Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

những phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định ở công ty in tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.88 KB, 83 trang )

CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
LỜI NÓI ĐẦU
1. MỤC ĐÍCH VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU.
Vốn là chìa khoá, là điều kiện hàng đầu của mọi quá trình phát triển.
Do vậy, muốn sản xuất kinh doanh phải có vốn. Để quá trình sản xuất kinh
doanh được tiến hành một cách bình thường thì vấn đề đặt ra với các doanh
nghiệp hiện nay là phải tổ chức tốt công tác huy động và sử dụng vốn một
cách có hiệu quả, nói một cách khác là doanh nghiệp phải luôn luôn bảo toàn
và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Đây là một vấn đề có ý nghĩa rất quan
trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp giữ vững được sức mua của đồng
vốn trong điều kiện nền kinh tế có lạm phát và nhiều rủi ro, nâng cao được
năng lực hoạt động của đồng vốn đồng thời đánh giá được chất lượng quản lý
và sử dụng vốn của doanh nghiệp, giúp cho doanh nghiệp ngày càng vững
mạnh trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy các doanh nghiệp không thể không
bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đó là một nguyên tắc bất di bất
dịch trong nền kinh tế thị trường.
Trong những năm cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp ở nước ta, các
doanh nghiệp quốc doanh được Nhà nước giao chỉ tiêu, doanh nghiệp lấy việc
hoàn thành kế hoạch cấp trên giao làm mục đích sản xuất kinh doanh. Nhà
nước bao cấp về mọi mặt như: vốn, giá, thị trường tiêu thụ, lỗ Nhà nước bù
nên các doanh nghiệp quốc doanh không coi việc nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn là trách nhiệm của bản thân mình, mà là của Nhà nước. Doanh nghiệp chỉ
chạy đua với thành tích, với chỉ tiêu.
Từ khi Nhà nước ta chuyển đổi cơ chế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
bao cấp sang nền kinh tế thị trường lấy doanh lợi làm mục đích sản xuất kinh
doanh, nhiều thành phần kinh tế cùng song song tồn tại và cạnh tranh với
nhau. Những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì ngày càng đứng vững và
phát triển, ngược lại những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, vốn kinh doanh bị
TRUNG TÂM QTKDTH
1


CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
mất dần sau mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, doanh thu không bù đắp đủ chi
phí, không thể lập lại được quá trình tái sản xuất dẫn đến nguy cơ bên bờ vực
phá sản mà nguyên nhân chủ yếu là do việc tổ chức sử dụng vốn còn nhiều
hạn chế. Vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn được nhiều doanh nghiệp
quan tâm chú ý.
Xuất phát từ vai quan trọng của vốn cố định nói riêng và vốn kinh
doanh nói chung, kết hợp với thời gian thực tập tại Công ty In tài chính mà
mục đích nghiên cứu của đề tài là đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn cố định tại Công ty.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Đề tài lấy vốn cố định làm đối tượng nghiên cứu, lấy tình hình hoạt
động thực tế của Công ty In tài chính để làm cơ sở nghiên cứu phân tích. Thời
điểm nghiên cứu số liệu lấy thực tế qua 5 năm 1997 - 1998 - 1999 - 2000 -
2001.
3. KẾT CẤU CỦA CHUYÊN ĐỀ.
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục và
nhận xét của cơ sở thực tập, nội dung của chuyên đề được trình bày qua 3
chương:
Chương 1: Vốn cố định và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
cố định của các doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường.
Chương 2: Thực trạng Hiệu quả sử dụng vốn cố định tại Công ty in tài chính
Chương 3: Những phương hướng và biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn cố định ở Công ty In tài chính
TRUNG TÂM QTKDTH
2
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
CHƯƠNG 1
VỐN CỐ ĐỊNH VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG VỐN CỐ ĐỊNH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG ĐIỀU KIỆN

KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. VỐN CỐ ĐỊNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm, đặc điểm của tài sản cố định trong doanh nghiệp
Những năm gần đây nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế tập trung
quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Trong điều kiện đó, các mối quan hệ
hàng hoá, tiền tệ ngày càng được mở rộng và phát triển, xuất hiện các doanh
nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác nhau cùng song song tồn tại, cạnh
tranh lẫn nhau và bình đẳng trước pháp luật. Trong nền kinh tế quốc dân thì
mỗi doanh nghiệp là một tế bào kinh tế. Doanh nghiệp là một tổ chức được
thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động sản xuất kinh
doanh. Doanh nghiệp có thể thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn
của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, lao vụ, dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi.
Để tiến hành sản xuất sản phẩm, mọi doanh nghiệp đều cần phải có hai
yếu tố cơ bản, đó là sức lao động và tư liệu sản xuất. Căn cứ vào tính chất và
tác dụng khi tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất lại chia ra làm
hai bộ phận là đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Tài sản cố định (TSCĐ) là những tư liệu lao động chủ. Căn cứ vào tính
chất và tác dụng khi tham gia vào quá trình sản xuất, tư liệu sản xuất lại chia
ra làm hai bộ phận là đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Tài sản cố định (TSCĐ) là những tư liệu lao động chủ yếu được tham
gia một cách trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của
TRUNG TÂM QTKDTH
3
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
doanh nghiệp như máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, các công trình kiến
trúc Đặc điểm chung của các TSCĐ trong doanh nghiệp là tham gia vào
nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm với vai trò là các công cụ lao động. Trong
quá trình đó hình thái vật chất và đặc tính sử dụng ban đầu của TSCĐ là
không thay đổi, song giá trị của nó lại được chuyển dịch dần từng phần vào

giá trị sản phẩm sản xuất ra. Bộ phận giá trị chuyển dịch này cấu thành một
yếu tố chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi
sản phẩm được tiêu thụ.
Trong thực tế, tuỳ theo điều kiện kinh tế, yêu cầu và trình độ quản lý ở
từng thời kỳ nhất định mà người ta có những quy định thống nhất và tiêu
chuẩn giới hạn của một TSCĐ. Theo chế độ tài chính mới nhất qui định
những tư liệu lao động được coi là TSCĐ phải có đủ hai điều kiện sau:
- Có thời hạn sử dụng trên một năm.
- Có giá trị từ 5 triệu đồng Việt Nam trở lên.
Những tư liệu lao động nào không đủ một trong hai điều kiện trên sẽ
được coi là công cụ, dụng cụ thuộc tài sản lưu động và do nguồn vốn lưu
động tài trợ. Tuy nhiên do yêu cầu của công tác quản lý, trong một số trường
hợp có những tư liệu lao động dù giá trị và thời hạn sử dụng không đủ tiêu
chuẩn quy định nhưng vấn được coi là TSCĐ của doanh nghiệp như tổ hợp
các đồ dùng trong một phòng làm việc một khách sạn Mặt khác, trong
doanh nghiệp có một số khoản chi đầu tư cho sản xuất kinh doanh về tính chất
luân chuyển cũng tương tự như TSCĐ vì vậy được coi là các TSCĐ không có
hình thái vật chất (TSCĐ vô hình). Ví dụ như các khoản chi đầu tư mua các
bằng phát minh sáng chế, các chi phí cho việc nghiên cứu phát triển, nghiên
cứu ứng dụng, phát hiện, thăm dò
Từ những nội dung trình bày trên, có thể rút ra định nghĩa về TSCĐ
trong doanh nghiệp như sau:
Tài sản cố định trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ
yếu có giá trị lớn tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, giá
TRUNG TÂM QTKDTH
4
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
trị của tài sản cố định không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử dụng đầu tiên
mà nó được chuyển dịch dần dần từng phần vào giá thành sản phẩm trong các
chu kỳ sản xuất tiếp theo.

Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá, những TSCĐ đó không chỉ được
biểu hiện dưới hình thái vật chất mà còn dưới hình thái giá trị. Để đầu tư mua
sắm TSCĐ, doanh nghiệp cần phải bỏ ra một số vốn nhất định. Vì vậy, số
vốn ứng trước xây dựng, mua sắm TSCĐ được gọi là vốn cố định của doanh
nghiệp.
Trong các doanh nghiệp sản xuất, TSCĐ có nhiều loại khác nhau, mỗi
loại lại có những đặc điểm về tính chất kỹ thuật công dụng khác nhau, được
sử dụng trong những lĩnh vực hoạt động khác nhau của quá trình sản xuất
kinh doanh. Do vậy cần phân loại TSCĐ để có những biện pháp quản lý, sử
dụng có hiệu quả hơn.
Phân loại TSCĐ là việc phân chia toàn bộ TSCĐ hiện có của doanh
nghiệp theo những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho những yêu cầu quản
lý của doanh nghiệp. Thông thường có những cách phân loại TSCĐ chủ yếu
sau:
1.1.1. Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện
Theo phương pháp này TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai
loại: TSCĐ có hình thái vật chất (TSCĐ hữu hình) và TSCĐ không có hình
thái vật chất (TSCĐ vô hình)
* TSCĐ hữu hình là những TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể như nhà
xưởng, máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, các vật kiến trúc Những
TSCĐ này có thể là từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ
thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một
số chức năng nhất định trong quá trình sản xuất kinh doanh.
* TSCĐ vô hình là những TSCĐ không có hình thái vật chất cụ thể, thể
hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ
kinh doanh của doanh nghiệp như chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí
mua bằng phát minh sáng chế hay nhãn hiệu thương mại
TRUNG TÂM QTKDTH
5
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu đầu tư vào
TSCĐ hữu hình và vô hình. Đây là căn cứ quan trọng để xây dựng các quyết
định đầu tư hoặc điều chỉnh phương hướng đầu tư cho phù hợp với tình hình
thực tế và cũng là căn cứ để đưa ra các biện pháp quản lý tài sản, quản lý vốn,
tính toán khấu hao hợp lý.
1.1.2. Phân loại TSCĐ theo mục đích sử dụng
Theo tiêu thức này, toàn bộ TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành 3
loại:
* TSCĐ dùng cho mục đích kinh doanh: là những TSCĐ dùng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh cơ bản và hoạt động sản xuất kinh doanh phụ
của doanh nghiệp.
* TSCĐ dùng cho mục đích phúc lợi, sự nghiệp, an ninh quốc phòng: là
những TSCĐ do doanh nghiệp quản lý và sử dụng cho các hoạt động phúc
lợi, sự nghiệp (như các công trình phúc lợi), các TSCĐ sử dụng cho hoạt động
đảm bảo an ninh, quốc phòng của doanh nghiệp.
* Các TSCĐ bảo quản hộ, gửi hộ, cất giữ hộ Nhà nước: là những
TSCĐ doanh nghiệp bảo quản hộ, giữ hộ cho đơn vị khác hoặc cho Nhà nước
theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được cơ cấu TSCĐ của
mình theo mục đích sử dụng của nó. Từ đó có biện pháp quản lý TSCĐ theo
mục đích sử dụng sao cho có hiệu quả nhất.
1.1.3. Phân loại TSCĐ theo công dụng kinh tế
Căn cứ vào công dụng kinh tế của TSCĐ, toàn bộ TSCĐ của doanh
nghiệp có thể chia thành các loại sau:
* Nhà cửa, vật kiến trúc: là những TSCĐ của doanh nghiệp được hình
thành sau quá trình thi công xây dựng như: nhà xưởng, trụ sở làm việc, nhà
kho, cầu cảng
TRUNG TÂM QTKDTH
6
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

* Máy móc thiết bị: là toàn bộ các loại máy móc thiết bị dùng trong
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như: máy móc thiết bị động lực, máy
móc công tác, thiết bị chuyên dùng, những máy móc đơn lẻ.
* Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận
tải như: phương tiện đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường không, đường
ống và các thiết bị truyền dẫn như hệ thống điện, hệ thống thông tin, đường
ống dẫn nước
* Thiết bị, dụng cụ quản lý: là những thiết bị, dụng cụ dùng trong công
tác quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính,
thiết bị điện tử, dụng cụ đo lường, máy hút bụi
* Các loại TSCĐ khác: là toàn bộ các loại TSCĐ khác chưa liệt kê vào
5 loại trên như tác phẩm nghệ thuật tranh ảnh
Cách phân loại này cho thấy công dụng cụ thể của từng loại TSCĐ
trong doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý, sử dụng TSCĐ,
tính toán khấu hao TSCĐ chính xác.
1.1.4. Phân loại TSCĐ theo tình hình sử dụng
Căn cứ vào tình hình sử dụng TSCĐ, người ta chia TSCĐ của doanh
nghiệp thành các loại:
* TSCĐ đang sử dụng: là những TSCĐ của doanh nghiệp đang sử dụng
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc các hoạt động phúc lợi, sự
nghiệp, an ninh, quốc phòng của doanh nghiệp.
* TSCĐ chưa cần dùng: là những TSCĐ cần thiết cho hoạt động sản
xuất kinh doanh hay các hoạt động khác của doanh nghiệp song hiện tại chưa
cần dùng, đang được dự trữ để sử dụng sau này.
* TSCĐ không cần dùng chờ thanh lý: là những TSCĐ không cần thiết
hoặc không phù hợp với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, cần
được thanh lý, nhượng bán để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra ban đầu.
Cách phân loại này cho thấy mức độ sử dụng có hiệu quả của TSCĐ của
doanh nghiệp như thế nào, đồng thời tạo điều kiện cho việc phân tích, kiểm tra,
TRUNG TÂM QTKDTH

