Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Tài liệu LUẬN VĂN: Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thánh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM – Hà Nội ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.43 KB, 63 trang )
















LUẬN VĂN:

Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thánh toán
quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng cổ phần
PHƯƠNG NAM – Hà Nội








Lời mở đầu



Sự hợp tác và tham gia phân công lao động quốc tế tăng lên không ngừng không
những làm cho trao đổi hàng hoá trong nước gia tăng mà còn làm cho sự trao đổi hàng
hoá và dịch vụ giữa các nước phát triển. Các mối liên hệ kinh tế giữa các nước ngày càng
phát triển và dần dần tạo thành một thị trường thế giới thống nhất.
Trên cơ sở các mối quan hệ kinh tế giữa các nước dẫn đến vấn đề xuất nhập khẩu
và hệ thống liên ngân hàng giữa các quốc gia được đẩy lên một tầm cao mới. Ngoại
thương phát triển, lúc này thanh toán quốc tế rất cần thiết cho việc trao đổi và thanh toán
giữa các quốc gia, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đối ngoại và ngoại
thương.
Hệ thống thanh toán ngày nay rất phát triển. Thiết nghĩ rằng, việc nghiên cứu vấn
đề này là rất cần thiết cho mỗi thành viên khi tham gia nghiên cứu kinh tế. Thời kỳ từ
1989 trở lại đây đã phản ánh rõ nét tính cấp thiết của thanh toán quốc tế. Mong rằng sự
tìm hiểu này sẽ tạo lập được một số thông tin phục vụ cho việc nghiên cứu hệ thống
thanh toán quốc tế đi sâu sát hơn về tình hình quốc tế và Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế
đối ngoại mà đặc biệt là trong ngoại thương.

Qua thời gian thực tập tại Chi nhánh Ngân hàng thương mại Cổ phần Phương
Nam- Hà Nội dưới sự hướng dẫn của TS- Đào văn Hùng, Em đã chọn đề tài nghiên cứu
“Giải pháp hoàn thiện nghiệp vụ thánh toán quốc tế tại chi nhánh Ngân hàng cổ
phần PHƯƠNG NAM – Hà Nội”.








Chương I: Các phương thức thanh toán quốc tế
I. Các phương thức thanh toán quốc tế

1.1Khái niệm và các đặc trưng về thanh toán quốc ế 05
1.2Tính bức xứcvà cần thiết của hệ thống thanh toán quốc tế trong ngoại
thương 05
1.3Các nhân tố ảnh hưởng đến phương thức thanh toán quốc tế trong ngoại
thương 06.
2. Các phương tiện thanh toán quốc tế thông dụng trong ngoại thương:
2.1 Hối phiếu 08
2.2 Séc 09
2.3Kỳ phiếu 12
3. Các điều kiện thanh toán quốc tế quy định trong hợp đồng mua bán ngoại thương:
3.1 Điều kiện tiền tệ: 14
3.2 Điều kiện địa điểm thanh toán 16
3.3 Điều kiện thời gian thanh toán 16
3.4 Điều kiện phương thức thanh toán 16
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến thanh toán quốc tế.
4.1Tỷ giá hối đoái 17
4.2Vai trò của Ngân hàng trong thanh toán quốc tế 17

Chương II:
Thực trạng của hệ thống thanh toán quốc tế tại ngân hàng thương mại cổ phần
phương nam .
I . Tổng quan về Ngân hàng Phương nam
1.1 Sự ra đời và phát triển của Ngân hàng Cổ phần PHƯƠNG NAM 19
1.2 Các hoạt động kinh doanh chủ yếu 20
II. Tình hình hoạt động các nghiệp vụ thanh toán quốc tế tại chi nhánh NHTMCP
Phương Nam.
Chính sách liên quan đến dịch vụ thanh toán quốc tế của Ngân hàng 28


2.2 Tình hình hoạt động thanh toán quốc tế tại NHTMCP- Phương Nam 30

2.3 Hoạt động thanh toán quốc tế tại chi nhánh Hà Nội 32
2.3.1Phương thức thanh toán quốc tế L/C 34
2.3.2 áp dụng phương thức thanh toán quốc tế L/C vào hoạt động 37.
2.3.3 Tín dụng theo hình thức thanh toán bằng L/C 39
2.4 Ưu và nhược điểm về hoạt động kinh doanh của chi nhánh 42
2.4.1 Ưu điểm 42
2.4.2 Nhược điểm 44
Chương III:
Một số giải pháp và kiến nghị dể phát triển hệ thống thanh toán quốc tế thông qua
các phương thức thanh toán quốc tế hiện nay.

I. Định hướng phát triển hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của NHTMCP-
Phương Nam 46.
II. Giải pháp và kiến nghị.
2.1 Đối với vấn đề thanh toán quốc tế 47
2.2 Giải pháp mở rộng thanh toán quốc tế đối với doanh nghiệp hoạt động xuất nhập
khẩu tại chi nhánh Hà Nội 47
2.2.1 Tăng tổng dư nợ cho vay xuất nhập khẩu 48
2.2.2 Chủ động tìm bạn hàng 52
2.2.3 Hoạt động Marketing một cách có hiệu quả 53
2.2.4 Bảo đảm lượng ngoại tệ cho hoạt động cho vay xuất nhập khẩu 55
2.2.5 Tiếp tục đào tạo nâng cao trình độ cán bộ trong Ngân hàng 55
2.3 Kiến nghị đối với Ngân hàng TMCP Phương Nam
2.3.1 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, tạo thế cạnh tranh mới 56
2.3.2 Củng cố và mở rộng hệ thống chi nhánh 57
2.3.3 Nâng mức uỷ quyền phans quyết cho vay ngoại tệ 57
2.3.4 Nới lỏng hoạt động huy động vốn 58
2.4 Kiến nghị đối với Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước



2.4.1 Về hệ thống luật và văn bản dưới luật 58
2.4.2 Về chủ trương cơ cấu lại ngân hàng 59
2.4.3 Thành lập ngân hàng chi nhánh xuất nhập khẩu 60
2.4.4 Phát triển thị trường hối đoái hoàn hảo để mở rộng nguồn vốn bằng ngoại tệ, cung
cấp cho hệ thống cho vay xuất nhập khẩu 62
Kết luận 63













Chương I: Các phương thức thanh toán quốc tế
I. Khái niệm và sự cần thiết phải nghiên cứu TTQT
1.Khái niệm về thanh toán quốc tế.
Chúng ta đều hiểu rằng , ngày nay mỗi quốc gia đều có quan hệ không nhiều thì
ít với các quốc gia khác vì nhu cầu cuộc sống và phát triển kinh tế. Đòi hỏi của con
người đã làm cho trao đổi ngày càng mở rộng khắp thế giới.
1.1 Khái niệm về thanh toán quốc tế.


