĩa là giải quyết nhanh và đúng đây là nhiệm vụ số một của người làm công tác bồi thường và là một trong
Tạ Quang Tuấn F4-K36

21


Chuyên đề tốt nghiệp


những biện pháp tuyên truyền có hiệu quả nhất, làm tăng uy tín của cơng ty
và có ảnh hưởng tích cực tới khâu khai thác bảo hiểm.
Đảm bảo được mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ của cơng tác bồi thường,
cán bộ công ty cần thực hiện tốt những bước sau :
3.1 Kiểm tra hồ sơ khiếu nại và xác định trách nhiệm bảo hiểm
Nhận được hồ sơ đòi bồi thường, người bảo hiểm phải kiểm tra, xem
xét hồ sơ có đầy đủ và hợp lệ khơng. Trường hợp hồ sơ thuộc trách nhiệm
bảo hiểm nhưng chưa đầy đủ thì phải yêu cầu khách hàng bổ sung kịp thời
và ngày trả lời khách hàng. Sau đó, cán bộ bồi thường xem xét đối chiếu
với quy tắc bảo hiểm và văn bằng hướng dẫn của Tổng công ty để xác định
trách nhiệm bảo hiểm. Cụ thể : khiếu nại có nằm trong phạm vi thoả thuận
bảo hiểm khơng; có điểm loại trừ nào tác động và ảnh hưởng đến khiếu nại
đó khơng; có điều kiện bảo hiểm nào bị vi phạm làm vơ hiệu hố hoặc thu
hẹp phạm vi được bảo hiểm của khiếu nại không ?
3.2 Xác định mức độ thiệt hại
Chức năng chính của cơng tác bảo hiểm là bồi thường những thiệt
hại thực tế xảy ra cho người tham gia bảo hiểm nhằm đảm bảo sản xuất
kinh doanh cho người được bảo hiểm. Xác định đúng giá trị thiệt hại mới
đảm bảo việc bồi thường thực sự đem lại hiệu quả cho người được bảo
hiểm.Việc xác định giá trị thiệt hại được tiến hành trên nguyên tắc : phải
xác định ngay tại thời điểm và địa điểm xảy ra tổn thất. Trên cơ sở biên bản
giám định về mức độ thiệt hại cùng các biên lai, chứng từ xác minh kèm
theo các hồ sơ khiếu nại, cán bộ bồi thường sẽ xác định được mức thiệt hại
thực tế của từng đối tượng bảo hiểm.
3.3 Xác định số tiền bồi thường
Nếu hồ sơ khiếu nại đã hợp lệ, đầy đủ, tổn thất đã được xác định là
thuộc phạm vi bảo hiểm và tính tốn được số tiền thiệt hại thì ta có thể tiến
hành xác định số tiền bồi thường.
Số tiền bồi thường xác định dựa trên các cơ sở sau :

Tạ Quang Tuấn F4-K36

22


Chuyên đề tốt nghiệp

- Giá trị thiệt hại thực tế
- Số tiền bồi thường (là giới hạn trên của số tiền bồi thường )
- Mức miễn thường : sẽ không phải bồi thường nếu tổn thất bằng hoặc
nhỏ hơn mức miễn thường. Nếu tổn thất lớn hơn mức miễn thường thì phải
trừ đi mức miễn thường ( trong trường hợp áp dụng mức miễn thường có
khấu trừ ).
Trước khi tính toán số tiền bồi thường, người được bảo hiểm cần
xem xét số tiền khách hàng đòi bồi thường là bao nhiêu. Nếu số tiền đó
bằng hoặc nhỏ hơn mức miễn thường thì khơng cần tính tốn mà có thể trả
lời ngay cho khách hàng là tổn thất không được bồi thường vì nằm trong
phạm vi mức miễn thường. Nếu tổn thất lớn hơn mức miễn thường thì phải
tính chi tiết mức độ thiệt hại.
Cụ thể :
* Đối với bảo hiểm Hoả hoạn :
Số tiền bảo hiểm
Số tiền bồi thường = Giá trị thiệt hại ×

____________________

Giá trị bảo hiểm
3.4 Lập hồ sơ bồi thường, giải quyết bồi thường và khiếu nại
Trên cơ sở tính tốn được số tiền bồi thường như trên, cán bộ bồi
thường sẽ lập hồ sơ bồi thường và trình lên lãnh đạo Tổng cơng ty xét

duyệt bồi thường. Sau khi có quyết định của lãnh đạo, cán bộ bồi thường sẽ
thông báo cho khách hàng cụ thể về mức bồi thường, thời gian, địa điểm
công ty bảo hiểm chi trả số tiến đó cũng như các giấy tờ cần thiết mà họ
phải có. Nếu khách hàng chấp nhận thì việc bồi thường sẽ được chuyển cho
phịng kế toán-tài vụ.
Trong thực tế, khâu bồi thường là khâu dễ phát sinh các tranh chấp,
khiếu nại khi khách hàng cho rằng số tiền bồi thường là chưa hợp lý. Bởi
vậy, cần xem xét nghiên cứu các ý kiến khiếu nại một cách khách quan.
Cũng cần lưu ý là trước khi chính thức bồi thường, trên cơ sở những thơng
Tạ Quang Tuấn F4-K36