7
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
đánh giá tiềm lực sản xuất cần được khai thác, từ đó có biện pháp nâng cao hơn
nữa hiệu quả sử dụng TSCĐ.
1.1.5. Phân loại TSCĐ theo quan hệ sở hữu
Theo phương pháp này, TSCĐ của doanh nghiệp được chia thành hai
loại: TSCĐ chủ sở hữu (tự có) và TSCĐ thuê ngoài.
* TSCĐ chủ sở hữu (tự có) là các TSCĐ được xây dựng, mua sắm và
hình thành từ nguồn vốn ngân sách cấp hoặc cấp trên cấp, nguồn vốn vay,
nguồn vốn liên doanh, các quỹ của doanh nghiệp và các TSCĐ được tặng,
biếu Đây là những tài sản mà doanh nghiệp có quyền sử dụng lâu dài và
được phản ánh trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp.
* TSCĐ thuê ngoài là TSCĐ đi thuê để sử dụng trong một thời gian
nhất định theo hợp đồng đã ký kết gồm: TSCĐ thuê tài chính và TSCĐ thuê
hoạt động. Trong đó TSCĐ thuê tài chính cũng được coi như TSCĐ của doanh
nghiệp được phản ánh trên bảng cân đối kế toán. Doanh nghiệp có trách nhiệm
quản lý, sử dụng và trích khấu hao như các TSCĐ tự có của doanh nghiệp. Còn
đối với TSCĐ thuê hoạt động, doanh nghiệp chỉ được quản lý, sử dụng trong
thời hạn hợp đồng và phải hoàn trả khi kết thúc hợp đồng.
Cách phân loại này giúp cho người quản lý biết được nguồn gốc hình
thành các loại TSCĐ để có hướng sử dụng và trích khấu hao đúng, từ đó tổ
chức hạch toán TSCĐ được chặt chẽ, chính xác, thúc đẩy việc sử dụng TSCĐ
có hiệu quả cao.
Trên đây là những đặc điểm và thuộc tính của TSCĐ. Những đặc điểm
này sẽ chi phối đặc điểm tuần hoàn của vốn cố định. Từ đó có thể thấy được
bản chất vốn cố định và những đặc điểm tuần hoàn của nó.
1.2. Khái niệm, đặc điểm chu chuyển của vốn cố định.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc mua sắm xây dựng hay lắp
đặt các TSCĐ của doanh nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn
đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ của doanh

nghiệp đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu tư ứng trước để mua
TRUNG TÂM QTKDTH
8
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
sắm, xây dựng hay lắp đặt các TSCĐ hữu hình và vô hình được gọi là vốn cố
định của doanh nghiệp. Số vốn này nếu được sử dụng có hiệu quả sẽ không
mất đi, doanh nghiệp sẽ thu hồi lại được sau khi tiêu thụ các sản phẩm hàng
hoá hay dịch vụ của mình.
Là số vốn đầu tư ứng trước để mua sắm, xây dựng các TSCĐ nên quy
mô của vốn cố định (VCĐ) nhiều hay ít sẽ quyết định quy mô của TSCĐ, ảnh
hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, năng lực sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Song ngược lại những đặc điểm kinh tế của
TSCĐ trong quá trình sử dụng lại có ảnh hưởng quyết định chi phối đặc điểm
tuần hoàn và chu chuyển của VCĐ. Trên ý nghĩa của mối liên hệ đó, có thể
khái quát những nét đặc thù về sự vận động của VCĐ trong quá trình sản xuất
kinh doanh như sau:
- VCĐ tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm có đặc điểm này
là do TSCĐ được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất. Vì thế mà
VCĐ - hình thái biểu hiện bằng tiền của nó cũng tham gia vào các chu kỳ sản
xuất tương ứng.
- VCĐ được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận VCĐ được luân
chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu
hao) tương ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ.
- VCĐ sau nhiều chu kỳ sản xuất mới hoàn thành một vòng luân
chuyển.
Sau mỗi chu kỳ sản xuất, phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản
phẩm dần dần tăng lên. Song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại giảm
dần xuống cho đến khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được
chuyển dịch hết vào giá trị sản phẩm đã sản xuất thì VCĐ mới hoàn thành

một vòng luân chuyển.
TRUNG TÂM QTKDTH
9
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Những đặc điểm luân chuyển trên đây của VCĐ đòi hỏi việc quản lý
VCĐ phải luôn gắn liền với việc quản lý hình thái hiện vật của nó là các
TSCĐ của doanh nghiệp.
Từ những nội dung phân tích trên có thể đưa ra khái niệm về VCĐ như
sau:
Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư, ứng
trước về TSCĐ mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong
nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời
gian sử dụng.
TSCĐ và VCĐ có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản
xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Một cách chung nhất nó quyết định
đến trình độ sản xuất của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp ấy có khả năng
thực hiện được các mục tiêu của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Quy mô VCĐ càng lớn, trình độ trang bị kỹ thuật TSCĐ của doanh nghiệp
càng hiện đại chứng tỏ trình độ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng
cao. Chính vì vậy vấn đề đổi mới TSCĐ luôn là một yêu cầu cấp thiết đối với
các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay. Để đổi mới TSCĐ, quan trọng
nhất là cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ, có sử dụng tốt VCĐ thì mới
có điều kiện để đổi mới TSCĐ.
1.3. Khấu hao tài sản cố định.
1.3.1. Hao mòn tài sản cố định.
Trong quá trình sử dụng, do chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân
khác nhau, TSCĐ của doanh nghiệp bị hao mòn dưới hai hình thức: Hao mòn
hữu hình và hao mòn vô hình.
a. Hao mòn hữu hình.
Hao mòn hữu hình của TSCĐ là sự hao mòn về vật chất và giá trị của

