LUẬN VĂN:
Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử
dụng TSCĐ tại Công ty cổ phần vật
liệu xây dựng Bưu điện
Lời mở đầu
Với điều kiện nền kinh tế hội nhập như hiện nay thì các doanh nghiệp trong nước
luôn gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ phía các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Do đó
các doanh nghiệp luôn phải tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm,tiếp
thu khoa học kĩ thuật để có thể tạo ra sản phẩm có chất lượng cao với giá cả cạnh tranh.
Để là được như thế thì việc sử dụng có hiệu quả TSCĐ luôn là vấn đề quan trọng
Có thể nói rằng TSCĐ là vô cùng quan trọng, nó là một trong ba yếu tố cơ bản
của quá trình sản xuất xã hội. Trong điều kiện hiện nay, dưới sự cạnh tranh gay gắt của
nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển được thì doanh nghiệp luôn phải tìm tòi cho
mình những bước đi vững chắc hơn. Khi khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì việc
đổi mới TSCĐ ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến
năng suất lao động và nó cũng quyết định đến sự thành công hay thất bại đối với mỗi
doanh nghiệp
Nhận thức được tầm quan trọng của việc sử dụng hiệu quả TSCĐ trong các doanh
nghiệp.Qua thời gian thực tập tại Công ty cổ phần vật liệu xây dựng Bưu điện,với kiến
thức đã học, em mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
TSCĐ tại Công ty cổ phần vật liệu xây dựng Bưu điện ”
Chuyên đề của em gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận về TSCĐ và hiệu quả sử dụng TSCĐ trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng hiệu quả sử dụng TSCĐ tai Công ty cổ phần vật liệu
xây dựng Bưu điện
Chương III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ tai Công ty cổ
phần vật liệu xây dựng Bưu điện
Chương I : Lý luận về TSCĐ và hiệu quả sử dụng TSCĐ trong hoạt động kinh
doanh của
doanh nghiệp
I. TSCĐ và đặc điểm TSCĐ
1. Khái niệm TSCĐ.
TSCĐ trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu và các tài sản
khác có giá trị hơn, tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và giá trị của nó được
chuyển dịch dần dần, từng phần vào giá trị sản phẩm, dịch vụ được sản suất ra trong các
kỳ sản xuất.
2. Đặc điểm của TSCĐ.
Trong các doanh nghiệp TSCĐ có nhiều loại khác nhau vời tính chất và đặc điểm
khác nhau nhưng nhìn chung thì chúng đều có các đặc điểm sau:
- Tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh nhưng vẫn giữ được hình thái
vật chất ban đầu cho đến khi hư hỏng phải loại bỏ.
- Tài sản cố định bị hao mòn dần và đối với những TSCĐ dùng cho hoạt động
sản xuất kinh doanh giá trị của chúng chuyển dịch dần dần, từng phần vào chi phí sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Những tài sản dùng cho hoạt động khác như: Hoạt
động phúc lợi, sự nghiệp, dự án, giá trị của TSCĐ bị tiêu dùng dần dần trong quá trình sử
dụng.
3. Yêu cầu quản lý TSCĐ.
Từ những đặc điểm của TSCĐ cho thấy TSCĐ phải được quản lý chặt chẽ cả về
mặt giá trị lẫn hiện vật. Cụ thể việc quản lý cần phải có những yêu cầu sau:
- Phải quản lý TSCĐ như là một yều tố cơ bản của sản xuất kinh doanh, góp phần
tạo ra năng lực sản xuất cho đơn vị. Do đó kế toán phải cung cấp thông tin về số lượng và
giá trị hiện có tại đơn vị, tình hình biến động TSCĐ trong đơn vị
- Phải quản lý TSCĐ như là một bộ phận vốn cơ bản đầu tư dài hạn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh, có tốc độ chu chuyển chậm tính bằng nhiều năm tài chính, độ
rủi ro cao. Vì vậy kế toán phải cung cấp những thông tin về tỷ trọng vốn đã đầu tư và nhu
cầu vốn là bao nhiêu để đầu tư mới TSCĐ sửa chữa hoặc là thuê TSCĐ.
- Phải quản lý phần TSCĐ đã sử dụng như là một bộ phận của chi phí sản xuất
kinh doanh. Do đó kế toán phải tính đúng, tính đủ mức khấu hao trích tuỳ từng kỳ kinh
doanh, làm sao phải thu hồi được vốn đầu tư hợp lý mà vẫn đảm bảo được khả năng bù
đắp được chi phí. Quản lý TSCĐ là sử dụng và bảo vệ TSCĐ cho doanh nghiệp, làm sao
để những TSCĐ sống mà sống có ích cho doanh nghiệp và đảm bảo khả năng tái đầu tư
khi cần thiết. Do TSCĐ là cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất, là điều kiện quan
trọng để tăng năng suất lao động xã hội và phát triển nền kinh tế quốc dân. Cho nên cần
có sự đổi mới không ngừng. Điều đó có tác dụng quyết định đến yêu cầu và nhiệm vụ của
công tác quản lý và sử dụng TSCĐ. Mỗi ngành, mỗi địa phương cũng như từng doanh
nghiệp phải đề cao trách nhiệm làm chủ nguồn vốn, bảo toàn và phát triển nó, sử dụng an
toàn triệt để TSCĐ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, góp
phần giữ vững và mở rộng thị trường, có chỗ đứng vững chắc trong nền kinh tế.
Hơn nữa, vì nhiệm vụ nhiều, quy mô lớn và thời gian phát sinh dài nên kế toán
TSCĐ cũng rất phức tạp. Thêm vào đó yêu cầu về TSCĐ cũng rất cao. Do vậy, kế toán
phải đảm bảo ghi chép kịp thời chính xác nghiệp vụ kinh tế phát sinh, cung cấp thông tin
hữu hiệu nhất cho quản lý. Muốn vậy phải tổ chức hạch toán TSCĐ một cách khoa học,
tạo mối liên hệ chặt chẽ với các yếu tố cấu thành nên bản chất của kế toán.
TSCĐ trong doanh nghiệp gồm nhiêù loại và nhiều thứ, có đặc điểm và yêu cầu
quản lý rất khác nhau. Vì vậy, để thuận tiện cho công tác quản lý TSCĐ, cần phải phân
loại TSCĐ.
4. Phân loại TSCĐ.
Phân loại TSCĐ là việc phân chia TSCĐ hiện có trong doanh nghiệp theo những
tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho yêu cầu quảm lý TSCĐ. Phân loại chính xác giúp
cung cấp thông tin để lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch sửa chữa lớn, hiện đại hoá TSCĐ
tạo điều kiện phát huy hết tác dụng của TSCĐ trong quá trình sản xuất, đồng thời phục
vụ tốt trong công tác thống kê, kế toán TSCĐ thành từng loại theo những đặc trưng nhất
định của mình. Vì vậy, công tác phân loại là hết sức cần thiết.
