Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

TIMHIEU VONHAT phân tích dàn ý chi tiết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.71 KB, 15 trang )

VỢ NHẶT
Kim Lân
TÌM HIỂU VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
I. TÌM HIỂU CHUNG:
1. Tác giả:
a. Cuộc đời
- Kim Lân (1920-2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu,
huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
- Hoàn cảnh gia đình khó khăn nên Kim Lân chỉ học hết bậc Tiểu học. Sau đó,
ơng vừa làm thợ vừa viết văn.
- Từ năm 1944, Kim Lân tích cực tham gia công tác văn nghệ kháng chiến và
trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của nền văn xuôi cách
mạng.
b. Sáng tác
- Đề tài: nông thôn. Kim Lân chủ trương viết về người nơng dân nghèo vì họ
“bao giờ cũng thiệt thòi” nên nhà văn “muốn đòi cho những con người đó
quyền làm người và quyền sống”.
- Đặc điểm: nhà văn luôn hướng tới sự khám phá vẻ đẹp khỏe khoắn, đôn hậu,
chất phác trong tâm hồn người nông dân và “những phong tục chốn thôn quê,
những thú “phong lưu” đồng ruộng như chọi gà, thả diều, nuôi chim…
Các tác phẩm tiêu biểu của nhà văn Kim Lân: “Nên vợ nên chồng” (1955),
“Con chó xấu xí” (1962)
Ơng được mệnh danh là nhà văn của “những thuần hậu nguyên thủy”,
một lòng đi về với đất, với người; “nhà văn của những người nông dân”
Tham khảo
“Nhân vật Tràng tôi lấy ở tơi nhiều hơn, nhưng tơi khơng phải kéo xe bị và
cũng khơng có cuộc gặp gỡ như thế. Hồn cảnh trong truyện cũng giống như
hồn cảnh của tơi lúc đó. Tơi mới lấy vợ, chưa có con, khi lấy vợ đã gặp cái đói
và hình ảnh mẹ tơi là hình ảnh của bà cụ Tứ trong truyện. Nhà tôi không phải là
nhà tranh vách đất, nhưng nghèo nên phải buôn cám, hồn cảnh khơng ăn nhập
gì với truyện nhưng nó gần với cảnh đói tháng ba. Ngày ấy, gia đình tôi phải ăn


cháo cám và phải ăn độn thêm rau chuối sống thái nhỏ. Mẹ tôi là vợ ba trong
một gia đình. Và hình ảnh bà cụ Tứ là hình ảnh mẹ tơi, vợ anh Tràng cũng là
hình ảnh của vợ tơi”
(Nhà văn nói về tác phẩm – Hà Minh Đức)
2. Tác phẩm:
a. Xuất xứ:
“Vợ nhặt” in trong tập “Con chó xấu xí”, 1962, được viết dựa vào một phần
cốt truyện cũ của tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”.
b. Hồn cảnh sáng tác (quá trình sáng tác)
Tiền thân của truyện ngắn “Vợ nhặt” là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” - được
viết ngay sau cách mạng tháng Tám thành công nhưng dang dở và thất lạc bản


thảo. Sau khi hịa bình lập lại (1954), ơng dựa vào một phần cốt truyện cũ để
viết truyện ngắn này.
c. Mục đích chính của Kim Lân khi sáng tác “Vợ nhặt”
- Khẳng định: những người đói khổ “dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh
phúc, hướng về ánh sáng, tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai, vẫn
muốn sống, sống cho ra người”
- Ca ngợi vẻ đẹp lòng nhân ái và khát vọng mãnh liệt trong tâm hồn người lao
động
Tham khảo
Bối cảnh xã hội: nạn đói năm Ất Dậu (1945)
Bắt đầu từ ngày 6 tháng 5 năm 1941, Nhật buộc Pháp kí một hiệp ước
kinh tế yêu cầu Pháp phải cung cấp lương thực ở Đông Dương cho Nhật hằng
năm. Bốn năm liền, từ năm 1941 đến năm 1944, Nhật – Pháp đã kí bốn hiệp
định giao nộp lúa, ngô cho Nhật mỗi năm từ 700.000 đến 1,3 triệu tấn, tương
đương 50 – 805 tổng sản lượng lương thực Việt Nam thời đó.
Để phục vụ chiến tranh, phát xít Nhật cịn cần nhiều ngun liệu từ những
cây có sợi, có dầu như đay, gai, bơng, thầu dầu…nên chúng đã bắt rất nhiều