TSCĐ trong quá trình sử dụng. Về mặt vật chất đó là sự hao mòn có thể nhận
thấy được từ sự thay đổi trạng thái vật lý ban đầu ở các bộ phận, chi tiết
TSCĐ dưới sự tác động của ma sát, tải trọng, nhiệt độ, hoá chất ; sự giảm
TRUNG TÂM QTKDTH
10
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
sút về chất lượng, tính năng kỹ thuật ban đầu trong quá trình sử dụng và cuối
cùng không còn sử dụng được nữa. Muốn khôi phục lại giá trị sử dụng của nó
phải tiến hành sửa chữa, thay thế. Về mặt giá trị, đó là sự giảm dần giá trị của
TSCĐ cùng với quá trình chuyển dịch dần từng phần giá trị hao mòn vào giá
trị sản phẩm sản xuất.
Nguyên nhân và mức độ hao mòn hữu hình trước hết phụ thuộc vào các
nhân tố trong quá trình sử dụng TSCĐ như thời gian và cường độ sử dụng,
việc chấp hành các quy phạm pháp luật trong sử dụng và bảo dưỡng TSCĐ.
Tiếp đến là các nhân tố về tự nhiên và môi trường sử dụng TSCĐ như nhiệt
độ, độ ẩm, tác động của các hoá chất Ngoài ra mức độ hao mòn hữu hình
còn phụ thuộc vào chất lượng chế tạo TSCĐ, ví dụ như chất lượng nguyên vật
liệu được sử dụng, công nghệ chế tạo
Việc nhận thức rõ các nguyên nhân ảnh hưởng đến mức hao mòn hữu
hình TSCĐ sẽ giúp các doanh nghiệp có biện pháp cần thiết, hữu hiệu để hạn
chế nó.
b. Hao mòn vô hình.
Hao mòn vô hình của TSCĐ là sự giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài
sản do có những TSCĐ cùng loại nhưng được sản xuất ra với giá rẻ hơn hoặc
hiện đại hơn.
Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hao mòn vô hình của TSCĐ, không phải
do chúng được sử dụng nhiều hay ít trong sản xuất mà là do tiến bộ khoa học
kỹ thuật. Trong điều kiện tăng trưởng mạnh mẽ về khoa học công nghệ hiện
nay, người ta có thể sản xuất ra được những loại máy móc có tính năng tác
dụng như máy cũ nhưng với giá hạ hơn hoặc sản xuất ra những loại máy có

cùng giá trị nhưng công suất lớn hơn, chất lượng tốt hơn. Do vậy, những máy
móc được sản xuất ở thời gian trước đây sẽ bị “mất giá” so với hiện tại, sự
“mất giá” đó chính là hao mòn vô hình. Hao mòn vô hình còn xuất hiện cả khi
chu kỳ sống của sản phẩm nào đó bị chấm dứt làm cho những máy móc để
chế tạo ra sản phẩm đó cũng bị lạc hậu, mất tác dụng.
TRUNG TÂM QTKDTH
11
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Để khắc phục hao mòn vô hình, các doanh nghiệp phải coi trọng đổi
mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất, ứng dụng kịp thời các thành tựu tiến bộ
khoa học. Điều đó có ý nghĩa rất quyết định trong việc tạo ra lợi thế cho
doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường.
1.3.2. Khấu hao TSCĐ và các phương pháp tính khấu hao TSCĐ
a. Khấu hao TSCĐ.
Để bù đắp giá trị TSCĐ bị hao mòn trong quá trình sản xuất kinh
doanh, doanh nghiệp phải chuyển dịch dần dần phần giá trị hao mòn đó vào
giá trị sản phẩm sản xuất trong kỳ gọi là khấu hao TSCĐ.
Vậy khấu hao TSCĐ là việc chuyển dịch phần giá trị hao mòn của
TSCĐ trong quá trình sử dụng vào giá trị sản phẩm sản xuất ra theo các
phương pháp tính toán thích hợp.
Mục đích của khấu hao TSCĐ là nhằm tích luỹ vốn để tái sản xuất giản
đơn hoặc tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Bộ phận giá trị hao mòn được chuyển
dịch vào giá trị sản phẩm được coi là một yếu tố chi phí sản xuất sản phẩm
biêủ hiện dưới hình thức tiền tệ gọi là tiền khấu hao TSCĐ. Sau khi sản phẩm
hàng hoá được tiêu thụ, số tiền khấu hao được tích luỹ lại hình thành quỹ
khấu hao TSCĐ của doanh nghiệp, quỹ khấu hao dùng để tái sản xuất giản
đơn TSCĐ. Song trên thực tế, trong điều kiện tiến bộ về khoa học kỹ thuật,
quỹ khấu hao có khả năng tái sản xuất mở rộng TSCĐ. Khả năng này có thể
thực hiện bằng cách: Các doanh nghiệp sẽ sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao
được tích luỹ hàng năm như một nguồn tài chính bổ sung cho các mục đích

đầu tư phục vụ sản xuất kinh doanh để có doanh lợi (trên nguyên tắc được
hoàn quỹ). Hoặc nhờ nguồn này, đơn vị có thể đầu tư đổi mới TSCĐ ở những
năm sau trên một quy mô lớn hơn hoặc trang bị máy móc hiện đại hơn. Trên ý
nghĩa đó, quỹ khấu hao còn được coi là một nguồn tài chính quan trọng để tái
sản xuất mở rộng TSCĐ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
b. Các phương pháp tính khấu hao TSCĐ
TRUNG TÂM QTKDTH
12
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Việc tính khấu hao TSCĐ trong các doanh nghiệp có thể được thực
hiện theo nhiều phương pháp khác nhau. Thông thường có các phương pháp
cơ bản sau:
* Phương pháp khấu hao bình quân (hay còn gọi là phương pháp tuyến
tính cố định).
Đây là phương pháp khấu hao đơn giản nhất, được sử dụng khá phổ
biến để tính khấu hao các loại TSCĐ. Theo phương pháp này tỷ lệ khấu hao
và mức khấu hao hàng năm được xác định theo mức không đổi trong suốt thời
gian sử dụng TSCĐ. Mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao hàng năm được xác
định theo công thức:
M
KH
=
G
đ
T
T
KH
=
M
KH

T
Trong đó:
M
KH
: Mức khấu hao trung bình hàng năm.
T
KH
: Tỷ lệ khấu hao trung bình hàng năm.
G
đ
: Nguyên giá TSCĐ.
T: Thời gian sử dụng của TSCĐ (năm)
Nếu doanh nghiệp trích khấu hao hàng tháng thì lấy mức khấu hao
hàng năm chia cho 12 tháng.
Ưu điểm của phương pháp khấu hao bình quân là tính toán đơn giản, dễ
hiểu. Mức khấu hao tính vào giá thành đều đặn làm cho giá thành ổn định.
Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm là không phản ánh chính xác
mức độ hao mòn thực tế của TSCĐ vào giá thành sản phẩm trong các thời kỳ
sử dụng khác nhau; khả năng thu hồi vốn chậm làm TSCĐ chịu ảnh hưởng
bất lợi của hao mòn vô hình.
* Phương pháp khấu hao giảm dần.
Phương pháp khấu hao này gồm hai phương pháp: Khấu hao theo số dư
giảm dần và khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng.
- Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần
TRUNG TÂM QTKDTH
13
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Thực chất của phương pháp này là số tiền khấu hao hàng năm được
tính bằng cách: lấy giá trị còn lại của TSCĐ theo thời hạn sử dụng nhân với tỷ
lệ khấu hao không đổi. Như vậy mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao theo thời hạn