23


Chuyên đề tốt nghiệp

tin nhận được và đánh giá chung, cán bộ bồi thường sớm ước tính số tiền
bồi thường và thông báo cho khách hàng biết trước để cho họ khơng bị bất
ngờ khi cơng bố số tiền chính thức. Cần chú ý lắng nghe nguyện vọng của
khách hàng, nhẹ nhàng và kiên nhẫn giải thích kỹ những thắc mắc của họ
ngay cả khi từ chối bồi thường.
4. Các biện pháp đề phịng Hoả hoạn
Mục tiêu của cơng tác phòng Hoả hoạn là đề phòng hoả hoạn phát
sinh và khơng cho đám Hoả hoạn lan rộng. Hiện nay có hai biện pháp
phòng Hoả hoạn là phòng Hoả hoạn bằng thiết kế xây dựng và sử dụng các
biện pháp quản lý.
+ Phòng Hoả hoạn bằng thiết kế xây dựng :nhằm cách ly các vật dễ Hoả
hoạn với nguồn lửa. Các nguồn lửa có thể phát sinh từ các thiết bị toả nhiệt,
bếp, lò sấy, lò sưởi, các thiết bị điện... Do vậy, việc thiết kế xây dựng cần
lưu ý tới việc bố trí các phịng ban, kho, phân xưởng cũng như các thiết bị

nội thất một cách hợp lý, đảm bảo độ an toàn cao.
+ Các biện pháp quản lý : Thực hiện các biện pháp quản lý là trách nhiệm
của người tham gia bảo hiểm. Dựa vào các quy định phòng Hoả hoạn và
chữa Hoả hoạn của Nhà nước và địa phương, các giám đốc, thủ trưởng đơn
vị cần đề ra nội quy, biện pháp PCCC cho cơ sở mình đồng thời có kế
hoạch giáo dục, đơn đốc, theo dõi, kiểm tra việc chấp hành nội quy, biện
pháp đó. Các cán bộ, công nhân phải triệt để chấp hành các nội quy PCCC
cũng như các tiêu chuẩn về an tồn trong hoạt động cơng tác, sản xuất..
Cùng với cảnh sát PCCC, các công ty bảo hiểm sẽ hướng dẫn người tham
gia bảo hiểm thực hiện tốt công tác PCCC ở các khu vực dễ xảy ra rủi ro,
đề nghị họ có các biện pháp ngăn ngừa kịp thời và hợp lý.
5. Công tác chữa Hoả hoạn
Trước hết cần trang bị các phương tiện thiết bị báo Hoả hoạn để xác
định vùng xảy ra Hoả hoạn nhằm hạn chế tổn thất đến mức tối thiểu. Thành
lập các đội cứu hoả ở các đơn vị cũng như trang bị các phương tiện dập lửa
Tạ Quang Tuấn F4-K36

24


Chuyên đề tốt nghiệp

thì mới đảm bảo chữa Hoả hoạn có hiệu quả và kịp thời. Các cơng ty bảo
hiểm qua việc tham quan các cơ sở bảo hiểm yêu cầu họ không những thực
hiện các nội quy PCCC mà còn phải tranh bị các thiết bị chữa Hoả hoạn
cần thiết.
III. Đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm Hoả
hoạn
1. Kết quả khai thác và thực hiện doanh thu
Công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước mỗi năm lại mang đến

những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động kinh doanh bảo
hiểm. Kinh tế phát triển cộng với cơ chế quản lý theo hướng thị trường đã
làm cho nhu cầu và khả năng tham gia bảo hiểm tăng.
Năm năm qua ( 91-95 ) là những năm khởi đầu cho nghiệp vụ bảo
hiểm Hoả hoạn. Do có sự nỗ lực của ban lãnh đạo Tổng công ty cũng như
các cán bộ trong công tác bảo hiểm Hoả hoạn nên kết quả nghiệp vụ này
ngày càng cao.Hơn một năm đầu triển khai nghiệp vụ ( 89-90 ) các đơn vị
tham gia cịn q ít ỏi. Trong số hàng vạn các xí nghiệp hoạt động trên
phạm vi cả nước thì đơn vị tham gia bảo hiểm Hoả hoạn chỉ dừng lại ở con
số trên dưới 100. Đây là những doanh nghiệp thực sự có nhu cầu và thường
là những công ty thuộc về ngành xăng dầu, do vậy khả năng xảy ra rủi ro là
rất lớn.
Nguyên nhân của tình trạng này là do bước đầu chuyển sang kinh tế
thị trường, nhiều đơn vị còn lúng túng, kinh doanh chưa ổn định nên khơng
có điều kiện tham gia bảo hiểm. Mặt khác do nước ta tồn tại quá lâu cơ chế
cũ, nên khi chuyển sang cơ chế mới, lãnh đạo các xí nghiệp cịn mang nặng
tư tưởng bao cấp, chưa thấy rõ được trách nhiệm phải bảo tồn vốn của
mình. Một phần nưã là về phía công ty, do đây là nghiệp vụ mới, cán bộ
làm cơng tác bảo hiểm Hoả hoạn chưa nhiều, chưa có kinh nghiệm. Hơn
nữa, cán bộ chưa phục vụ tận tình mà để khách hàng phải tự đến gõ cửa
công ty.
Tạ Quang Tuấn F4-K36

25


×