Chúng ta đều biiết rằng, ngày nay mỗi quốc gia đều có quan hệ không ít thì nhiều
với các quốc gia khác vì nhu cầu cuộc sống và phát triển thị trường. Đòi của con người

đã làm cho trao đổi ngày càng mở rộng khắp thế giới. Quá trình trao đổi này kéo theo
hai loại quan hệ: 1> quan hệ thanh toán trực tiếp giữa người mua và kẻ bán, 2> quan hệ
thanh toán gián tiếp giữa các quốc gia. Vì những quan hệ thanh toán này vượt qua biên
giới, người ta gọi đó là thanh toán quốc tế.
Vậy: Khi biên giới hữu hình giữa các quốc gia còn tồn tại thì mọi hoạt động
thanh toán, chuyển, nhượng tiền, tài sản giữa một nước với các nước khác trên thế giới
được gọi là thanh toán quốc tế (TTQT).
1.2 Tính bức xúc và cần thiết của hệ thống TTQT trong ngoại thương.
Không phải đợi đến khi thế giới nhất thể hoá thành một cộng đồng, nhu cầu tồn
tại và phát triển tốt hơn cho con người đã thúc đẩy các nước phải có quan hệ buôn bán,
đầu tư và liên kết với nhau. Do vậy, TTQT giữa các nước là điều kiện tất yếu.
Suy cho cùng, mục tiêu phấn đấu thiết lập cơ sở chung cho các đồng tiền từ đầu
thế kỷ đến nay như hệ thống tiền tệ thế giới và các thiết chế tài chính đa quốc gia là
nhằm hỗ trợ cho quá trình TTQT giữa các nước trên thế giới.
Từ điều kiện khách quan cho đến chủ quan đều phản ánh rõ TTQT là rất cần
thiết. Thương mại nói riêng và nền kinh tế nói chung đều liên quan đến TTQTđể hội
nhập và cùng phát triển với kinh tế các nước trên thế giới. Đó là điều kiện để phát triển
và hội nhập cùng kinh tế khu vực và thế giới, cùng với các tổ chức kinh tế tạo sức mạnh
cho kinh tế đối ngoại và ngoại thương lên một bước tiến mới.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển TTQT trong ngoại thương.
Giữa các quốc gia, ngoại tệ là tài sản dự trữ dùng để đối thoại với nước ngoài.
Cho nên việc lưu chuyển ra vào của loại tiền tài sản này được chính phủ theo dõi. Quá
trình theo dõi nói rtên làm cho việc buôn bán với nước ngoài được thể hiện trên sổ sách
quốc gia. Loại sổ sách mà quốc gia dùng để thể hiện các luồng thanh toán và trả nợ giữa
người trong nước và ngoài nước được gọi là cán cân thanh toán.


Các nhân tố được phản ánh trên cán cân thanh toán đồng thời cho ta thấy sự ảnh
hưởng và sự tác động đến sự biến động của TTQT.
Tài khoản vãng lai.

Tài khoản vốn.
Tài khoản dự trữ chính thức.
- Tài khoản vãng lai:bao gồm xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá dịch vụ.
- Tài khoản vốn: bao gồm mua, bán các tài sản như cổ phần, trái phiếu, tài khoản ngân
hàng, bất động sản và doanh nghiệp.
- Tài khoản dự trữ chính thức: bao gồm mua bán tài sản dự trữ quốc gia, ngoại tệ, vàng
và quyền rút vốn đặc biệt (SDRs).
Thương mại quốc tế là sự xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình như dầu mỏ, quần
áo, xe hơi đều phản ánh hoạt động thanh toán thông qua các phương tiện thanh toán
quốc tế. Dịch vụ cũng thuộc nhóm tài khoản vãng lai, bao gồm các khoản phải thanh
toán và các khoản được thanh toán về cố vấn, luật pháp, dịch vụ kỹ thuật, bản quyền,
bằng phát minh và tài sản tri thức, tiền đóng bảo hiểm, phí vận chuyển, chi tiêu du lịch.
Các khoản thương mại mang hình thái dịch vụ này thường được gọi là thương mại vô
hình. Đồng thời, yếu tố thu nhập cũng bao quát những khoản thanh toán và khoản được
trả từ tiền lãi, cổ tức đến tất cả những thu nhập khác từ đầu tư ở nước ngoài.
Tài khoản vốn gồm 3 nhóm: đầu tư trực tiếp, đầu tư chứng khoán và vốn khác.
Cán cân vốn đo lường chênh lệch giữa bán tài sản cho người nước ngoài và mua tài sản
từ nước ngoài. Không giống như mua bán hàng hoá và dịch vụ, mua bán tài sản tài
chính ảnh hưởng đến những khoản thanh toán và nhận được trong tương lai do đầu cơ
về vốn.
Tài sản dự trữ chính thức đó là những khoản mà một quốc gia phải chi trả để
thanh toán cho người nước ngoài vì thâm hụt cán cân thanh toán, ngân hàng trung ương
của quốc gia đó nên giảm bớt tài sản dự trữ chính thức như vàng, ngoại tệ, SDRs, hoặc
vay ngân hàng trung ương nước khác. Ngược lại, nếu quốc gia có thặng dư trên cán cân


thanh toán, ngân hàng trung ương nước đó sẽ trả nợ nước ngoài hoặc tăng thêm tài sản
dự trữ.
Tóm lại, mọi vấn đề đều tập trung để cân bằng cán cân thanh toán trong mỗi
quốc gia khi tham gia và hội nhập với kinh tế các nước để có sự phát triển hài hoà và