vùng quê nhổ lúa trồng đay và các loại cây trên.
Chiến tranh của đồng minh với Nhật tại Đông Dương khiến 50% hệ thống
giao thông Nam – Bắc bị phá hủy, 90% phương tiện vận tải bị hư hỏng khiến
việc đưa lương thực cứu trợ từ Nam ra Bắc càng thêm khó khăn.
Chiến tranh đã làm cho nhu cầu nhiên liệu: than, dầu, điện của Nhật tăng
cao. Chúng đã lấy ngô, vừng, lạc và cả lúa gạo để thay thế những nhiên liệu này
phục vụ mưu đồ phát xít, đẩy người dân vào thảm họa chết đói.
Làng quê tan hoang xơ xác. Cỏ dại lút đầu gối mọc khắp đường đi, sân
nhà, ngõ xóm. Trẻ con khóc như mèo hoang ai ốn suốt đêm. Người người đổ
hết ra đường, lê la ngoài bụi chuối, cánh đồng. Cái lạnh thấu xương, bóng đêm
đen đặc xuyên qua cái Tết lúc nào chẳng hay…Cả thế gian là một màu vàng vọt,
siêu vẹo của đói và đói…Bắt đầu đã có người chết đói trong làng…
Hai triệu rưỡi người chết đói đã làm xúc động trái tim bất kì nhà văn nào!
CHUẨN BỊ
1. Đọc và tóm tắt tác phẩm
- Đọc
- Tóm tắt
Tham khảo
Người chết như ngả rạ, người sống dật dờ như những bóng ma trong cái
nạn đói khủng khiếp năm 1945. Anh cu Tràng - nhân vật chính của truyện hiện
lên với hình ảnh “xấu xí thơ kệch”, lại ế vợ và là người dân trong xóm ngụ cư.
Tràng gặp thị - một người đàn bà đang đói với biểu hiện “kém duyên”. Với tấm
lòng thương người, Tràng đãi thị ăn một chặp bốn cái bánh đúc. Thị theo Tràng
về nhà làm vợ, gặp bà cụ Tứ - mẹ của Tràng. Bà cụ Tứ tuy rất ngạc nhiên khi
Tràng dắt vợ về nhưng bà cũng thấu hiểu và chấp nhận cho người con gái ấy là


dâu. Khi về làm vợ Tràng, thị đã thay đổi, trở thành một người biết chăm lo cho
gia đình chứ khơng cịn “chỏn lỏn” như trước kia. Anh cu Tràng cũng thay đổi,
anh thấy lo cho tương lai sau này và có những suy nghĩ sâu xa hơn về cuộc sống.