Tuỳ theo công dụng và đặc trưng nhất định của TSCĐ người ta có những cách
phân loại TSCĐ khác nhau:
• Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện: Theo cách này TSCĐ được chia làm
hai loại TSCĐ khác nhau:
- TSCĐ hữu hình: là những TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể do doanh nghiệp
nắm giữ để sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ.
TSCĐ gồm có
+ Nhà cửa, vật kiến trúc: là TSCĐ được hình thành sau quá trình thi công xây
dựng : như nhà cửa, vật kiến trúc hàng rào, bể tháp nước, các công trình cơ sở hạ tầng
như đường xá, cầu cống đường sắt, cầu tầu.v.v. . . phục vụ cho hạch toán sản xuất kinh
doanh
+ Máy móc, thiết bị: Dây truyền công nghệ, máy móc chuyên dùng, thiết bị công
tác.
+ Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn, các phương tiện vận tải, hệ thống điện
.v.v. . .
+ Thiết bị dụng cụ quản lý: máy vi tính, thiết bị điện tử dụng cụ đo lường.
+ Vườn cây lâu năm, xúc vật làm việc và cho sản phẩm.
- TSCĐ vô hình:là những TSCĐ không có hình thái vật chất nhưng xác định
được giá trị thoả mãn các tiêu cuẩn của tài sản cố đinh vô hình .
+ Quền sử dụng đất : Là giá trị của quền sử dụng một mặt bằng diện tích (mặt
đất,mặt nước,mặt biển ) nhất định thuộc vốn nhà nước cấp cho doanh nghiệp sử dụng vào
kinh doanh trong thời gian qui định
+ Chi phí thành lập và chuẩn bị sản xuất: Là các chi phí phát sinh lúc doanh
nghiệp mới thành lập như chi phí công tác nghiên cứu thăm dò lập dự án đầu tư,chi phí
cho sử dụng vốn ban đầu, chi phí cho đi lại, hội họp, khai trương, quảng cáo v.v Các chi
phí này chấm dứt khi doanh nghiệp đi vao hoạt động chính thức
+ Bằng phát minh sáng chế: Giá trị của nó là các chi phí doanh nghiệp phải trả để
mua bản quyền bằng phát minh của các nhà nghiên cứu, hoặc phải trả cho các công trình
nghiên cưú thử nghiệm được nhà nước cấp bằng phát minh sáng chế.
+ Chi phí nghiên cứu phát triển: Là các chi phí vê thực hiện các công trình quy mô
lớn về nghiên cứu, lập kế hoạch dự án dài hạn để đầu tư nhằm đem lại lợi ích cho doanh
nghiệp .
Phương pháp phân loại theo hình thái vật chất sẽ giúp cho các nhà quản lý có một
nhãn quan tổng thể về cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp. Là căn cứ quan trọng để xây dựng
các quyết định đầu tư cho phù hợp với tình hình thực tế, từ đó có biện pháp quản lý vốn,
tài sản và tính toán khấu hao hợp lý hơn nữa.
• Phân loại TSCĐ theo quyền sở hữu: TSCĐ được phân thành TSCĐ tự có và
TSCĐ thuê ngoài.
- TSCĐ tự có: là những TSCĐ được xây dựng, mua sắm, hình thành từ các
nguồn vốn ngân sách cấp, nguồn vốn vay, nguồn vốn liên doanh, các quỹ của doanh
nghiệp… và TSCĐ doanh nghiệp được biếu tặng. Đây là những TSCĐ thuộc quyền sở
hữu của doanh nghiệp và được phản ánh trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp.
- TSCĐ đi thuê: Do yêu cầu sử dụng mà doanh nghiệp cần có một số TSCĐ,
hoặc là khi xét thấy việc đi thuê TSCĐ có lợi thế hơn trong việc giảm bớt chi phí kinh
doanh hoặc chi phí cần thiết trong khoảng thời gian nhất định, mà không đủ khả năng tài
chính hoặc không cần thiết phải mua, doanh nghiệp sẽ đi thuê TSCĐ dưới hai hình thức
thuê tài chính và thuê ngoài hoạt động .
+ Thuê tài chính: Là các TSCĐ đi thuê mà bên tcho thuê có sự chuyển giao phần
lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu tài sản cho bên đi thuê.Dấu hiệu của hợp
đồng thuê tài chính:
Bên cho thuê chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho bên đi thuê khi hết thời hạn
cho thuê.
Tại thời điểm khởi hành thuê tài sản bên thuê có quyền lựa chọn mua lại tài sản
thuê với giá ước tính thấp hơn giá trị hợp lý vào cuối thời hạn thuê.
Thời hạn cho thuê theo hợp đồng chiếm phần lớn thời gian sử dụng kinh tế của tài
sản cho dù không có sự chuyển giao quyền sở hữu.
Tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê
tối thiểu chiếm phần lớn giá trị hợp lý của tài sản thuê
Tài sản thuê thuộc loại chuyên dùng mà chỉ có bên thuê có khả năng sử dụng
không cần có sự thay đổi sửa chữa lớn.
- TSCĐ thuê hoạt động: Là TSCĐ thuê nhưng không thoả mãn bất cứ điều khoản
nào của hợp đồng thuê tài chính. Bên đi thuê có quyền quản lý và sử dụng trong thời gian
hợp đồng và phải hoàn trả khi kết thúc hợp đồng .
Cách phân loại này giúp ta thấy rõ cơ cấu TSCĐ của doanh nghiệp góp phần cho
việc quản lý TSCĐ của doanh nghiệp nhưng chưa phản ánh rõ tình hình sử dụng TSCĐ
của doanh nghiệp.
• Phân loại theo nguồn hình thành TSCĐ : Theo cách phân loại này TSCĐ bao
gồm: TSCĐ được mua sắm đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước cấp, bằng nguồn vốn liên
doanh, bằng nguồn vốn tự bổ sung của đơn vị.
• Phân loại theo công dụng và tình hình sử dụng: TSCĐ bao gồm.
- TSCĐ dùng trong sản xuất kinh doanh: Đây là TSCĐ đang thực tế sử dụng
trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Những TSCĐ này bắt buộc phải
trích khấu hao tính vào chi phí sản xuất kinh doanh.
- TSCĐ hành chính sự nghiệp: là TSCĐ của các đơn vị hành chính sự nghiệp(
như đoàn thể quần chúng, tổ chức y tế, văn hoá, thể thao. . .)
- TSCĐ phúc lợi: là những TSCĐ của đơn vị dùng cho nhu cầu phúc lợi công
cộng như nhà văn hoá, nhà trẻ, câu lạc bộ, nhà nghĩ mát . . .
- TSCĐ chờ xử lý: Bao gồm những TSCĐ không cần dùng, chưa cần dùng vì
thừa so với nhu cầu sử dụng hoặc vì không thích hợp với sự đổi mới qui trình công nghệ,
bị hư hỏng chờ thanh lý, TSCĐ tranh chấp chờ giải quyết. Những TSCĐ này cần xử lý
nhanh chóng để thu hồi vốn sử dụng cho việc đầu tư đổi mới TSCĐ.