nhịp nhàng. Tài khoản vốn và tài khoản vãng lai ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống thanh
toán quốc tế trong ngoại thương. Đồng thời hai tài khoản trên càng phát triển bao nhiêu
thì thanh toán quốc tế càng phát triển, tài khoản dự trữ chính thức dưới tác động của
chính phủ ảnh hưởng tới hệ thống thanh toán khi sự phát triển không cân đối của nền
kinh tế đặc biệt là kinh tế đối ngoại và ngoại thương.
2. Các phương tiện thanh toán thông dụng trong ngoại thương.
Các phương tiện lưu thông tín dụng (hối phiếu, kỳ phiếu, séc) được dùng làm
phương tiện thanh toán quốc tế hình thành trên cơ sở của sự phát triển tín dụng thương
mại và tín dụng ngân hàng, có vai trò rất quan trọng trong thanh toán quốc tế. Trong
thời đại hiện nay, quy mô phát triển cực kỳ rộng lớn của các nghiệp vụ cho vay, các
phương tiện lưu thông tín dụng đã trở thành vật mang hình thái tiền tệ đặc thù. Khác với
tiền kim loại mang đầy đủ giá trị, các phương tiện lưu thông tín dụng không có giá trị
nội tại mà nó chỉ là dấu hiệu của tiền tệ mà thôi. Tiền thật là do Nhà nước phát hành còn
phương tiện lưu thông tín dụng phần lớn là do kết quả của hợp đồng mua bán hàng hoá
và các nghiệp vụ của ngân hàng tạo ra.
2.1 Hối phiếu (Bill of exchange)
Thương phiếu là công cụ thanh toán quốc tế thông dụng. Thương phiếu bao gồm
hai loại: hối phiếu và kỳ phiếu trong đó hối phiếu được sử dụng rộng rãi hơn.
a-Khái niệm và đặc trưng của hối phiếu.
Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho
người khác, yêu cầu của người này khi nhìn thấy phiếu, hoặc đến một ngày cụ thể nhất
định, hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương lai phải trả một số tiền nhất định
cho một người nào đó hoặc theo lệnh của người này trả cho người khác hoặc trả cho
người cầm phiếu.


Qua khái niệm cho thấy, hối phiếu có ba đặc điểm quan trọng:
-Tính trừu tượng của hối phiếu : Trên hối phiếu không cần phải ghi nội dung quan hệ tín
dụng, tức là nguyên nhân sinh ra hối phiếu mà chỉ ghi số tiền phải trả với nội dung liên
quan tới việc trả tiền. Do đó nghĩa vụ trả tiền của hối phiếu là trừu tượng.

-Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu : Người trả tiền hối phiếu phải trả tiền theo đúng
nội dung ghi trên hối phiếu.
-Tính lưu thông của hối phiếu : hối phiếu có thể được chuyển nhượng một hay nhiều lần
trong thời hạn của nó.
b- Điều kiện thành lập hối phiếu :
-Về mặt hình thức quy định:
+ Hối phiếu làm thành văn bản (bắt buộc).
+Hình mẫu hối phiếu không quyết định giá trị pháp lý của hối phiếu .
+Ngôn ngữ tạo lập hối phiếu là ngôn ngữ viết hoặc in sẵn, đánh máy bằng một thứ
tiếng nhất định và thống nhất.
+Hối phiếu lập thành một hay nhiều bản, mỗi bản đều đánh số thứ tự, các bản đều
có giá trị như nhau. Bản nào đến trước thì thanh toán trước, bản nào đến sau thì vô giá
trị.
-Về nội dung:
+ Tiêu đề của hối phiếu: “Hối phiếu”.
+ Địa đIểm ký phát hối phiếu: địa điểm ký phát hoặc địa chỉ người ký.
+ Ngày tháng ký phát: xác định thời gian trả tiền của hối phiếu.

2.2séc (Cheque)
a. Khái niệm chung.
Séc là một tờ mệnh lệnh vô điều kiện của người chủ tài khoản, ra lệnh cho ngân hàng
trích từ tài khoản của mình để trả cho người có tên trong séc, hoặc trả cho người cầm
séc một số tiền nhất định, bằng tiền mặt hay bằng chuyển khoản.


Đối với người có tiền mở tại ngân hàng một tài khoản, ngân hàng sẽ cấp cho người
gửi tiền một quyển séc. Mỗi lần muốn rút tiền thì viết một tờ séc đưa đến ngân hàng để
lĩnh tiền.
b. Đặc điểm của séc
-Tính thời hạn: tức là tờ séc chỉ có giá trị tiền tệ hoặc thanh toán nếu thời hạn

hiệu lực của nó chưa hết đối với séc thương mại. Thời hạn hiệu lực của tờ séc được ghi
rõ trên tờ séc. Thời hạn đó tuỳ thuộc vào phạm vi không gian mà séc lưu hành và luật
pháp của các nước quy định. Nói chung séc lưu hành trong nội địa thời gian ngắn hơn
lưu hành trong TTQT.
Séc dùng để trả tiền ngay, thời hạn hiệu lực của séc là 8 ngày làm việc kể từ ngày
phát hành séc nếu là séc lưu hành trong một nước, là 20 ngày làm việc nếu lưu thông
ngoài nước trong cùng một châu lục, là 70 ngày nếu séc được trả ở một nước ngoài châu
lục.Quá thời hạn trên nếu séc quay trở lại ngân hàng thì séc sẽ mất hiệu lực. Đối với séc
du lịch thì không kể thời gian.
c. Séc có giá trị thanh toán trực tiếp như tiền tệ, do vậy séc phải có những quy
định về hình thức và nội dung theo luật định:
- Về nội dung:
. Một lệnh trả tiền muốn được coi là séc thì trước tiên phải có tiêu đề SEC ghi
trên tờ lệnh đó. Vì séc là lệnh nên khi nhận dược séc thì phải chấp hành lệnh này vô
điiêù kiện, trừ trường hợp tài khoản phát hành séc không có tiền hoặc tờ séc không đủ
tính pháp lý.
. số tiền ghi trên séc phải rõ ràng, phải ghi bằng số và ghi bằng chữ phải khớp
đúng nhau, có ký hiệu tiền tệ. Trên séc phải ghi rõ địa điểm và ngày tháng lập séc, tên
địa chỉ của người yêu cầu trích tài khoản, tài khoản được trích trả, ngân hàng trả tiền,
tên địa chỉ người hưởng số tiền trên séc, chữ ký của người phát hành séc (nếu là tổ chức
thì phải có chữ ký của người có tài khoản, kế toán trưởng và dấu của tổ chức đó).
Tất cả các yếu tố trên cần phải ghi rõ ràng, không tẩy xoá, ghi cùng loại chữ, một
thứ mực, không ghi bằng mực đỏ. Điều cơ bản quan trọng là người phát hành séc phải


có tiền mở ở ngân hàng, số tiền trên tờ séc không vượt quá số dư trên tài khoản ở ngân
hàng.
d. Sơ đồ lưu thông séc:



Lưu thông séc qua một ngân hàng (NH)
(1): giao hàng.
(2): Phát hành séc thanh toán.
(3): Mang séc đến ngân hàng lĩnh tiền.
(4):Báo có cho người hưởng lợi Séc.
(5):Quyết toán giữa NH với người mua.
- Lưu thông Séc qua 02 NH
(1): Giao hàng.
(2):Phát hành Séc thanh toán.
(3): Nhờ NH thu hộ tiền ghi trên Séc.
(4): Thu tiền.
(5): NH trả tiền cho người hưởng Séc.
NGÂN Hàng
người bán
người mua

nh Bên
bán

người mua
nh Bên
mua

người bán


(6): Quyết toán giữa NH với người mua.
e. Các loại Séc:
- Séc tên là loại Séc ghi rõ tên người hưởng lợi (không thể chuyển nhượng).
- Séc vô danh là loại Séc không ghi tên người hưởng lợi (Séc có thể chuyển

nhượng).
- Séc gạch chéo (Crossed cheque) là loại Séc trên mặt trước của nó có hai gạch
chéo song song với nhau. Séc gạch chéo không thể dùng dể rút tiền mặt, thường dùng
để chuyển khoản qua NH. Có hai loại Séc gạch chéo:
+ Séc gạch chéo thường (Cheque crossed generaly) gạch chéo không tin tức là giữa hai
gạch song song không ghi tên NH lĩnh hộ tiền.
+ Séc gạch chéo đặc biệt (Cheque crossed specially) gạch chéo có ghi tin tức là giữa hai
gạch chéo có ghi tên một tên NH nào đó và chỉ có NH đó mới có quyền lĩnh tiền mà
thôi.
- Séc chuyển khoản ( cheque transferable) là loại Séc mà người ký phát Séc ra lệnh
cho NH rtích từ tài khoản của mình chuyển sang tài khoản khác của người khác trong
hoặc ngoài NH.
- Séc du lịch ( Traverller’s cheque) là loại Séc do NH phát hành và được trả tiền tại
bất cứ một chi nhánh nào hoặc đại lý nào của NH đó.
- Séc xác nhận (Certified cheque) là loại Séc được NH chấp nhận việc trả tiền.
Mục đích xác nhận là nhằm đảm bảo khả năng chi trả cho tờ Séc, chống Séc khống.
2.3 Kỳ phiếu:( Promissory note)
Ngược lại với Hối phiếu, Kỳ phiếu là do con nợ viết ra để hứu cam kết trả tiền
cho người hưởng lợi. Với tính thụ động trong thanh toán trên, trong thanh toán quốc tế
Kỳ phiếu ít được sử dụng hơn Hối phiếu.
a. Khái niệm.


Hối phiếu là một tờ giấy cam kết trả tiền vô điều kiện do người lập phiếu phát
hành ra hứa trả một số tiền nhất định cho người hưởng lợi hoặc lệnh của người này trả
cho người khác theo quy định trong Kỳ phiếu đó.
b.Đặc điểm và điều kiện:
Như Kỳ phiếu thương mại, tuy nhiên nó có một số đặc thù sau:
- Kỳ hạn Kỳ phiếu được ghi rõ trên nó.
- Một Kỳ phiếu có thể do một hay nhiều người ký phát để cam kết thanh toán cho

một hay nhiều người hưởng lợi.
- Kỳ phiếu cần có sự bảo lãnh của NH hoặc công ty Tài chính. Sự bảo lãnh nay
đảm bảo khả năng thanh toán của Kỳ phiếu.
- Kỳ phiếu khác với Hối phiếu làthường có hai bản: bản 01 và bản 02, Kỳ phiếu
chỉ có một bản chính do con nợ phát ra để chuyển cho người hưởng lợi Kỳ phiếu đó.

3. Các điều kiện thanh toán quốc tế quy định trong hợp đồng mua bán Ngoại
thương
Trong quan hệ thanh toán giữa các nước, các vấn đề có liên quan đến quyền lợi
và nghĩa vụ của đôi bên thì phải đề ra để giải quyết và thực được quy định lại thành
những điều kiện gọi là điều kiện thanh toán quốc tế. Cácđiều kiện đó là:
- Điều kiện về tiền tệ.
- Điều kiện về địa điểm.
- Điều kiện về thời gian.
- Điều kiện về phương thức thanh toán.
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế là sự vận dụng tổng hợp các điều kiện TTQT.
Những điều kiện này được thể hiện ra trong các điều khoản thanh toán của các hiệp định
thương mại, các hiệp định trả tiền ký kết giữa các nước, của các hợp đồng mua bán
ngoại thương ký kết giữa người mua và người bán.


Trong nghiệp vụ mua bán với các nước, chúng ta cần phải nghiên cứu kỹ các
điều kiện thanh toán quốc tế để có thể vận dụng một cách tốt nhất trong việc ký kết và
mua bán ngoại thương nhằm phục tùng các yêu cầu chính sách đối ngoại và đặt các yêu
cầu cụ thể sau:
 Khi xuất khẩu:
- Bảo đảm chắc chắn thu được đúng, đủ, kịp thời tiền hàng, thu về càng nhanh
càng tốt.
- Bảo đảm giữ vững giá trị thực tế của ssó thu nhập ngoại tệ khi có những biến
động tiền tệ xảy ra.