sử dụng TSCĐ sẽ giảm dần. Công thức tính tỷ lệ khấu hao hàng năm theo thời
hạn sử dụng như sau:
T
KH
= 1 -
G
đ
. t
G
C
Trong đó:
T
KH
: Tỷ lệ khấu hao hàng năm
G
C
: Giá trị còn lại của TSCĐ ở cuối năm tính toán
G
đ
: nguyên giá của TSCĐ
t: Thời điểm của năm cần tính khấu hao
- Phương pháp khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử dụng.
Theo phương pháp này, số tiền khấu hao hàng năm được tính bằng cách
nhân giá trị ban đầu của TSCĐ với tỷ lệ khấu hao giảm dần qua các năm. Tỷ
lệ khấu hao này được xác định bằng cách lấy số năm sử dụng còn lại chia cho
tổng số thứ tự năm sử dụng.
Công thức tính như sau:
T
KH
=

t
T
Trong đó:
T
KH
: Tỷ lệ khấu hao theo năm sử dụng
T: Thời gian dự kiến sử dụng TSCĐ
t: Thứ tự năm cần tính tỷ lệ khấu hao.
Phương pháp khấu hao giảm dần có ưu điểm là phản ánh chính xác hơn
mức hao mòn TSCĐ vào giá trị sản phẩm, thu hồi vốn nhanh nên hạn chế
được ảnh hưởng của hao mòn vô hình. Tuy nhiên nhược điểm của phương
pháp này là việc tính toán mức khấu hao và tỷ lệ khấu hao hàng năm sẽ phức
tạp, số tiền trích khấu hao luỹ kế đến năm cuối cùng cũng chưa đủ bù đắp
toàn bộ giá trị đầu tư ban đầu vào TSCĐ.
TRUNG TÂM QTKDTH
14
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Trên thực tế người ta có thể sử dụng kết hợp phương pháp khấu hao
bình quân với phương pháp khấu hao giảm dần bằng cách: trong những năm
đầu sử dụng TSCĐ thì áp dụng phương pháp khấu hao giảm dần, còn những
năm cuối thì thực hiện phương pháp khấu hao bình quân. Bằng cách này có
thể hạn chế được hao mòn vô hình và số khấu hao luỹ kế đến năm cuối cùng
sẽ bù đắp được giá trị ban đầu của TSCĐ.
Việc nghiên cứu các phương pháp khấu hao TSCĐ là một căn cứ quan
trọng giúp cho các doanh nghiệp lựa chọn phương pháp khấu hao phù hợp với
chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp mình, đảm bảo cho việc thu hồi, bảo
toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Đồng thời cũng là căn cứ cho việc
lập kế hoạch khấu hao TSCĐ của các doanh nghiệp.
2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỐ ĐỊNH
TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP.

2.1. Hiệu quả sử dụng vốn cố định (VCĐ).
Trong các doanh nghiệp, VCĐ là một bộ phận quan trọng của vốn đầu
tư nói riêng và của vốn sản xuất nói chung. Quy mô của VCĐ và trình độ
quản lý, sử dụng nó là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến tình hình trang bị cơ
sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp. Do ở một vị trí then chốt và đặc điểm
vận động của nó lại tuân theo tính quy luật riêng nên việc quản lý VCĐ được
coi là một trọng điểm của công tác tài chính doanh nghiệp.
Như đã trình bày ở trên, phải trải qua một thời gian dài VCĐ mới hoàn
thành được một vòng luân chuyển. Vấn đề đặt ra thu hút sự quan tâm của các
nhà quản lý doanh nghiệp ở đây là làm thế nào để VCĐ trong suốt thời gian
dài tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra được nhiều sản phẩm mang lại
nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hay nói cách khác là làm thế nào để sử
dụng VCĐ một cách có hiệu quả nhằm thực hiện được mục đích kinh doanh
của doanh nghiệp. Vậy hiệu quả sử dụng VCĐ là gì ? Trong các doanh nghiệp
nó được đánh giá thông qua các chỉ tiêu nào ?
TRUNG TÂM QTKDTH
15
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Trước hết nói về hiệu quả sử dụng VCĐ trong doanh nghiệp. Hiệu quả
kinh tế của sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng VCĐ nói riêng
được biểu thị qua mối quan hệ giữa kết quả đạt được trong quá trình sản xuất
với chi phí về lao động sống và lao động vật hoá bỏ ra để đạt được kết quả
trên.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh phải bao gồm cả hai mặt: Hiệu quả kinh
tế và hiệu quả xã hội. Hai mặt này liên quan chặt chẽ với nhau và thể hiện nội
dung cơ bản của hiệu quả sản xuất. Trong đó hiệu quả kinh tế là cơ sở vật
chất của hiệu quả xã hội, hiệu quả xã hội tạo điều kiện tốt hơn để thu được
hiệu quả kinh tế cao hơn.
Như vậy, ta có thể thấy rằng: Hiệu quả sử dụng VCĐ là mối quan hệ
giữa kết quả đạt được trong quá trình khai thác sử dụng VCĐ vào sản xuất với

số VCĐ đã sử dụng để đạt được kết quả đó.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, bất kỳ một doanh nghiệp nào
khi sử dụng vốn vào sản xuất nói chung và VCĐ nói riêng đều phải quan tâm
đến hiệu quả nó mang lại. Để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ trong các
doanh nghiệp, người ta thường dùng một hệ thống các chỉ tiêu bao gồm các
chỉ tiêu tổng hợp và các chỉ tiêu phân tích.
Các chỉ tiêu tổng hợp nhằm phản ánh về mặt chất của việc sử dụng
VCĐ doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu này, người quản lý có thể so sánh
kết quả quản lý giữa kỳ này với kỳ trước, giữa doanh nghiệp mình với các
doanh nghiệp khác có quy mô tương tự để rút ra những trọng điểm cần quản
lý. Thuộc loại này bao gồm các chỉ tiêu sau:
- Hiệu suất sử dụng vốn cố định: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn
cố định có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần trong
kỳ.
Hiệu suất sử dụng vốn
cố định
=
Doanh thu ( hoặc doanh thu thuần) trong kỳ
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
TRUNG TÂM QTKDTH
16
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Số vốn cố định bình quân trong kỳ được tính theo phương pháp bình
quân số học giữa số vốn cố định ở đầu kỳ và cuối kỳ.
Số vốn cố định
bình quân trong kỳ
=
Số vốn cố định đầu kỳ + Số vốn cố định cuối kỳ
2
Trong đó:

Số vốn cố định đầu kỳ = Nguyên giá TSCĐ đầu kỳ - Số khấu hao luỹ kế đầu kỳ
Số vốn cố định cuối kỳ = Nguyên giá TSCĐ cuối kỳ - Số khấu hao luỹ kế cuối kỳ
- Hàm lượng vốn cố định: Chỉ tiêu này là đại lượng nghịch đảo của chỉ
tiêu hiệu suất sử dụng vốn cố định. Nó phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu
hoặc doanh thu thuần cần bao nhiều đồng vốn cố định.
Hàm lượng vốn cố định =
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Doanh thu ( hoặc doanh thu thuần) trong kỳ
- Hiệu quả sử dụng vốn cố định (tỷ suất lợi nhuận vốn cố định): Chỉ
tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ có thể tạo ra bao nhiều đồng
lợi nhuận trước thuế (hoặc sau thuế). Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh
giá chất lượng và hiệu quả đầu tư cũng như chất lượng sử dụng vốn cố định
của doanh nghiệp.
Tỷ suất lợi nhuận
vốn cố định
=
Lợi nhuận trước thuế ( hoặc sau thuế) trong kỳ
Số vốn cố định bình quân trong kỳ
Bên cạnh những chỉ tiêu tổng hợp nêu trên, người ta còn sử dụng một
số chỉ tiêu phân tích để phản ánh từng mặt của việc sử dụng vốn cố định trong
kỳ. Thuộc các chỉ tiêu phân tích bao gồm các chỉ tiêu sau:
- Hệ số hao mòn TSCĐ: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ hao mòn của
TSCĐ trong doanh nghiệp so với thời điểm đầu tư ban đầu.
Hệ số hao mòn
T
S
C
Đ
=
Số tiền khấu hao kuỹ kế

Nguyên giá TSCĐ ở thời điểm đánh giá
TRUNG TÂM QTKDTH
17
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
- Hiệu suất sử dụng TSCĐ: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng TSCĐ
trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần.
Hiệu suất sử
dụng TSCĐ
=
DT ( hoặc DT thuần ) trong kỳ
Nguyên giá TSCĐ bình quân trong kỳ
- Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp: Chỉ tiêu này phản ánh quan hệ tỷ lệ
giữa giá trị từng nhóm, loại TSCĐ trong tổng số giá trị TSCĐ của doanh
nghiệp ở thời điểm đánh giá. Chỉ tiêu này giúp cho doanh nghiệp đánh giá
mức độ hợp lý trong cơ cấu TSCĐ được trang bị ở doanh nghiệp, từ đó có
biện pháp đầu tư, điều chỉnh lại cơ cấu TSCĐ nhằm nâng cao hiệu suất sử
dụng vốn của doanh nghiệp.
Trên đây là những chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu phân tích chủ yếu nhằm
phục vụ cho việc kiểm tra tài chính đối voíư việc sử dụng VCĐ của mỗi
doanh nghiệp. Khi đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ cần phải kết hợp các hai
loại chỉ tiêu trên để rút ra được những kết luận đúng đắn. Ngoài ra, vì TSCĐ
gồm nhiều loại nên phải kết hợp xem xét các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của từng
loại cụ thể về mặt hiện vật để đánh giá được toàn diện và chính xác hiệu quả
sử dụng VCĐ.
Qua phương pháp xác định hiệu quả sử dụng VCĐ trên đây chúng ta
thấy rằng: Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ có nghĩa là khai thác một cách
triệt để khả năng hiện có của doanh nghiệp, phát huy hết công suất thiết kế
của máy móc, thiết bị, tận dụng một cách tối đa giờ máy để từ đó tạo ra
nhiều sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp làm cho kết quả thu được
trên một đồng chi phí về TSCĐ (VCĐ) ngày một tăng. Điều đó có nghĩa là

khi hiệu quả sử dụng VCĐ được nâng lên thì với một đồng vốn bỏ ra sẽ cho
kết quả nhiều hơn, tốt hơn cho doanh nghiệp.
Như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là một trong những phương
pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp. Do đó
các doanh nghiệp phải thường xuyên nắm vững tình hình sử dụng VCĐ để đề
TRUNG TÂM QTKDTH
18
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
ra những biện pháp tích cực nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ trong
doanh nghiệp.
2.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp sản xuất là vấn đề cần thiết cấp bách, có ảnh
hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, điều đó xuất phát
từ các lý do chủ yếu sau:
- Xuất phát từ mục đích kinh doanh của doanh nghiệp với bất kỳ một
doanh nghiệp nào khi tiến hành sản xuất kinh doanh đều hướng tới mục tiêu
lợi nhuận. Từ góc độ của doanh nghiệp có thể thấy rằng: Lợi nhuận của doanh
nghiệp là khoản tiền chênh lệch giữa thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp bỏ
ra để đạt được thu nhập từ các hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại.
Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nói lên kết quả của toàn bộ
hoạt động sản xuất kinh doanh và là nguồn tích luỹ cơ bản để tái sản xuất mở
rộng. Đặc biệt trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường,
doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không thì điều quyết định là
doanh nghiệp tạo ra được lợi nhuận hay không. Vì thế lợi nhuận được coi là
một trong những đòn bẩy quan trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản để đánh
giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận tác động đến tất cả các mặt hoạt
động của doanh nghiệp. Việc thực hiện được chỉ tiêu lợi nhuận là một điều
quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững

chắc. Chính vì vậy, sản xuất kinh doanh như thế nào để có lợi nhuận là mục
tiêu phấn đấu của tất cả các doanh nghiệp.
Để đạt được điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường công tác
tổ chức và quản lý sản xuất, trong đó có vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng
VCĐ, có như vậy mới đem lại được lợi nhuận cao, góp phần thúc đẩy doanh
nghiệp ngày càng phát triển.
- Xuất phát từ vị trí, vai trò của VCĐ trong quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. VCĐ của doanh nghiệp là thành phần cơ bản của
TRUNG TÂM QTKDTH
19
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
vốn sản xuất kinh doanh. Nó gắn liền với quy mô hoạt động và khả năng cạnh
tranh của doanh nghiệp đồng thời thể hiện một cách chính xác nhất trình độ
trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của mỗi doanh nghiệp. Do vậy nâng cao hiệu
quả sử dụng VCĐ sẽ làm cho hiệu quả sử dụng vốn sản xuất tăng lên. Đó
cũng chính là mục tiêu cần đạt tới của việc sử dụng vốn trong quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Xuất phát từ ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ. Hiệu
quả sử dụng VCĐ là chỉ tiêu chất lượng phản ánh tổng hợp những cố gắng,
những biện pháp hữu hiệu về kỹ thuật, về tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý
doanh nghiệp nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Chất lượng sản xuất cao sẽ
thu được nhiều lãi, hoàn vốn nhanh. Đây cũng là mục tiêu phấn đấu của mọi
doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh.
Như vậy nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là đảm bảo với số vốn hiện
có, bằng các biện pháp quản lý và sử dụng tổng hợp nhằm khai thác triệt để
mọi khả năng để có thể mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ phải được biểu hiện trên hai khía
cạnh:
Một là, với số vốn hiện có có thể sản xuất ra được một số lượng sản
phẩm lớn hơn trước với chất lượng tốt hơn, giá thành hạ để tăng được lợi