Cách phân loại này giúp nhà quản lý phân bổ TSCĐ hợp lý giúp nhà quản lý và sử
dụng, phát huy tối đa tính năng của mỗi loại TSCĐ đồng thời kịp thời xử lý các TSCĐ
chờ thanh lý giúp thu hồi vốn nhanh hơn để quay vòng vốn một cách có hiệu quả.
Mỗi cách phân loại trên đây cho phép đánh giá xem xét kết cấu TSCĐ của doanh
nghiệp theo những tiêu thức khác nhau. Điều này giúp nhà quản lý xem xét sự biến động
của TSCĐ hiện có của doanh nghiệp từ đó nhận thức rõ về hiện trạng TSCĐ hiện có của
doanh nghiệp và có thông tin chính xác để trả lời câu hỏi: kết cấu TSCĐ của doanh
nghiệp có hợp lý không? Phương hướng đầu tư trọng điểm quản lý TSCĐ của doanh
nghiệp là gì? Dựa vào qui mô sản xuất của mình, khă năng thu hút vốn đầu tư cũng như
khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật . . . Để
đưa ra phương hướng đầu tư TSCĐ và lựa chọn dự án đầu tư có lợi nhất, phù hợp nhất
cho doanh nghiệp theo từng thời kỳ khác nhau. Vì vậy, phân loại TSCĐ góp phần quan
trọng trong việc quản lý TSCĐ cũng như việc tổ chức hạch toán TSCĐ làm sao để nhanh
chóng, chính xác, kịp thời cho nhà quản lý nhằm cải tiến TSCĐ theo kịp nhịp độ phát
triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, của nền kinh tế đất nước, cũng như toàn cầu
giúp doanh nghiệp luôn giữ thế chủ động nhạy bén và phát triển một cách vững chắc.
II. Khấu hao tài sản cố định
1. Khái niệm
Cũng như TSCĐ cũng được chia làm 2 loại xuất phát từ hai loại nguyên nhân: hao
mòn vô hình và hao mòn hữu hình.
*Hao mòn hữu hình: Là sự giảm dần về mặt giá trị và giá trị sử dụng do quá trình
tham gia vào sản xuất hoặc do tác động của các yếu tố tự nhiên mà biểu hiện cụ thể là
hiệu xuất giảm dần của TSCĐ đến khi hư hỏng và bị loại ra khỏi quá trình sản xuất kinh
doanh. Mức độ hao mòn tỷ lệ thuận với thời gian sử dụng TSCĐ, mức độ này cao hay
thấp phụ thuộc vào các yếu tố như: cường độ sử dụng, chế độ bảo quản bảo dưỡng, điều
kiện môi trường, khí hậu trình độ quản lý. Vì vậy để giảm bớt hao mòn hữu hình người ta
phải làm sao để giảm bớt sự tác động của các yếu tố trên.
* Hao mòn vô hình: Là sự thuần tuý về mặt giá trị do không kịp tiến bộ khoa học,
kỹ thuật, cạnh tranh v.v. khoa học phát triển càng nhanh thì khả năng hao mòn vô hình
càng lớn. Sự hao mòn này không phụ thuộc vào việc TSCĐ sử dụng ít hay nhiều mà phụ
thuộc vào việc TSCĐ được tôí tân hoá đến đâu. Xu thế hiện nay, để giảm bớt hao mòn vô
hình, người ta thường rút ngắn thời gian thu hồi vối đầu tư ở TSCĐ.
Khấu hao TSCĐ.
Một TSCĐ được mua khi nó thoả mãn nhu cầu sản xuất hàng hoá dịch vụ của
doanh nghiệp, nghĩa là nó hữu dụng. Và khi mua một TSCĐ cũng đồng nghĩa với việc
đầu tư dài hạn ở hiện tại cho tương lai. . .Hay nói cách khác, doanh nghiệp đã ứng trước
một khoản chi phí ở hiện tại để hy vọng nhận được một khối lượng giá trị trong tương lai
khi sử dụng TSCĐ này. Dó đó phải tính toán phân bổ dần chi phí TSCĐ để thu hồi vốn
kịp thời, quá trình phân bổ này được gọi là khấu hao TSCĐ.
* Mối quan hệ giữa hao mòn và khấu hao TSCĐ.
Hao mòn là một hiện tượng khách quan làm giảm giá trị và giá trị sử dụng của
TSCĐ. Còn khấu hao là một biện pháp mang tính chủ quan của nhà quản lý, nó ảnh
hưởng đến giá thành sản phẩm doanh thu, lợi nhuận thu được của doanh nghiệp, từ đó nó
ảnh hưởng đến thuế và các khoản phải nộp nhà nước. Vì TSCĐ không chỉ hao mòn hữu
hình mà còn cả hao mòn vô hình nên việc xác định mức độ hao mòn của TSCĐ để phân
bổ vào chi phí kinh doanh là hết sức phức tạp
2. Cơ sở tính khấu hao.
Thông thường, để tính khấu hao TSCĐ, người ta dựa vào các yếu tố cơ bản sau:
Bước 1. Nguyên gía TSCĐ:
Nguyên giá TSCĐ được hiểu là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp bỏ ra để
có được TSCĐ tính đến thời điểm đưa TSCĐ đó vào trạng thái sẵn sàng sử dụng. Nói
cách khác nguyên giá TSCĐ là toàn bộ giá trị đầu tư ban đầu vào TSCĐ. Theo cơ chế
quản lý tài chính doanh nghiệp hiện hành, nguyên giá TSCĐ được xác định đối với từng
loại TSCĐ như sau:
Đối với TSCĐ hữu hình: ở thời điểm đầu tư ban đầu nguyên giá TSCĐ phụ
thuộc vào phương thức đầu tư và được xác định cụ thể như sau:
- TSCĐ hữu hành được hình thành theo phương thức mua sắm (kể cả mua mới và
cũ), nguyên giá bao gồm: giá mua thực tế phải trả cộng (+) các khoản thuế (không bao
gồm các khoản thuế được khấu trừ, được hoàn lại) (+) các chi phí liên quan trực tiếp, chia
ra tính đến thời điểm đưa TSCĐ và trạng thái sẵn sàng sử dụng như: lãi tiền vay đầu tư
cho TSCĐ, chi phí vận chuyển, bốc dỡ, chi phí nâng cấp, chi phí lắp đặt, chạy thử, lệ phí
trước bạ, .
Trường hợp mua TSCĐ hữu hành theo phương thức trả chậm, trả góp, thì nguyên
giá tài sản này bao gồm: Giá mua trả tiền ngay tại thời điểm mua, các khoản thuế (không
bao gômg các khoản thuế được khấu trừ, được hoàn lại), các chi phí có liên quan trực tiếp
mà doanh nghiệp phải chi ra tính đến thời điểm mua TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử
dụng như: chi phí vận chuyển bốc rỡ, chi phí nâng cấp, chi phí lắp đặt, chạy thử, lệ phí
trước bạ, khoản chênh lệch giữa gía mua trả chậm và giá mua trả tiền ngay được hạch
toán vào chi phí tài chính theo kỳ hạn thanh toán, trừ khi số thanh toán được tính vào số
nguyên giá của TSCĐ hữu hình theo qui định vốn hoá chi phí lãi vay.