Ba mẹ con Tràng, Thị và bà cụ Tứ cùng nhau ăn nồi cháo cám rất vui vẻ, còn gọi
đùa rằng đó là chè khốn. Trong lúc trị chuyện, thị có nhắc tới chuyện Việt
Minh phá kho thóc Nhật, lúc này trong óc Tràng hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ sao
vàng bay phấp phới
c. Đọc và tóm tắt tác phẩm
- Đọc
- Tóm tắt
d. Bố cục:
- Tình cảnh thê thảm của người nơng dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp
năm 1945 do thực dân Pháp và phát xít Nhật gây ra.
- Tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau; niềm khát khao tổ ấm gia đình và niềm
tin vào cuộc sống của những con người nghèo khổ ngay trên bờ vực cái chết.
CHUẨN BỊ
2. Trả lời các câu hỏi:
Câu 1. Nhận xét gì về tựa đề truyện ngắn này - “Vợ nhặt” ?
Vợ: biểu tượng cho khát khao tổ ấm, hạnh phúc gia đình, mang ý nghĩa trọng đại
và lớn lao.
Nhặt: hành động rẻ rúng, tầm thường.
→ Vợ nhặt có nghĩa là nhặt được vợ, gợi sự rẻ rúng của thân phận con người và
tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói năm 1945.
Người ta dựng vợ gả chồng lúc ăn nên làm ra, qua tìm hiểu và yêu thương nhau,
nhưng Tràng đã đi ngược lại với tất cả điều đó. Nhan đề Vợ nhặt được nhà văn
Kim Lân đặt ra khơng chỉ gây ấn tượng, tị mị với bạn đọc mà cịn phản ánh
đúng tính chất, nội dung của câu chuyện.
→ Nhan đề tuy giản dị, mộc mạc nhưng đã gọi một phần to lớn vào việc làm
nên giá trị và thành công cho tác phẩm.
Câu 2. Tình huống trong truyện này là tình huống nào? Hãy tóm tắt ngắn gọn
tình huống đó.
Bối cảnh xây dựng tình huống truyện: Nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà kết
quả là hơn hai triệu người chết. Cái chết hiện hình trong tác phẩm tạo nên một

khơng khí ảm đạm, thê lương. Những người sống luôn bị cái chết đe dọa.
Ngoại hình và gia cảnh của Tràng khiến anh khó lấy vợ: xấu xí, thơ kệch, ăn nói
cọc cằn, thơ lỗ. Nhà nghèo, đi làm th ni mình và mẹ già. → Tràng lấy vợ là
lấy cho mình thêm một tai họa.
- Tràng lấy vợ theo kiểu "nhặt" được: vài câu nói đùa, 4 bát bánh đúc là nên
duyên vợ chồng mà khơng cần tìm hiểu, u đương và cưới hỏi. Việc Tràng lấy


vợ là một tình huống bất ngờ khiến cả xóm ngụ cư và bà cụ Tứ hết sức ngạc
nhiên. Bản thân Tràng có vợ rồi vẫn cịn " ngờ ngợ".
→ Tình huống truyện bất ngờ nhưng rất hợp lí vì nếu khơng phải năm đói khủng
khiếp thì người ta khơng thèm lấy một người như Tràng
Câu 3. Nạn đói trong truyện ngắn này được nhà văn miêu tả như thế nào?
Khơng gian của truyện là xóm ngụ cư, bên bờ sơng ven chợ xác xơ, heo hút.
Từng trận gió từ cánh đồng thổi vào, ngăn ngắt. Hai bên dãy phố, úp súp, tối
om, khơng nhà nào có ánh đèn lửa. Điểm vào đó là âm thanh thê thiết của tiếng
quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ đang gào lên từng hồi, là tiếng ai hờ khóc
lúc to, lúc nhỏ vẳng đến từ phía những nhà có người chết đói. Khơng khí ở đây
vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Quyện trong đó cịn
có mùi khét lẹt của đống rấm được đốt ở những nhà có người chết.
Ở đó, miếng ăn dường như đã không phải dành cho con người nữa. Giữa cái mẹt
rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo. Niêu cháo
lõng bõng, chỉ kịp chia cho mỗi người được có lưng lưng hai bát đã hết nhẵn.
Người mẹ già lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên
nghi ngút, bà gọi đó là món chè khốn. Cái món ngon đáo để ấy thực chất là
cháo cám, thứ mà con người khi đói nhìn thấy hai con mắt đã tối lại, khi ăn thì
khơng nuốt nổi vì đắng chát và nghẹn bứ trong cổ.
Cái đói và cái chết nắm tay nhau càn qua xóm ngụ cư. Người người lũ lượt bồng
bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều
chợ. Người chết như ngả rạ. Không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi

làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm cịng queo bên đường
Mọi khn mặt ở xóm ngụ cư đều đã mang dấu tích của cái đói. Lũ trẻ con trong
xóm độ này ngồi ủ rũ dưới những xó đường khơng buồn nhúc nhích. Ngay như
Tràng - một thanh niên to khỏe trong xóm, giờ cũng chỉ bước đi từng bước mệt
mỏi. Khật khưỡng trong bóng chiều nhá nhem là dáng điệu tả tơi của hắn - chiếc
áo nâu tàng vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước.
Dấu vết tàn phá ghê gớm nhất của cái đói với con người vẫn là ở thị, người vợ
mà Tràng nhặt được trong thảm cảnh của cái đói. Người phụ nữ này khơng có
tên. Nhà văn gọi nhân vật là người đàn bà, là thị. Có lẽ số phận, những mảnh đời
như thị khơng phải là hiếm trong nạn đói ấy. Thị mang một bộ dạng rách rưới,
áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ
cịn thấy hai con mắt. Có lẽ đã đói lâu ngày, nên vì miếng ăn, thị trở nên sấn sổ,
trơ trẽn.
Chỉ bằng một câu hò tầm phơ tầm phào của Tràng - nhưng là câu hị có lời hứa
về miếng ăn, Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bị với anh,
nì!, thị vùng đứng dậy ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, rồi liếc mắt cười tít.
Nhưng lần đó thị khơng được ăn. Lần thứ hai gặp Tràng, thị ở đâu sầm sập chạy
đến, đứng trước mặt Tràng sưng sỉa kết tội: - Điêu! Người thế mà điêu!; - Hôm


ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt. Và lần này, thị được ăn thật.
Trước miếng ăn hai con mắt trũng hốy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả: - Ăn
thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì. Thị ngồi sà xuống, cắm đầu ăn một chặp bốn bát
bánh đúc liền chẳng chuyện trị gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang
miệng, thở: - Hà, ngon!
Câu 4. Tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau; niềm khát khao tổ ấm gia đình và
niềm tin vào cuộc sống của những con người nghèo khổ ngay trên bờ vực cái
chết được thể hiện ở nhân vật Tràng như thế nào?
Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ
- Lần gặp 1: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ khơng có

tình ý gì với cơ gái đẩy xe cùng mình.
- Lần gặp 2:
Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cơ ta ăn dù khơng dư dả
gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng
thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết định của kẻ
bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc,
thương yêu người cùng cảnh ngộ.
Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo của Tràng
trước quyết định lấy vợ.
b. Trên đường về:
Vẻ mặt “có cái gì phơn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy
vênh vênh tự đắc”.
Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diễn.
Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.
c. Khi về đến nhà:
Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay
của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì
gia cảnh q khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn phải
nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ nghĩa.


Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy vợ là
“phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng
thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:
Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngơi nhà (sân vườn, ang nước, quần
áo, ...), Tràng nhận ra vai trị và vị trí của người đàn bà trong gia đình. Cũng thấy