nhuận cho doanh nghiệp.
Hai là, đầu tư thêm VCĐ một cách hợp lý nhằm mở rộng quy mô sản
xuất để tăng doanh số tiêu thụ với yêu cầu đảm bảo tốc độ tăng lợi nhuận phải
lớn hơn tốc độ tăng của vốn.
Trong điều kiện của cơ chế thị trường, mục tiêu hàng đầu của các
doanh nghiệp là phải hướng tới lợi nhuận tối đa. Việc hoàn thành kế hoạch
sản xuất phải được đặt trên cơ sở hoàn thành kế hoạch lợi nhuận. Vì thế trong
điều kiện cơ chế thị trường, chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá chất lượng và
hiệu quả đầu tư cũng như chất lượng sử dụng VCĐ của doanh nghiệp là lợi
nhuận.
TRUNG TÂM QTKDTH
20
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là một vấn đề cần thiết và là
điểm đầu tiên quyết định sự tồn tại, phát triển của một tổ chức kinh tế trong
điều kiện nền kinh tế mới.
Đối với nước ta hiện nay, đang trong chặng đường đầu của công cuộc
công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo con đường chủ nghĩa xã hội, cơ sở vật
chất kỹ thuật được xây dựng và phát triển với tốc độ cao, TSCĐ được huy
động vào sản xuất ngày càng nhiều. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng
VCĐ được coi là một trong những nội dung cơ bản của công tác quản lý sản
xuất nói chung và kế hoạch sử dụng VCĐ nói riêng. Điều đó xuất phát từ ý
nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ.
Để thực hiện nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ, doanh nghiệp cần phải
khai thác triệt để khả năng tiềm tàng của TSCĐ, phát huy hết công suất của
nó, tận dụng tối đa giờ máy, tăng cường độ làm việc, lựa chọn đầu tư hợp lý
Như vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ có tác dụng thúc đẩy năng suất lao
động tăng lên, nâng cao trình độ công nghệ sản xuất. Từ đó làm tăng số lượng
sản phẩm sản xuất ra trên một đơn vị TSCĐ, giảm lao động vật hoá tiêu hao
trong một đơn vị sản phẩm và tiết kiệm lao động sống trong quá trình sản xuất

kinh doanh, làm cho giá thành hạ, chất lượng sản phẩm được đảm bảo, công
tác tiêu thụ được đẩy mạnh làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ còn có ý nghĩa thúc đẩy vòng chu
chuyển của VCĐ tăng nhanh, tạo điều kiện rút ngắn thời gian hao mòn vô
hình và hữu hình, từ đó thúc đẩy nhanh nhịp độ đổi mới TSCĐ theo kịp với
tốc độ phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nâng cao hiệu quả sử dụng
VCĐ còn đồng nghĩa với việc mở rộng sản xuất mà không cần bỏ thêm vốn
đầu tư xây dựng cơ bản để xây dựng mới TSCĐ. Do đó tiết kiệm được vốn
mà vẫn tăng doanh lợi cho doanh nghiệp, làm cho quá trình sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp thực sự mang lại hiệu quả kinh tế cao và ngày một
phát triển.
TRUNG TÂM QTKDTH
21
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Qua đây chúng ta thấy được việc nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ có ý
nghĩa vô cùng to lớn đối với sự tồn tại và phát triển của nền sản xuất nói
chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng. Đặc biệt trong cơ chế thị trường hiện
nay, vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ là rất cần thiết và cấp bách, nhất
là đối với các doanh nghiệp Nhà nước bởi các lý do sau:
* Thứ nhất: Do tác động của cơ chế mới. Hiện nay các doanh nghiệp
hoạt động theo cơ chế thị trường có nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại phát
triển và cạnh tranh với nhau. Khi đó các doanh nghiệp Nhà nước muốn đứng
vững trên thị trường thì nhất thiết phải sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao,
đảm bảo không những duy trì bảo toàn được đồng vốn hiện có mà phải làm
cho đồng vốn đó ngày càng tăng lên tức là kinh doanh phải có lãi. Điều đó đòi
hỏi các doanh nghiệp phải thực hiện tốt việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
nói chung và VCĐ nói riêng. Mặt khác trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý
hiện nay các doanh nghiệp thực sự là một đơn vị kinh tế tự chủ, tự tổ chức
quá trình sản xuất kinh doanh, tự tìm hiểu thị trường, tự chủ trong việc tìm
đầu vào và đầu ra của sản xuất, tự chịu trách nhiệm trong quá trình sản xuất

kinh doanh của mình. Do vậy vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói
chung và VCĐ nói riêng ngày càng trở nên thiết thực và cấp bách hơn.
* Thứ hai: Trong thời gian qua, tình trạng quản lý và sử dụng VCĐ của
các doanh nghiệp ở nước ta còn rất thấp, gây ảnh hưởng không nhỏ đến kết
quả sản xuất kinh doanh.
Như chúng ta đã biết, để tiến hành sản xuất kinh doanh thì bất kỳ một
doanh nghiệp nào cũng cần phải có vốn. Trong các doanh nghiệp, vốn được
hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Đối với nguồn vốn dùng để đầu tư mua
sắm TSCĐ bao gồm:
- Nguồn vốn pháp định: gồm VCĐ do ngân sách cấp, do cấp trên cấp
phát cho doanh nghiệp (đối với các doanh nghiệp Nhà nước).
TRUNG TÂM QTKDTH
22
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
- Nguồn vốn tự bổ sung: được bổ sung từ kết quả hoạt động sản xuất
kinh doanh theo quy định của cơ chế tài chính hoặc quyết định của chủ sở hữu
vốn dùng để mua sắm, đổi mới máy móc thiết bị.
- Nguồn vốn liên doanh: gồm các khoản do các đơn vị tham gia liên
doanh góp vốn bằng TSCĐ và góp bằng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã hoàn
thành.
- Nguồn vốn vay: gồm các khoản vay Ngân hàng, vay các tổ chức kinh
tế khác để đầu tư vào TSCĐ, hoặc các khoản huy động được từ phát hành cổ
phiếu, trái phiếu
Thực tế trong điều kiện sản xuất chưa phát triển, hiệu quả kinh tế đạt
được nhìn chung còn thấp, trình độ quản lý còn non kém, quá trình sản xuất
kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn thì việc bổ sung VCĐ bằng các quỹ của
doanh nghiệp còn rất hạn chế. Mặt khác, các doanh nghiệp làm ăn còn kém
hiệu quả nên việc liên doanh liên kết và huy động vốn liên doanh của các đơn
vị khác sẽ rất khó khăn. Bởi vì khi đem đồng vốn đi góp vốn liên doanh các
nhà kinh tế phải phân tích hiệu quả kinh tế của đồng vốn đem đi góp, phân