- TSCĐ hữu hình được mua dưới hình thức chao đổi:
Khi doanh nghiệp đem tài sản của mình để chao đổi lấy một TSCĐ hữu hình không
tương tự huặc lấy một tài sản khác nguyên giá TSCĐ nhận về được xác định là giá trị hợp
của TSCĐ hữu hình nhận về, hoặc giá trị hợp lý của tài sản đem chao đổi (sau khi công
thêm các khảon trả thêm hoặc trừ đi các khoản phải thu về) cộng (+) các khoản thuế
(không bao gồm các khoản thuế được khấu trừ, được hoàn lại) cộng (+) các chi phí liên
quan trực tiếp phải chia ra tính đến thời điểm đua TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sư dụng
như: chi phí vận chuyển, bốc rỡ, chi phí nâng cấp, chi phí lắp đăt, chạy thử, lệ phí trước
bạ . . .
ở đấy, TSCĐ tương tự được hiểu là TSCĐ có công dụng tương tự, trong cùng một
lĩnh vực kinh doanh và có giá trị tương đương. Giá trị hợp lý của TSCĐ được hiểu là giá
trị tài sản có thể trao đổi giữa các bên có đầy đủ hiểu biết trong sự trao đổi ngang giá.
Nếu doanh nghiệp mua TSCĐ hữu hình dưới hình thức trao đổi trao đổi với một
TSCĐ hữu hình tươg tư, hoặc có thể hình thành do được bán để đổi lấy quyền sở hữu một
TSCĐ hữu hình tương tụ thì nguyên giá của TSCĐ nhận về là giá trị còn lại của giá trị
hữu hình đem trao đổi.
- TSCĐ hữu hình được hình thành theo phương thức doanh nghiệp tự xây dựng hoặc tự
sản xuất: Nguyên giá TSCĐ loại này được cấu thành bởi các bộ phận: Giá thành thực
tế của TSCĐ, các chi phí lắp đặt chạy thử, các chi phí khác trực tiếp liên quan phải
chi ra tính đến thời điểm đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng (trừ các khoản lãi
nội bộ, các chi phí không hợp lý như vật liệu lãng phí, lao động hoặc các khoản chi
phí khác vượt quá mức qui định trong xây dựng hoặc tự sản xuất).
- Đối với TSCĐ là con súc vật làm việc và (hoăc) cho sản phẩm, vườn cây lâu năm
được cấu thành bởi hai bộ phận: Toàn bộ các chi phí thực tế đã chia ra cho con súc
vật, vườn cậy đó từ lúc hình thành tính đến thời điểm đưa vào khai thác, sử dụng theo
qui định tại qui chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành; các chi phí khác co liên
quan.
- TSCĐ hữu hình do đầu tư xây dựng cơ bản hình thành theo phưong thức giao thầu,
nguyên giá tài sản này là giá quyết toán công trình theo qui định tại qui chế quản lý
đầu tư và xây dựng hiện hành cộng (+) lệ phí trước bạ và những chi phí liên quan trực
tiếp khác.
- TSCĐ hữu hình loại được cấp, được điều chuyển đến: Nguyên giá TSCĐ này là
giá trị còn lại trên sổ kế toán của TSCĐ ở các đơn vị cấp, đơn vị điều chuyển hoặc giá trị
theo đánh giá của hội đồng giao nhận cộng (cộng) các chi phí mà bên nhận tài sản phải
chia ra tính tới thời điểm đưa tài sản vào trạng thái sẵn sàng sử dụng như: Chi phí vận
chuyển, bốc rỡ, chạy thử, lắp đặt, lệ phí trước bạ (nếu có). . .
Trường hợp điều chuyển TSCĐ giữa các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc
trong doanh nghiệp, nguyên giá TSCĐ nhận về là nguyên giá phản ánh ở đơn vị bị điều
chuyển phù hợp với bộ hồ sơ của TSCĐ đó. Đơn vị nhận TSCĐ căn cứ vào nguyên giá,
số khấu hao luỹ kế, giá trị còn lại trên sổ kế toán và bộ hồ sơ của TSCĐ đó để phản ánh
vào sổ kế toán. Các chi phí liên quan tới việc điều chuyển TSCĐ giữa các đơn vị thành
viên hạch toán phụ thuộc không hạch toán tăng nguyên giá TSCĐ mà hạch toán vào chi
phí kinh doanh trong kỳ.
- TSCĐ hữu hình loại được cho, được biếu, được tặng . . . nhận vốn góp liên doanh,
nhận lại vốn góp do phát hiện thừa . . . Nguyên giá TSCĐ hữu hình loại này là giá trị theo
đánh giá thực tế của hội đồng giao nhận cộng (+) các chi phí mà bên nhận phải chi ra tính
đến thời điểm đưa TSCĐ vào trạng thái sẵn sàng sử dụng như: chi phí vận chuyển, bốc
rỡ, nâng cấp, lắp đặt, chạy thử, lệ phí trước bạ . . .
Đối với TSCĐ vô hình: Cách thức xác định nguyên giá của TSCĐ vô hình phụ thuộc
vào từng loại tài sản, phương thức hình thành nên chúng và được xác định cụ thể như
sau:
- TSCĐ vô hình loại mua sắm: Việc xác định nguyên giá của TSCĐ này tương tự như
các thức xác định nguyên giá TSCĐ hữu hình loại mua sắm.
- TSCĐ vô hình loại được mua dưới hình thức trao đổi: Việc xác đinh nguyên giá của
TSCĐ này tương tự như cách thức xác định nguyên giá TSCĐ hữu hình loại được
mua dưới hình thức trao đổi.
- TSCĐ vô hình được tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp: Trong trương hợp này, nguyên giá
TSCĐ cố định là các chi phí lên quan trực tiếp đến khâu thiết kế, xây dựng, sản xuất
thử nghiệm phải chi ra tính đến thời điểm đưa TSCĐ đó vào sử dụng theo dự tính.
Riêng các chi phí phát sinh trong nội bộ để doanh nghiệp co nhãn hiệu hàng hoá,
quyền phát hành, danh sách khách hàng, chi phí phát sinh trong giai đoạn nghiên cứu và
các khoản mục tương tự không được coi là bộ phận cấu thành nguyên giá TSCĐ vô hình
mà hạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
- TSCĐ vô hình được cấp, được biếu, được tặng: Nguyên giá tài sản này là giá trị
đánh giá thực tế của hội đồng giao nhận cộng (+) các chi phí liên quan trực tiếp phải đưa
ra tính đến thời điểm đưa TSCĐ đó vào sử dụng theo dự tính.
- Đối với một số TSCĐ vô hình đặc thù, cách thức xác định nguyên giá như sau:
+ Quyền sử dụng đất: NGuyên giá của TSCĐ là quyền sử dụng đất (gồm quyền sử
dụng đất có thời hạn và quyền sử dụng đất lâu dài): Là tiền chi ra để có quyền sử dụng
đất hợp pháp cộng (+) chi phí cho đền bù giải phóng mặt bằng, lệ phí trước bạ . . . (không
bao gồm các chi phí chi ra để xây dựng các công trình trên đất); hoặc là giá trị quyền sử
dụng đất nhận góp vốn.