- Góp phần đẩy mạnh xuất khẩu, củng cố và mở rộng thị trường, phát triển thêm
thị trường mới.
 Khi nhập khẩu:
- Bảo đảm chắc chắn nhập được hàng đúng số lượng, chất lượng và đúng thời hạn
- Trong các điều kiện không thay đổi thì trả tiền càng chậm càng tốt.
- Góp phần vào việc nhập khẩu của ta theo đúng yêu cầu phát triển của nền kinh tế
quốc dân một cách thuận lợi.
3.1 Điều kiện tiền tệ.
Căn cứ vào mục đích sử dụng, tiền tệ trong thanh toán chia làm hai loại:
- Tiền tệ tính toán là tiền tệ được dùng để thể hiện giá cả và tính toán tổng giá trị
hợp đồng.
- Tiền tệ thanh toán là tiền tệ được dùng để thanh toán nợ nần, thanh toán trong
hợp đồng mua bán ngoại thương.
Việc sử dụng đồng tiền nào là tiền thanh toán trong hợp đồng mua bán ngoại
thương, trong hiệp định thương mại, và trả tiền giữa các nước nói chung phụ thuộc vào
các yếu tố sau đây:
+ So sánh lực lượng của hai bên mua và bán.
+ Vị trí của đồng tiền đó trên thị trường quốc tế.


+Tập quán sử dụng đồng tiền đó trên thế giới.
+Đồng tiền thanh toán thống nhất trong các khu vực kinh tế trên thế giới.
Tuy nhiên khủng hoảng thu chi quốc tế của các nước làm cho tiền tệ thường xuyên
biến động. Vì vậy, các khoản ngoại hối có thể bị tổn thất do ngoại hối đó sụt giá hoặc
những khoản chi ngoại hối có thể bị tổn thất do tăng giá. Cho nên diều kiện đảm bảo hối
đoái rất cần thiết. Những điều kiện đảm bảo hối đoái thường dùng trong TTQT về ngoại
thương như sau:
a. Điều kiện đảm bảo vàng:
Hình thức của điều kiện đảm bảo vàng là giá cả hàng hoá với tổng giá hợp đồng
được quy định bằng một số lượng vàng nhất định hoặc đều dùng một đồng tiền để tính

toán và thanh toán, đồng thời quy định giá vàng lúc đó trên thị trường nhất định làm cơ
sở đảm bảo. Tuy vậy hình thức đảm bảo này chỉ là tương đối nên ít được dùng.
b. Điều kiện đảm bảo ngoại hối:
Lựa chọn đồng tiền tương đối ổn định, xác định mối quan hệ tỷ giá với đồng tiền
thanh toán để đảm bảo giá trị của tiền tệ thanh toán là điều kiện để đảm bảo ngoại hối.
Điều kiện đảm bảo ngoại hối có hai cách quy định sau đây:
-Trong hợp đồng quy định đồng tiền tính toán và đồng tiền thanh toán là một loại
tiền, đồng thời xác định tỷ giá giữa đồng tiền đó với một đồng tiền khác. Đến khi trả
tiền, nếu tỷ giá thay đổi thì giá cả hàng hoá và tổng giá trị hợp đồng phải được điều
chỉnh một cách tương ứng.
-Trong hợp đồng quy định đồng tiền tính toán là một đồng tiền(thường là đồng
tiền tương đối ổn định) và thanh toán bằng đồng tiền khác. Khi trả tiền căn cứ vào tỷ giá
giữa đồng tiền tính toán và đồng tiền thanh toán để tính ra số tiền phải trả là bao nhiêu.
Đây là cách dùng trong thanh toán quốc tế hiện nay.
c. Điều kiện đảm bảo theo “ rổ” tiền tệ:
-Trong điều kiện hiện nay, khi mà hàm lượng vàng của tiền tệ không còn ý nghĩa
thiết thực đối với việc xác định tỷ giá hối đoái, hệ thống tỷ giá cố định dưới mọi hình


thức đã bị tan vỡ, tỷ giá hoạt động dữ dội và thả nổi tự do, sức mua của tiền tệ nhiều
nước giảm sút nghiên trọng thì việc áp dụng các điều kiện đảm bảo hối đoái nói trên là
không còn ý nghĩa thiết thực nữa.
Để khắc phục tình hình trên, người ta dựa vào ngoại tệ của nhiều nước để đảm
bảo giá trị thực tế của các khoản thu nhập bằng ngoại tệ trên hợp đồng. Cách đảm bảo
đó gọi là đảm bảo hối đoái theo “rổ” ngoại tệ được chọn.
d. Điều kiện đảm bảo căn cứ vào tiền tệ quốc tế: SDR ECU (UERO)
Tổng giá trịgiá hợp đồng được tính toán và thanh toán bằng một ngoại tệ nào đó,
đồng thời chọn SDR (hoặc UERO) làm tiền tệ đảm bảo đồng tiền của hợp đồng.
e. Điều kiện đảm bảo căn cứ vào biến động của giá cả:
Số tiền phải thanh toán căn cứ vào tìnhhình biền động của chế độ giá cả mà thay

đổi một cách tương ứng. Tuy nhiên, trong Ngoại thương thường ít dùng cách này bởi vì
chỉ số giá không phản ánh đầy đủ và sự biến động tiền tệ, bởi vì có nhiều yếu tố tác
động đến biến động giá cả, trong đó nhân tố tiền tệ chỉ là một
Số tiền phải trả că cứ vào tình hình biến động giá cả hàng đó trên thị trường hay
giá thành sản xuất loại hàng đó.
3.2 Điều kiện địa điểm thanh toán.
Trong thanh toán giữa các nước, địa điểm thanh toán có thể ở nước nhập khẩu,
hoặc ở nước xuất khẩu, nước thứ ba. Nhưng thực tế, việc xác định địa điểm thanh toán
là do sự so sánh lực lượng giữa hai bên quyết định, đồng thời cũng còn cho thấy rằng
dùng đồng tiền thanh toán của nước nào thì địa điểm thanh toán thường ở nước ấy.
3.3 Điều kiện thời gian thanh toán:
Điều kiện thời gian thanh toán có liên quan chặt chẽ tới việc luân chuyển vốn, lợi
tức, khả năng có thể trách được những biến động về tiền tệ thanh toán, do đó nó là vần
đề quan trọng và thường xảy ra tranh chấp các bên trong đàm phán ký kết hợp đồng.
Trong TTQT, điều kiện thời gian thanh toán trong các nghiệp vụ Ngoại thương
phức tạp hơn cả , thường có ba cách quy định:


- Thời gian trả tiền trước.
- Thời gian trả ngay.
- Thời gian trả tiền sau.
3.4 Điều kiện phương thức thanh toán:
Phương thức thanh toán là điều quan trọng nhất trong các điều kiện TTQT. Các
phương thức thanh toán quốc tế dùng trong Ngoại thương bao gồm có:
- Phương thức chuyển tiền.
- Phương thức ghi sổ.
- Phương thức nhờ thu.
- Phương thức tín dụng chứng từ.
4. Các yếu tố tác động đến TTQT.
TTQT là một hệ thống vô cùng phức tạp nhưng là sự cần thiết của mỗi quốc gia

khi tham gia phát triển và hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên hệ thống
thanh toán quốc tế cũng bị chi phối bởi các yếu tố về tỷ giá hối đoái, các chính sách và
biện pháp tài chính với vai trò của NH trong nền kinh tế đó để điều chỉnh cán cân TTQT
một cách hợp lý.
4.1 Tỷ giá hối đoái:
Thay đổi tỷ giá để điều chỉnh cán cân thanh toán là một biện pháp mà chính phủ
các nước thường sử dụng. Thông qua chính sách phá giá (Devaluation) hay giảm giá
(depreciation) tiền tệ để thúc đẩy nhanh xuất khẩu hàng hoá, khuyến khích đầu tư nước
ngoài vào trong nước làm tăng thu ngoại hối và hạn chế nhập khẩu hàng hoá, đầu tư ra
nước ngoài nhằm giảm nhu cầu ngoại hối, do đó đã góp phần điều chỉnh sự thiếu hụt
của cán cân thanh toán, Việc điều chỉnh cán cân thanh toán thường xảy ra khi cán cân
thanh toán bị thiếu hụt hoặc dư thừa. Tuy nhiên trên thực tế, người ta chỉ điều chỉnh cán
cân thanh toán khi nó bị thiếu hụt mà thôi. Chính vì vậy, khi phá giá hoặc giảm giá tiền
tệ đồng nghĩa với nhu cầu xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng nhanh đến khả năng
TTQT tăng toạ điều kiện để điều chỉnh cán cân thanh toán cân bằng.


4.2 Vai trò của Ngân hàng trong thanh toán quốc tế.
Trước hết, thông qua nghiệp vụ qua lại đồng nghiệp với các đại lý NH ở nước
ngoài để cho vay ngoại tệ nhằm bổ sung vào lượng ngoại hối cung cấp cho thị trường.
Trước thời kỳ chủ nghĩa tư bản lũng đoạn, việc vay nợ các ngân hàng cần cân bằng cán
cân thanh toán chỉ diễn ra trong phạm vi nhỏ giữa NH nước này với nước kia. Trong
giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, với sự lũng đoạn trong phạm vi quốc tế, một nước nào đó
cần tín dụng để cứu nguy cán cân TTQT của mình có thể sử dụng thẻ tín dụng của nhiều
NH khác hoặc của các tổ chức tiền tệ quốc tế trên cơ sở ký kết các hiệp định giữa họ.
Sau nữa, NHTW áp dụng các chính sách tiền tệ và tín dụng để thu hút vốn ngắn
hạn của nước ngoài chạy vào nước mình để tăng số thu nhập trong cán cân thanh toán,
do đó làm giảm bớt mức thiếu hụt của cán cân này. Chính sách chiết khấu thường được
sử dụng nhiều nhất.
Cuối cùng, việc sử dụng hai cách trên của ngân hàng vẫn chưa giải quyết hết tình

trạng thiếu hụt của cán cân TTQT thì các nước phải xuất vàng để trả nợ. Cần phải phân
biệt việc xuất vàng để cân bằng cán cân TTQT thiếu hụt với việc xuất vàng với tư cách
là hàng hoá thông thường trong quan hệ mua bán.
Ngoài ra việc áp dụng tất cả các biện pháp trên mà không giải quyết được tình
trạng thiếu hụt cán cân TTQT thì phải dùng biện pháp “phá sản” tức là tuyên bố vỡ nợ,
đình chỉ trả nợ nước ngoài.













Chương II:
Thực trạng của hệ thống thanh toán quốc tế ở nhcp- phương nam
I. Tổng quan về Ngân hàng cổ phần phương nam.
1.1 Sự ra đời của Ngân hàng TMCP PHƯƠNG NAM
Cách mạng tháng 8 thành công, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra
đời, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử mới của đất nước. Và kể từ đó hệ thống Ngân
hàng Nhà nước Việt nam chính thức được hình thành và phát triển. Khoảng thời gian
vào thập kỷ 90, hệ thống Ngân hàng đã không ngừng thay đổi và phát triển.
Sự phân cấp chức năng quản lý và phát hành tiền tệ với chức năng kinh doanh
tiền tệ trong hệ thống Ngân hàng đã làm ra đời hàng loạt ngân hàng thương mại trong
đó có các ngân hàng thương mại quốc doanh và các ngân hàng thương mại cổ phần

Ngân Hàng TMCP PHƯƠNG NAM, là ngân hàng thương mại cổ phần. Có mạng
lưới kinh doanh khá rộng, các đơn vị hành chính sự nghiệp bao gồm: Văn phòng đại
diện tại TP-Hồ Chí Minh, Trung tâm đào tạo, Trung tâm Công nghệ thông tin. Ngoài ra,
Ngân Hàng TMCP PHƯƠNG NAM còn lập các chi nhánh và phòng giao dịch như ở
Đồng tháp, Long xuyên, Hà nội, tham gia sáng lập và góp vốn trong các đơn vị liên
doanh trong lĩnh vực ngân hàng.
Khách hàng chính của Ngân Hàng TMCP PHƯƠNG NAM là các tổ chức kinh
tế kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất Công nghiệp, Xây dựng, Giao thông vận tải, Bưu
chính viễn thông, Thương mại, Du lịch và các khách hàng cá nhân tại các khu tập
trung dân cư (Thành phố, thị xã).
Là một trong những ngân hàng thương mại cổ phần ở Việt Nam đi đầu trong việc
cải tiến công nghệ thông tin ngân hàng;
Là thành viên chính thức của Hiệp hội các ngân hàng châu á, thành viên của Hiệp
hội Visa, Hiệp hội các ngân hàng Việt Nam.