tích tình hình sản xuất của doanh nghiệp định liên doanh làm ăn có hiệu quả
hay không? Chính vì vậy mà nguồn VCĐ huy động từ liên doanh hay các
nguồn khai thác từ bên ngoài cũng chỉ đạt được ở một mức độ nhất định. Vì
vậy nguồn VCĐ của doanh nghiệp chủ yếu là do nguồn vốn Ngân sách cấp.
Theo quy định hiện hành thì doanh nghiệp Nhà nước được cấp không VCĐ.
VCĐ có vòng luân chuyển chậm (đối với máy móc thiết bị trung bình từ 15
đến 20 năm) do đó làm cho doanh nghiệp không thấy căng thẳng về tài chính
dẫn đến tình trạng ít quan tâm đến việc tính toán hiệu quả đầu tư VCĐ đưa
đến tình trạng TSCĐ được trang bị một cách chắp vá, không đồng bộ theo
một cơ cấu bất hợp lý. Việc lắp đặt, sử dụng, bảo dưỡng và sửa chữa kém nên
TSCĐ không phát huy hết năng lực nên hiệu quả sử dụng TSCĐ thấp, làm
thất thoát VCĐ.
TRUNG TÂM QTKDTH
23
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Việc quản lý TSCĐ còn nhiều thiếu sót, việc phân loại TSCĐ, tính toán
từng loại TSCĐ trong tổng số chưa hợp lý. Có những doanh nghiệp mà loại
TSCĐ chưa dùng và không dùng chờ thanh lý vẫn còn có tiềm lực tận dụng
phục vụ sản xuất nhưng chưa được sử dụng hợp lý. Không ít doanh nghiệp
chỉ quan tâm đầu tư TSCĐ có tính chất phục vụ sản xuất, phục vụ quản lý và
làm việc mà không chú ý đầu tư tăng TSCĐ trực tiếp sản xuất ra sản phẩm.
Việc trang bị thiết bị máy móc thiếu đồng bộ, trình độ tổ chức quản lý của các
doanh nghiệp còn thấp, công tác quản lý và sử dụng TSCĐ còn nhiều tồn tại.
Cụ thể là:
+ Trong các doanh nghiệp Nhà nước cơ cấu TSCĐ thường không hợp
lý. Tỷ trọng giá trị máy móc thiết bị sản xuất trong tổng giá trị TSCĐ còn
thấp. Phần lớn các TSCĐ thuộc thế hệ cũ, năng lực sản xuất hạn chế, mức huy
động vào sản xuất chưa cao. Máy móc thiết bị dây chuyền công nghệ trong
các doanh nghiệp Nhà nước còn lạc hậu, năng suất thấp, tiêu hao năng lượng
nhiên liệu nhiều, mức huy động vào sản xuất mới chỉ đạt 25 - 30% công suất

máy móc thiết bị. Trong công tác đầu tư doanh nghiệp chưa chú trọng quan
tâm đến yếu tố tiến bộ khoa học kỹ thuật. Vì vậy mà phần lớn máy móc thiết
bị được trang bị chưa đạt được trình độ công nghệ hiện đại, công suất thấp
nên việc sử dụng TSCĐ còn kém hiệu quả.
+ Trong doanh nghiệp chưa thực hiện tốt việc phân loại cũng như phân
cấp quản lý TSCĐ. Việc giao TSCĐ cho từng bộ phận, từng cá nhân chưa
chặt chẽ rõ ràng, việc sử dụng TSCĐ chưa đúng quy chế, chế độ bảo dưỡng
sửa chữa, mua sắm không đúng chế độ làm cho TSCĐ bị hư hỏng trước thời
hạn, năng lực sản xuất bị giảm sút. Bên cạnh đó còn có một số nguyên nhân
khác tác động dẫn đến tình trạng máy móc thiết bị phải ngừng hoạt động làm
gián đoạn quá trình sản xuất, ảnh hưởng đến nhịp điệu sản xuất chung gây
lãng phí vốn bỏ ra.
+ Việc lập kế hoạch trích khấu hao không phù hợp với sự biến động
của giá cả nên không tránh khỏi hao mòn hữu hình và vô hình. Vấn đề đặt ra
TRUNG TÂM QTKDTH
24
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
là làm thế nào để có thể tái sản xuất lại được các tài sản đó. Đặc biệt trong
điều kiện khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, việc khấu hao TSCĐ phải
có một phương thức thích hợp để tránh được hao mòn vô hình. Những năm
qua việc trích khấu hao thấp hơn hao mòn rất phổ biến, việc sử dụng quỹ khấu
hao trong các doanh nghiệp chưa đúng mục đích. Nhiều doanh nghiệp vẫn
còn tồn tại tình trạng thiếu trách nhiệm, thiếu sự quan tâm đúng mức trước
hiệu quả đầu tư và sử dụng máy móc thiết bị, làm hạn chế rất lớn đến việc bảo
toàn vốn trong các doanh nghiệp Nhà nước.
+ Ý thức lao động của con người còn ở mức độ thấp chưa có tính tự
giác. Bên cạnh đó việc quản lý lại còn nhiều thiếu sót chưa có chế độ thưởng
phạt nghiêm minh trong trách nhiệm bảo quản TSCĐ của cán bộ công nhân
viên. Các cơ quản chủ quản cấp trên còn chậm trễ trong việc xây dựng, đổi
mới cơ chế tài chính về quản lý vốn đầu tư vào TSCĐ, thiếu các chế độ quy

định về nguyên tắc và phương pháp đánh giá TSCĐ. Chính vì vậy mà hiệu
quả sử dụng VCĐ trong các doanh nghiệp còn rất thấp.
Từ việc sử dụng kém hiệu quả VCĐ nêu trên đã dẫn đến tình trạng sản
phẩm làm ra bị hạn chế về chủng loại, mẫu mã không hợp lý ít được cải thiện
để phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng, chất lượng sản phẩm thấp không
đủ điều kiện để cạnh tranh ngay cả ở thị trường trong nước. Do đó nếu không
có sự thay đổi lớn thì triển vọng và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp
Nhà nước rất khó khăn, dẫn đến nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh làm ăn thua
lỗ có nguy cơ bị phá sản.
Qua những nội dung phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng việc nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung và VCĐ nói riêng có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp, quyết định đến sự
tăng trưởng và phát triển của mỗi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Chính sự cần thiết và cấp bách của vấn đề này đòi hỏi doanh nghiệp phải tìm
mọi biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ.
3. Các nhân tố ảnh hưởng và các biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn cố định.
TRUNG TÂM QTKDTH
25

×