Riêng đối với trường hợp doanh nghiệp thuê đất thì tiền thuê đất được phân bổ dần vào
chi phí kinh doanh, không ghi nhận là TSCĐ vô hình.
+ Quyền phát hành, bản quyền, bằng sáng chế: Nguyên giá của tài này là toàn bộ
những chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có quyền phát hành, bản quyền, bằng
sáng chế.
+ Nhãn hiệu hàng hoá: Nguyên giá của tài sản này được xác định là các chi phí
thực tế liên quan trực tiếp tới việc mua nhãn hiệu hàng hoá.
+ Phần mềm máy vi tính: Nguyên giá của TSCĐ là phần mềm máy vi tính (trong
trường hợp phần mềm là một bọ phận có thể tách rời các phần cứng có liên quan): Là
toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có phần mềm máy vi tính.
Đối với TSCĐ thuê tài chính: Nguyên giá TSCĐ thêu tài chính phản ánh ở đơn
vị thuê là giá trị hợp lý của giá trị thuê tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản. Nếu giá trị hợp
lý của tài sản thuê cao hơn giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tài sản tối thiểu,
thì nguyên giá được ghi theo giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu. Chi
phí phát sinh ban đầu liên quan trực tiếp đến hoạt động thêu tài chính cũng được tính vào
nguyên giá vào TSCĐ đi thuê.
Trong qua trình sử dụng TSCĐ, nguyên giá TSCĐ có thể bị thay đổi và cần xác
định lại khi có các nghiệp vụ nâng cấp, tháo rỡ bộ phận hay đánh giá lại giá trị TSCĐ.
Khi đó, doanh nghiệp vụ phải biên bản ghi rõ các căn cứ thay đổi và gnuyên giá TSCĐ
được xác đinh như sau:
NG mới = NG cũ + chi phí nâng cấp – Giá trị tháo rỡ các bộ phận
Bước 2. Thời gian sử dụng TSCĐ
Đây là thời gian doanh nghiệp dự kiến sử dụng TSCĐ vào hoạt đọng kinh doanh
hoặc xác định theo số lượng, khối lượng sản phẩm dự kiến sản xuất được từ việc sử dụng
TSCĐ theo qui định hiện hành, ở điều kiền bình thường, phù hợp với các thông số kinh tế
– kỹ thuất của TSCĐ và các yếu các có liên quan tới hoạt động của TSCĐ.
Theo chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp hiện hành, thời gian sử dụng các loại TSCĐ
được xác đinh như sau:
Thời gian sử dụng TSCĐ hữu hình:
- Đối với TSCĐ còn mới (Chưa qua sử dụng), doanh nghiệp phải căn cứ vào qui định
hiện hành của nhà nước về khung thời gian sử dụng TSCĐ để xác định thời gian sử
dụng của từng TSCĐ.
- Đối với TSCĐ đã qua sử dụng (TSCĐ cũ), thời gian sử dụng của tài sản này được xác
định như sau:
Để lập được kế hoạch khấu hao TSCĐ doanh nghiệp thường tiến hành theo trình tự như
sau:
Thời gian sử dụng
của TSCĐ
Giá trị hợp lý của
TSCĐ cũ
Thời gian sử
dụng TSCĐ
mới cùng loại
= x
Giá bán của TSCĐ mới
cùng loại
Trong đó:
Giá trị hợp lý của TSCĐ cũ là gía tgrị mua hoặc trao đổi thực tế hoặc giá trị còn lại
của TSCĐ hoặc giá trị theo đánh giá của hội đồng giao nhận.
Trong truờng hợp doanh nghiệp muốn xác đinh thời gian sử dụng của TSCĐ khác với
khung thời gian sử dụng do nhà nước qui định, doanh nghiệp phải giải trình rõ các căn cứ
để xác định thời gian sử dụng của TSCĐ đó để bộ tài chính xem xét, quyết định theo ba
tiêu chuyển sau:
- Tuổi thọ kỹ thuật của TSCĐ theo thiết kế;
- Hiện trạng TSCĐ
- Tuổi thọ kinh tế của TSCĐ.
Nếu phát sinh các hoat động nhằm kéo dài hoặ rút ngắn thời gian sử dụng đã xác đinh
trước đó của TSCĐ, doan nghiệp phải tiến hành xác định lại thời gian sử dụng của TSCĐ
theo ba tiêu chuẩn qui định nêu trên tại thời điểm hoàn thành nghiệp vụ phát sinh, đồng
thời phải lập biên bản nêu rõ các căn cứ làm thay đổi thời gian sử dụng.
Thời gian sử dụng TSCĐ vô hình:
Doanh nghiệp tự xác định thời gian sử dụng của từng TSCĐ vô hình nhưng tối đa
không qua 20 năm. Riêng đối với TSCĐ vô hình là quyền sử dụng đất có thời hạn thì thời
gian sử dụng của tài sản này là thời hạn được phép sử dụng đất theo qui định.
Thời gian sử dụng TSCĐ thuê tài chính: Nếu nay tại thời điểm khởi đầu thuê tài
sản, doanh nghiệp đi thuê cam kết không mua tài sản thuê trong hợp đồng thuê tài chính,
thì doanh nghiệp đi thuê xác định thời gian sử dụng TSCĐ thuê tài chính theo thời hạn
thuê trong hợp đồng làm căn cứ để tính khấu hao tài sản này. Ngược lại doanh nghiệp đi
thuê xác định thời gian sử dụng TSCĐ thuê tài chính theo cách thức xác định thời gian sử
dụng TSCĐ hữu hình nêu trên.
Bước 3. Các căn cứ khác
Ngoài nguyên giá và thưòi gian sử dụng TSCĐ, để tính khấu hao TSCĐ một cách
linh hoạt và phù hợ với tình hình khai thác sử dụng TSCĐ, trong những trường hợp nhất
định người ta còn dựa vào một số yếu tố khác có thể thay thế cho yếu tố thời gian sử
dụng, chẳng hạn như sản lượng, diện tích canh tác . các căn cứ này được xác định trên
cơ sở những thông số kinh tế kỹ thuật của TSCĐ cho phép đo lường hay lượng hoá chúng
và mức độ khai thác sử dụng TSCĐ.