Trước sự vận động mạnh mẽ của thị trường, sự giao dịch tiền tệ, cung cầu tiền tệ
ngày càng lớn, Ngày 1/04/1993 Ngân hàng TMCP PHƯƠNG NAM được thành lập tại
258 Minh Phụng P.2, Q.11. TP.HCM và được gọi tên là Hội Sở Ngân Hàng TMCP
PHƯƠNG NAM cho đến nay.
Đặc điểm và tình hình hoạt động của thời kỳ này:
Cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ được tăng cường, sản phẩm dịch vụ Ngân
hàng khá phong phú (ngoài cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn, có nhiều loại cho vay
mới ra đời như: cho vay tài trợ uỷ thác, cho vay thanh toán công nợ, đồng tài trợ, trả
thay bảo lãnh). Kinh doanh đối ngoại phát triển mạnh; Đội ngũ cán bộ được đào tạo lại
và thích ứng dần với hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường đảm bảo cho Ngân
hàng tồn tại và phát triển không ngừng.
Với sự lớn mạnh không ngừng về nhu cầu của các thành phần kinh tế trong vấn
đề vốn vay, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán và các dịch vụ tiện lợi cho việc kinh
doanh. Trước tinh hình đó, Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM đã mạnh dạn mở

rộng quy mô hoạt động ra phía Bắc và các đại lý ở nước ngoài như: một số nước châu
á, Anh quốc, Hoa kỳ
Cho đến ngày 1/1/2001 thì Hội Sở Ngân Hàng TMCP PHƯƠNG NAM mở thêm
các chi nhánh tại Hà nội. Và từ đó đến nay cùng với chi nhánh cấp II Định Công đặt tại
Xóm I xã Định Công Huyện Thanh Trì thì chi nhánh thứ 2 đặt tại 115-Trần Hưng Đạo
đối diện với Ga Hà Nội.

Tổng quát về hoạt động kinh doanh của NH TMCP PHƯƠNG NAM.
Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM liên tục đổi mới, cơ bản hoàn thiện hệ
thống pháp quy, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế và thực tế phát sinh. Tạo
điều kiện cho các tổ chức tín dụng phát huy hết khả nănghoạt động trên mọi lĩnh vực:
Đầu tư tín dụng, huy động vốn và các hoạt động dịch vụ Ngân hàng khác.
Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM, sau hai năm đi vào hoạt động, khởi đầu
cho việc thực hiện thắng lợi định hướng kế hoạch phát triển 5 năm (2001 - 2004) với


năm 2001 thành công về việc kinh doanh và mở rộng mạng lưới hoạt động thì năm 2002
Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM dần khẳng định được bước tiến vững chắc trong
hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
*Huy động vốn.
Huy động vốn là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng. Đây là
khoản mục duy nhất trên bảng cân đối kế toán giúp phân biệt ngân hàng với cácloại
hình doanh nghiệp khác. Năng lực của đội ngũ nhân viên cũng như các nhà quản lý
ngân hàng trong việc thu hút tiền gửi giao dịch và tiền gửi tiết kiệm từ doanh nghiệp và
cá nhân là một thước đo quan trọng về sự công nhận của công chúng đối với ngân hàng.
Tiền gửi là cơ sở chính của các khoản cho vay và do đó nó là nguồn gốc sâu xa của lợi
nhuận và sự phát triển của ngân hàng. Khi huy động tiền gửi, ngân hàng phải duy trì dự
trữ bắt buộc và sau khi trừ đi các khoản dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán ngân
hàng có thể cho vay phần tiền gửi còn lại. Khả năng huy động vốn đối với mức lãi suất
hợp lý cũng như khả năng đáp ứng các yêu cầu xin vay là những chỉ số đánh giá tính

hiệu quả trong quản lý ngân hàng.
Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM với 10 năm hoạt động, ngân hàng đã khẳng
định được vị trí của mình trên thương trường và chiếm được uy tín của khách hàng. Do
đó, ngân hàng đã đề ra kế hoạch 5 năm (2001 - 2004), trong kế hoạch đó thì việc mở
rộng thị phần ra phía Bắc đã thu được nhiều lợi thế kinh doanh, đồng thời cơ cấu lãi suất
hợp lý, kỳ hạn đa dạng như: tuần, tháng 3 – 6 – 9 - 12 và trên 12 tháng phù hợp với nhu
cầu của người dân; tăng cường công tác quảng cáo, tiếp thị các dịch vụ ngân hàng trên
các phương tiện thông tin đại chúng. Chính vì vậy, ngân hàng đã thu được các kết quả
khả quan như:
Năm 2000 mức huy động đạt 867 tỷ đồng tăng 38,5% so với năm 1999 là 626 tỷ
đồng.
Năm 2001 tổng mức huy động vốn đạt 1033 tỷ đồng tăng 19% so với cuối năm
2000 (867 tỷ đồng). Trong đó vốn huy động đạt 839 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 80% tổng


mức huy động, tăng 15% chủ yếu nguồn tiền gửi tiết kiệm (VND và ngoại tệ) của dân
cư đều tăng 31% (212 tỷ đồng).
Có thể khái quát hoạt động huy động vốn theo Bảng sau:
Bảng 1:
Đơn vị : tỷ đồng
Chỉ tiêu năm 1998 năm 1999 năm 2000 năm2001
Tổng tài sản 321 715 968 1,163
tổng vốn huy động 232 626 867 1,033
(Nguồn : Báo cáo thường niên của Hội sở)
*Hoạt động tín dụng.
Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của ngân hàng để tài trợ cho chỉ tiêu của
các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan chính phủ. Hoạt động cho vay của ngân hàng
có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ,
bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền
kinh tế. Hơn nữa: thông qua các khoản vay của ngân hàng, thị trường có thêm thông tin

về chất lượng tín dụng của từng khách hàng và nhờ đó cho họ có khả năng nhân thêm
các khoản tín dụng mới từ nhiều nguồn khác với chi phí thấp hơn.
Đối với Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM, khoản mục cho vay chiếm quá
mức giá trị tổng tài sản và tạo ra khoảng 2/3 nguồn thu của ngân hàng; bởi vì ngânhàng
cung cấp nhiều loại hình cho vay khác nhau tương ứng với sự đa dạng trong mục đích
vay vốn của khách hàng – từ việc vay để sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ xuất
nhập khẩu và cá nhân, gia đình cán bộ công nhân viên, dân cư sinh hoạt, làm kinh tế
phụ, mua nhà, mua sắm các trang thiết bị cần thiết theo chương trình trả góp của ngân
hàng Phương Nam…
Trong những năm gần đây, Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM đạt được những
thành tựu lớn trong lĩnh vực hoạt động tín dụng như:


-Tổng dư nợ cuối năm 2001 đạt 839 tỷ đồng tăng 21% so với cuối năm 2000
(696 tỷ đồng). Trong đó: dư nợ cho vay trung và dài hạn đạt 254 tỷ đồng bằng 80%
nguồn vốn cho phép tăng 35% so với cuối năm 2000. Chứng tỏ dư nợ cho vay trung hạn
và dài hạn hợp lý.
-Dư nợ quá hạn phát sinh trong năm 2001 chỉ chiếm 3,4% doanh số cho vay;
giảm 2,5% so với năm 2000, doanh số thu nợ đạt 840 tỷ đồng tăng 7% so với năm 2000.
-Tổng dư nợ quá hạn đến năm 2001: 13,69 tỷ đồng; chiếm tỷ trọng 1,6% tổng dư
nợ, giảm gần 50% so với nợ quá hạn cuối năm 2000 (27,36 tỷ đồng).
-Nợ khoanh: 6,6tỷ đồng; chiếm tỷ trọng 0,79% tổng dư nợ; giảm 2,8 tỷ đồng so
với cuối năm 2000 (9,5 tỷ đồng).
-Đến cuối năm 2002 tổng dư nợ đạt xấp xỉ 1.100 tỷ đồng.
Trong đó:
+ Dư nợ trung, dài hạn chiếm xấp xỉ 40% tổng dư nợ.
+ Nợ quá hạn chiếm tỷ lệ 1,5% tổng dư nợ.
Tình hình dư nợ cho vay phản ánh hàng năm theo thành phần kinh tế: Trong 3
năm qua tỷ trọng vay vốn của các thành phần kinh tế tương đối ổn định với các mức:
+Thành phần kinh tế khác khoảng 53,3%

+Doanh nghiệp tư nhân : 21,9%
+ Công ty TNHH : 24,4%
+ Hộ gia đình & HTX : 6,4%


Bảng 2:
Đơn vị: Triệu đồng


Chỉ tiêu
Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002
Phân theo thành phần kinh tế
1. Thành phần kinh tế khác 370,968

444,670

595,120

2. Doanh nghiệp tư nhân 152,424

184,580

246,18

3. Công ty TNHH 169,824

187,936

248,450


4. Hộ gia đình & HTX 44,544

52, 102

68,200

(Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng của Hội sở)
Như vậy, năm 2001 nợ quá hạn và nợ chờ xử lý sau khi trừ quỹ dự phòng rủi ro
bù đắp tín dụng (Nợ quá hạn ròng) chỉ chiếm 0,43% tổng dư nợ (chỉ tiêu hướng dẫn
<5%), chiếm tỷ lệ thấp từ trước đến nay. Chứng tỏ hoạt động tín dụng ngày càng chú
trọng đến chất lượng nhiều hơn. Đây cũng là một trong những chỉ tiêu để Ngân hàng cổ
phần PHƯƠNG NAM đủ điều kiện phát triển mạng lưới hoạt động.
*hoạt động thanh toán quốc tế.
So với các ngân hàng lớn, Ngân hàng cổ phần PHƯƠNG NAM có quy mô vốn
nhỏ hơn và là một ngân hàng thương mại trẻ với 10 năm kinh nghiệm so với hàng trăm
năm của ngân hàng khác; tuy nhiên ngân hàng đã biết nắm bắt nhu cầu thanh toán ngày
cành tăng của các tổ chức kinh tế về triênr khai thực hiện tín dụng xuất nhập khẩu.
Tổng doanh số thực hiện thanh toán quốc tế đến 31/12/2001 đạt 16,2 triệu USD,
giảm 19% so với năm 2000 (20 triệu) bằng 30% kế hoạch năm : chưa đạt yêu cầu.
Nhưng năm 2002 doanh số thực hiện đạt 30,7 triệu USD tăng gần 81% so với năm
2001. Điều này cho thấy thanh toán quốc tế đang phát triển mạnh tạo khả năng thu lớn
cho ngân hàng tuy chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng số vốn của ngân hàng.



*Công tác mua bán ngoại tệ chi trả kiều hối.

Năm 2001 doanh số mua bán ngoại tệ tăng so với năm 2000 nhưng chủ yếu mua
bằng ngoại tệ tiền mặt chiếm tỷ trọng 92% doanh số mua, cụ thể
Bảng 3

Ch
ỉ tiêu

Năm 2001

Năm 2000

+,
-

%

Doanh số mua vào 10.119 triệu USD

9.015 triệu USD

+12%

Doanh s
ố bán ra

10.541 tri
ệu USD

9.610 tri
ệu USD

+10%

Doanh số chi trả kiều hối 4.180 triệu USD


4.290 triệu USD

-0,2%

(Nguồn: Báo cáo thường niên năm 2001 của hội sở)

Hoạt động mua bán ngoại yệ tuy đạt được kết quả trên nhưng vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu của khách hàng, nhất là hoạt động chi trả kiều hối doanh số đạt còn thấp,
một mặt do biến động sự kiện 11/09, lương kiều hối chuyển về có phần giảm, mặt khác
người dân muốn giữ tiền mặt ngoại tệ sợ bị biến động về tỷ giá đã ảnh hưởng đến hoạt
động của ngân hàng. Bên cạnh đó, việc đăng ký ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng
gặp khó khăn, không đáp ứng đủ yêu cầu của các ngân hàng. nhưng nguyên nhân cơ bản
vẫn chưa có biện pháp để tạo nguồn ngoại tệ và bộ phận làm công tác kiều hối hoạt
động còn mang tính chất thụ động.
*Các hoạt động dịch vụ và nghiệp vụ khác.
-Công tác kho quỹ: năm 2001 khối lượng tiền mặt qua quỹ ngân hàng khá lớn,
cụ thể:
Tổng thu : 4.187 tỷ đồng
+Tiền mặt đạt: 3.283 tỷ đồng, tăng 20%
+NPTT : 406 tỷ đồng, giảm 47%
+TM ngoại tệ : 498 tỷ đồng, tăng 72%
Tổng chi : 4.177 tỷ đồng
+Tiền mặt đạt: 3.273 tỷ đồng, tăng 20%
+NPTT : 408 tỷ đồng, giảm 47%
+TM ngoại tệ : 496 tỷ đồng, tăng 72%

×