3. Các phương pháp tính khấu hao của doanh nghiệp.
Hiện nay ở Việ Nam có rất nhiều phương pháp khác nhau để tính khấu hao TSCĐ
trong các doanh nghiệp. Mỗi phương pháp có nhứng ưu nhược điểm riêng. Việc lựa
chọn đúng đắn phương pháp khấu hao TSCĐ có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản
lý vốn cố định trong các doanh nghiệp. Thông thường có những phương pháp khấu hao
sau:
3.1. Phương pháp tính khấu hao bình quân .
Nguyên giá TSCĐ
Mức khấu hao trung bình hàng năm =
Thời gian sử dụng
Phương pháp này cố định mức khấu hao theo thời gian nên có tác dụng thúc đẩy
doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động, tăng số lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng
lợi nhuận. Số tiền khấu hao được phân bổ đều đặn hàng kỳ giúp đảm bảo bình ổn giá
thành. Song bên cạnh đó nó cũng có nhược điểm là thu hồi vốn chậm không theo kịp mức
hao mòn thực tế nhất là hao mòn vô hình nên không có điều kiện đầu tư trang bị TSCĐ
mới.
3.2Phương pháp khấu hao giảm dần
Người ta thường sử dụng phương pháp giảm dần để khắc phục những nhược điểm
của phương pháp khấu hao bình quân. Phương pháp khấu hao này được sử dụng nhằm
mục đích đẩy nhanh mức khấu hao TSCĐ trong năm đầu sử dụng và giảm dần mức khấu
hao theo thời gian sử dụng. Đây là phương pháp rất thuận lợi cho các doanh nghiệp mới
thành lập vì những năm đầu họ muốn quay vòng vốn nhanh để thực hiện sản xuất kinh
doanh.
Phương pháp khấu hao giảm dần có hai cách tính toán tỷ lệ và mức khấu hao hàng
năm, đó là mức khấu hao theo số dư giảm dần hoặc khấu hao theo tổng số thứ tự năm sử
dụng:
Phương pháp tính khấu hao theo số dư giảm dần.
Theo phương pháp này thì số tiền khấu hao hàng năm được tính bằng lấy giá trị
còn lại xủa TSCĐ theo thời gian sử dụng nhân với tỷ lệ khấu hao không đổi. Như vậy,
mức và tỷ lệ khấu hao theo thời gian sử dụng sẽ giảm dân. Có thể tính mức khấu hao
hàng năm theo thời hạn sử dụng như sau:
M
KHi
= G
cđi
x T
KH
Trong đó:
M
KHi
: Mức khấu hao ở năm thứ i
G
cđi
: Giá trị còn lại của TSCĐ vào năm thứ i
T
KH
: Tỷ lệ khấu hao hàng năm
Phương pháp khấu hao theo tổng số năm sử dụng.
Theo phương pháp này số tiền khấu hao được tính bằng cách nhân giá trị ban đầu
của TSCĐ với tỷ lệ khấu hao giảm dần qua các năm. Tỷ lệ khấu hao này được xác định
bằng lấy số năm sử dụng còn lại chia cho tổng số thứ tự năm sử dụng. Công thức được
tính như sau:
M
KHi
= NG x T
KHi
2 x (T-t+1)
T
KH
=
T x (T+1)
Trong đó:
M
KHi
: Mức khấu hao hàng năm
NG: Nguyên giá của TSCĐ
T
KHi
: Tỷ lệ khấu hao theo năm sử dụng
T: Thời gian dự kiến sử dụng TSCĐ
t: Thứ tự năm cần tính tỷ lệ khấu hao
Phương pháp khấu hao giảm dần có những ưu điểm cơ bản đó là phản ánh chính
xác hơn mức hao mòn TSCĐ vào giá trị sản phẩm, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư mua
sắm TSCĐ trong những năm đầu sử dụng, hạn chế được những bất lợi. Tuy nhiên
phương pháp này cũng có những nhược điểm việc tính toán mức khấu hao và tỷ lệ khấu
hao hàng năm sẽ phức tạp hơn, số tiền trích khấu hao luỹ kế đến năm cuối cùng thời hạn
sử dụng TSCĐ cũng chưa đủ bù đắp đầu tư ban đầu TSCĐ của doanh nghiệp.
3.3Phương pháp khấu hao theo GTCL(hay còn gọi là cách khấu hao kép trên gía trị còn
lại)
Gía trị còn lại
Mức khấu hao trích hàng năm = 2*
Số năm khấu hao
Bên cạnh ưu điểm trên, phương pháp này cũng có nhược điểm nhất định đó là tỉ lệ
khấu hao này lớn hơn tỉ lệ khấu hao theo phương pháp đường thằng. Và số trích khấu hao
luỹ kế năm cuối cùng sẽ không đủ bù đắp giá trị ban đầu của TSCĐ.
III. Nội dung công tác quản lí sử dụng TSCĐ
1. Quản lí đầu tư vào TSCĐ.
Các TSCĐ của doanh nghiệp khi tham gia vào quá trình sản xuất đều bị hao mòn
sẽ đến lúc chúng không còn sử dụng được nữa hoặc có thể do nhiều nguyên nhân mà cần
thiết phải đổi mới TSCĐ hoặc phải thay thế, trang bị mới TSCĐ cho phù hợp với nhu
cầu sản xuất. Các doanh nghiệp cần tính toán một số chỉ tiêu cần thiết để xem xét tình
hình sử dụng TSCĐ tại doanh nghiệp sau đó phân tích nhu cầu cần thiết đối với từng loại
TSCĐ phục vụ cho sản xuất của doanh nghiệp để lên kế hoạch đầu tư TSCĐ cho đúng.
Việc đầu tư vào TSCĐ bao gồm các quyết định mua sắm, xây dựng, sửa chữa,
nâng cấp ………….TSCĐ đạt được yêu cầu về thời gian hữu ích của chi phí bỏ ra (tài
sản mua sắm )và giá trị của tài sản mua sắm. Khi doanh nghiệp quyết định đầu tư vào
TSLĐ sẽ tác động đến hoạt động kinh doanh ở hai khía cạnh là chi phí mà doanh nghiệp
bỏ ra trước mắt và lợi ích mà doanh nghiệp thu được trong tương lai.Chi phí của doanh
nghiệp sẽ tăng lên do chi phí đầu tư phát sinh đồng thời phải phân bổ chi phí khấu hao
(tuỳ theo thời gian hữu ích ).Còn lợi ích đem lại là việc nâng cao năng lực sản xuất, tạo ra
được sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao trên thị trường .
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường như hiện nay, sản xuất và tiêu thụ chịu sự
tác động nghiệt ngã của quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Do vậy vấn đề đặt ra cho
các doanh nghiệp trứoc khi tiến hành việc đầu tư TSCĐ là phải tiến hành tự thẩm định
tức là sẽ so sánh giữa chi tiêu và lợi ích, tính toán một số chỉ tiêu ra quyết định đầu tư
như NPV, IRR…. để lựa chọn phương án tối ưu .
Nhìn chung, đây là nội dung quan trọng trong công tác quản lí sử dụng TSCĐ vì
nó là công tác khởi đầu khi TSCĐ được sử dụng tại doanh nghiệp. Những quyết định ban
đầu có đúng đắn thì sẽ góp phần bảo toàn vốn cố định. Nên công tác quản lí này không
tốt, không có sự phân tích kĩ lưỡng trong việc lựa chọn phương án đầu tư xây dựng mua
sắm sẽ làm cho TSCĐ không phát huy được tác dụng để phục vụ quá trình sản xuất kinh
doanh có hiệu quả và như vậy việc thu hồi toàn bộ vốn đầu tư là điều không thể .
2. Quản lí sử dụng, giữ gìn và sửa chữa .
Trong quá trình sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp,,các bộ phận chi tiết, các phụ
tùng …. bị hư hỏng hoặc hao mòn hoặc xảy ra những tình trạng không bình thường như
nhờn ốc, vỡ van … ngoài viêc giữ gìn, lau dầu …doanh nghiệp phải tiến hành bảo dưỡng,
sửa chữa nhằm đảm bảo năng lực sản xuất bình thường của TSCĐ. Như vậy việc giữ gìn
và sủa chữa TSCĐ là một biện pháp quan trọng để sử dụng tài sản cố định có hiệu quả .
Giữ gìn và sửa chữa TSCĐ phải được tiến hành có kế hoạch. Việc sủa chữa TSCĐ
nói chung chia ra làm sử chữa lớn và sủa chữa thường xuyên. Trong khi sửa chữa phải
thay đổi phần lớn phụ tùng của TSCĐ, thay đổi hoặc sửa chữa một bộ phận chủ yếu cảu
tài sản cố định như thân máy giá máy, phụ tùng lớn . . . việc sửa chữa như vậy đều thuộc
phạm vi của sửa chữa lớn. Sau khi sửa chữa lớn thiết bị sản xuất có thể khôi phụ được
mức độ chính xác và công suất, có khi còn có thể nâng cao năng xuất. Đặc điểm của công
tác sửa chữa lớn là có phạm vi rộng, thời gian dài, cần có thiết bị kỹ thuật và tổ chức
chuyên môn sửa chữa lớn.
Sửa chữa thường xuyên là sửa chữa có tính chất hàng ngày để giữ gìn công suất sử
dụng đều đặn của TSCĐ. Ví dụ như thay đổi lẻ tẻ những chi tiết đã bị hao mòn ở những
thời kỳ khác nhau. Sửa chữa thường xuyên chỉ có thể dữ được trạng thái sử dụng đều đặn
của TSCĐ chứ không thể nâng cao năng suất của TSCĐ lên hơn mức chưa được sửa
chữa. Đặc điểm của sửa chữa thường xuyên là có phạm vi nho, thời gian ngắn, chi phí ít,
tiến hành thường xuyên và đèu đặn.
Thực tiễn cho ta thấy rằng chế độ bảo dưỡng thiết bị máy móc là có nhiều ưu điểm
như khả năng ngăn ngừa trước sự hao mòn quá đáng và tình trạng hư hỏng bất ngờ cũng
như chủ động chuẩn bị đầy đủ khiến cho tình hình sản xuất không bị gián đoạn đột ngột.
Tuỳ theo điều kiệ cụ thể mà mỗi doanh nghiệp thuẹc hiện chế độ sủa chữa với các mức
độ khác nhau.
Thông thường khi tiến hành sủa chữa lớn TSCĐ thường kết hợp với việc hiện đại
hoá và cải tạo thiết bị máy móc. Khi việc sửa chữa lớn, kể cả việc hiện đại hoá, cải tạo
máy móc thiết bị hoàn thành thì nguồn vốn hoàn thành sửa chữa lớn TSCĐ giảm đi, vốn
cố định tăng lên vì TSCĐ được sửa chữa lớn và được khôi phục ở mức độ nhất định
phần giá trị đã hao mòn, nên từ đó tuổi thọ của TSCĐ được tăng lên, tức là đã kéo dài
thời hạn sử dụng. Đây là một nội dung cầng thiết trong quá trình quản lý sử dụng TSCĐ,
nếu được tiến hành kịp thời, có kế hoạch kỹ lưỡng thì việc tiến hành sẽ đem lại hiệu quả
kinh tế cao.
3. Quản lý khấu hao TSCĐ trong doanh nghiệp
Khi sử dụng TSCĐ doanh nghiệp cần phải quản lý khấu hao một cách chặt chẽ vì
có như vậy mới có thể thu hồi được vốn đầu tư ban đầu. Các doanh nghiệp thường thực
hiện việc lập kế hoạch khấu hao TSCĐ hang năm. Thông qua kế hoạch khấu hao doanh
nghiệp có thể thấy nhu cầu tăng giảm vốn cố định trong năm kế hoạch, khả năng tài chính
để đáp ứng nhu cầu đó. Vì kế hoạch khấu hao là căn cứ quan trong để doanh nghiệp xem
xét lựa chọn quyết định đầu tư đổi mới kế hoạch TSCĐ trong tương lai.
5. Quản lý công tác kiểm kê, đánh giá lại TSCĐ
Trong doanh nghiệp, việc kiểm kê tài sản nói chung và TSCĐ nói riêng là công tác
quan trọng trong việc quản lý sử dụng TSCĐ tại doanh nghiệp. Căn cứ vào tài liệu của
việc kiểm kê để có tài liệu đối chiếu giữa số thực tế với số liệu trên sổ sách, qua đó sác
định nguyên nhân gây ra số chênh lệch, xác định người có trách nhiệm về tình hình mất
mát, hư hỏng . . . cũng như phát hiện những đơn vị, cá nhân giữ gìn sử dụng tốt TSCĐ,
đông thời báo cáo lên cấp trên về tình hình đã phát hiện ra để có những kiến nghị và giải
quyết nhất là đối với những trường hợp thừa TSCĐ.
Như vậy, thông qua công tác kiểm kê TSCĐ đã giúp cung cấp về chủng loại của
TSCĐ vừa tạo điều kiện để nắm vững tình hình chất lượng chung trong doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp phải có kế hoạch cụ thể để tiến hành việc kiểm kê hàng năm. Bởi vì
nhiều kết quả của việc kiểm tra vào lúc này cho phép doanh nghiệp có tài liệu chính xác
trong việc lập ra kế hoạch cho năm mới.
Ngoài việc kiểm kê TSCĐ, doanh nghiệp cong tiến hành việc đành giá lại TSCĐ.
Trong quá trình sử dụng lâu dài các TSCĐ có thể tăng năng lực sản xuất của xã hội và
việc tăng năng xuất lao động đương nhiên sẽ làm giảm giá trị TSCĐ tái sản xuất, từ đó
mà không tránh được sự khác biệt giữa giá trị ban đầu của TSCĐ với giá trị khôi phục
của nó. Nội dung của việc đánh giá lại TSCĐ là việc xác định thống nhất theo giá trị hiện
hành của TSCĐ. Có như vậy mới xác định được hợp lý mức khấu hao nhằm hạch toán và
tính giá thành sản phẩm được đúng đắn và như vậy việc tính toán các hiệu quả về tài
chính mới được chính xác.
Công tác đánh giá lại TSCĐ rất lhức tạp, nó đòi hỏi trình độ cán bộ, thời gian . . .
cần thiết. Vì vậy, khi tiến hành đánh giá lại TSCĐ cần phải thức hiện nghiêm túc, chính
xác thì mới đem lại quyền lợi cho bản thân doanh nghiệp.
Tóm lại, Kiểm kê định kỳ TSCĐ và đối chiếu số lượng thực tế với số lượng trên
sổ sách hạch toán kế toán và thống kê, xác định giá trị hiện còn của TSCĐ có tác dụng
quan trọng đối với vấn đề quản lý TSCĐ.
IV. Nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ trong doanh nghiệp
1. Hiệu quả sử dụng tài sản
Khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, mục tiêu của bất cứ một doanh
nghiệp nào cũng là nhằm tối đa hoá giá trị tài sản chủ sở hữu, do vậy mà việc sử dụng tài
sản một cách có hiệu quả tức là kinh doanh đạt tỷ xuất lợi nhuận cao.
Hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ
khai thác, sử dụng tài sản vào hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nhằm mục tiêu
sinh lợi tối đa. Các doanh nghiệp đều cố gắng sao cho tài sản được đưa và sử dụng hợp lý
để kiếm lợi cao nhất đồng thời luôn tìm các nguồn tài trợ, tăng TSCĐ hiện có để mở rộng
sản xuất kinh doanh vả về chất và lượng, đảm bảo các mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra.
2. ý nghĩa
TSCĐ là tư liệu lao động quan trọng để tạo ra sản phẩm, đặt biệt là trong thời kỳ
tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện nay, máy móc đang dần thay thế cho rất nhiều công việc
mà trước đây cần có con người. Điều này cho thấy việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ
sẽ góp phần đáng kể đem lại hiệu quả kinh tế cao cho các doanh nghiệp.
- Trước hết nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ sẽ góp phần làm tăng doanh thu
cũng đồng thời làm tăng lợi nhuận. Do nâng cao hiệu quả sử dụng hiệu quả máy móc
thiết bị tức là máy móc thiết bị đã được tận dụng năng lực, TSCĐ được trang bị hiện đại
phù hợp đúng mục đích, đã làm cho số lượng sản phẩm sản xuất ra nhiều hơn, phong phú
hơn như vậy doanh thu của doanh nghiệp sẽ tăng theo. Doanh thu tăng lên kết hợp với
chi phí sản xuất giảm do tiết kiệm được nguyên, nhiên vật liệu và các chi phí quản lý
khách đã làm cho lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên so với trước kia.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ sẽ nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
doanh nghiệp: Muốn có TSCĐ thì doanh nghiệp cần có vốn. Khi hiệu quả sử dụng TSCĐ
cao thì có nghĩa là doanh nghiệp đã làm cho đồng vốn đầu tư sử dụng có hiệu quả và sẽ
tao cho doanh nghiệp một uy tín tốt để huy động vốn. Bên cạnh đó khi hiệu quả sử dụng
TSCĐ cao thì nhu cầu vốn cố định sẽ giảm di, do đó sẽ cần ít vốn hơn để đáp ứng nhu
cầu kinh doanh nhất định, kế đó sẽ làm giảm chi phí sử dụng nguồn vốn, tăng lợi thế
cạnh tranh về chi phi. Việc tiết kiệm về vốn nói chung tăng lợi thế cạnh trnah về chi phí.
Việc tiết kiệm về vốn nói chung và vốn cố định nói riêng là rất ý nghĩa trong điều kiện
thiếu vốn như hiện nay.
- TSCĐ được sử dụng hiệu quả sẽ giúp cho doanh nghiệp bảo toàn và phát huy
vốn tốt nhất (đây là nghĩa vụ của doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích của nhà nươc về vốn đã
đầu tư, là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển, tăng thu nhập cho người lao
động và nghĩa vụ với nhân sách nhà nước) do tận dụng được công suất máy móc, sắp xếp
dây truyền sản xuất hợp lý hơn, vấn đề khấu hao tài sản cố định, trích lập quĩ khấu hao . .
. được tiến hành đúng đắn chính xác.
- Ngoài ra việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ cong tăng sức cạnh tranh cho
doanh nghiệp trên thi trường. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào lợi thế
cạnh tranh của doanh nghiệp trong đó có lợi thế về chi phí và tính khác biệt của sản
phẩm.
TSCĐ được sử dụng có hiệu quả làm cho khối lượng sản phẩm tạo ra tăng lên,
chất lượng sản phẩm cũng tưng do máy móc thiết bị có công nghệ hiện đại, sản phẩm
nhiều chủng loại đa dạng, phong phú đồng thời chi phí của doanh nghiệp cũng giảm và
như vậy tạo nên lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Tóm lại, việc nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ có ý nghĩa quan trọng không
những giúp cho doanh nghiệp tăng được lợi nhuận (là mục tiêu hàng đầu của doanh
nghiệp) mà còn giúp doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn cố định, tăng sức mạnh tài
chính, giúp doanh nghiệp đổi mới, trang bị thêm nhiều TSCĐ hiện đại hơn phục vụ cho
nhu cầu sản xuất, tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thị trường.
3. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ
Kiểm tra tài chính hiệu quả sử dụng TSCĐ là một nội dung quan trọng trong hoạt
động tài chính doanh nghiệp. Thông qua việc kiểm tra tài chính doanh nghiệp có được
những căn cứ xác đáng để đưa ra những quyết định về mặt tài chính như điều chỉnh qui
mô và cơ cầu đầu tư, đầu tư mới hay hiện đại hoá TSCĐ, về các biện pháp khai thác năng
lực sản xuất của TSCĐ hiện có, nhò đó nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ. Thông thường
người ta sử dụng các chỉ tiêu sau đây để đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ của doanh
nghiệp:
a. Chỉ tiêu hiệu suất sử dụng TSCĐ
Doanh thu thuần trong kỳ
Hiệu suất sử dụng TSCĐ = x 100%
TSCĐ bình quân
Trong đó:
TSCĐ bình quân = 1/2 (giá trị TSCĐ đầu kỳ
+ giá trị TSCĐ cuối kỳ)
ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh một đồng TSCĐ trong kỳ toạ ra được bao nhiêu
đồng doanh thu hoặc doanh thu thuần. Hiệu suất càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng
TSCĐ cang cao.
b. Chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên TSCĐ
Lợi nhuận ròng
Lợi nhuận ròng trên TSCĐ = x 100%
TSCĐ bình quân
Trong đó:
Lợi nhuận ròng là chênh lệch thu nhập và chi phí mà doanh nghiệp thực hiện trong
kỳ sau khi trừ đi thuế thu nhập doanh nghiệp. Chú ý ở đây muốn hiệu quả sử dụng TSCĐ
thì lợi nhuận ròng chỉ bao gồm phần lợi nhuận do có sự tham gia trực tiếp của tài sản cố
định tạo ra. Vì vậy phải loại bỏ lợi nhuận từ các hoat động khác.
ý nghĩa: Cho biết một đồng TSCĐ sử dụng trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng
lợi nhuận ròng. Giá trị này càng lớn càng tốt.
c. Hệ số trang bị máy móc thiết bị cho công nhân trực tiếp sản xuất
Giá trị của máy móc, thiết bị
Hệ số trang bị máy móc, thiết bị =
Số lượng công nhân trực tiếp SX