mình trưởng thành hơn.
Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ bay
phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
- Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều hướng tốt
đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con người trong cái
đói.
Câu 5. Nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn này có sự thay đổi tính cách
như thế nào? Nhận xét về sự thay đổi này ở nhân vật người vợ nhặt.
Đã khơng có một ngoại hình hấp dẫn, nhưng cách nói năng, hành động của thị
cũng khiến người ta mang nhiều phản cảm. Khi nghe anh Tràng hò mấy câu đùa
cho khuây khỏa, nghe thấy có cái ăn thị đã cong cớn, mỉa mai, rồi cũng chẳng
biết ngại ngần thị sấn tới tranh đẩy xe với Tràng, “liếc mắt, cười tít”. Tuy nhiên
sau bữa đẩy xe phụ, mà không được cái ăn, khi gặp lại Tràng thị đã sưng sỉa, chỉ
thẳng vào mặt Tràng mà mắng “Điêu, người thế mà điêu”. Khi nghe thấy anh
Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu dáng đon đả, đổi
hẳn thái độ. Và rồi thị cúi đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc khơng thèm chuyện
trị gì, ăn xong thì lấy đôi đũa quệt ngang miệng, thở “hà”. Quả thực trước giờ
chưa từng thấy người đàn bà nào trước mặt một người đàn ơng lạ mới gặp hai
lần mà có thể thoải mái, thậm chí đến mức vơ dun, trơ trẽn, hành động táo bạo
và bất chấp vì miếng ăn như thị. Nạn đói nó khiến cho tâm hồn và nhân cách con
người trở nên rẻ rúng, thiểu não quá. Nhưng đến khi xét kỹ lại, nhìn lại những
hành động của nhân vật thị một cách nhân văn hơn, ta mới nhận ra rằng, thực tế
khi đứng trước cái chết, cái đói, và đứng trước viễn cảnh hàng triệu người đang
chết như ngả rạ trước mặt khó ai có thể bình tĩnh và cư xử một cách bình thường
nổi. Ai mà không sợ chết, thị cũng sợ chết, và ngay lúc này đây khi gặp Tràng
khi phải đối diện với lưỡi hái của tử thần mà lại bắt được cọng rơm cứu mạng,
thì những khao khát được sống sót của thị bùng cháy. Thị bất chấp tất cả để có
được miếng ăn, vứt bỏ hết liêm sỉ, nhân cách chỉ vì được sống, quyết không
buông bỏ cuộc sống dễ dàng. Không chỉ có khao khát sống mãnh liệt mà bản
thân thị cịn có những khao khát được hạnh phúc, được có một mái ấm, một tấm

chồng để nương tựa những lúc khó khăn như này. Thành thử ra chỉ với một câu
nói nửa đùa nửa thật “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi


cùng về”, mà thị đã không ngần ngại nhận lời, trở thành người vợ mặt dày, mày
dạn theo không Tràng. Đối với thị bây giờ cỗ bàn, đám rước đám hỏi chẳng cịn
quan trọng, miễn sao là có được một chỗ trú chân, một gia đình và qua được cái
đói thì mọi chuyện đều có thể cho qua hết. Thế là thị đã nên vợ nên chồng với
Tràng bằng những niềm hy vọng mới mẻ, thị mong rằng cái người trước mắt đã
có thể sảng khối mà đãi mình 4 bát bánh đúc, thì hẳn sau chung sống hắn cũng
sẽ tử tế với mình, được nhiêu đó cũng đủ mãn nguyện rồi. Như vậy bên cạnh ý
nghĩa nhân văn trong sự kiện thị theo khơng Tràng, thì Kim Lân cũng phản ánh
một hiện thực đau xót của xã hội lúc bấy giờ: giá trị con người dường như đã
xuống đến mức âm, thậm chí cịn khơng bằng cọng rơm cọng rác, để đến nỗi
những người làng trông thấy Tràng dẫn vợ về họ cịn cho đó là “của nợ”.
Những tưởng thị trời sinh đã đanh đá, chỏng lỏn và sưng sỉa nhưng khi nhìn thấy
dáng vẻ của thị sau khi làm vợ Tràng ta mới nhận ra rằng, sự vô duyên, ghê gớm
của thị chỉ là một cái vỏ bọc bảo vệ thị trong nạn đói, thực tế rằng thị cũng là
một người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp được giấu kín sau dáng vẻ tàn tạ,
khốn khổ kia. Trên đường trở về nhà với Tràng, thị bỗng trở nên “e thẹn, rón
rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng che nửa đi khuôn mặt đang ngại
ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về nhà chồng. Gặp phải cảnh
trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người làng, thị thấy khó
chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không, thành thử ra thị càng trở
nên bối rối “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả chân kia”, nom đến thương vô
cùng. Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm,
khơng có bàn tay người đàn bà săn sóc, khơng khỏi khiến thị thất vọng, buồn
lịng, bởi có lẽ thị đã hy vọng về một ngôi hà tươm tất, đủ đầy hơn, để cuộc đời
thị từ đây bớt khổ sở. Nhưng cảnh trước mắt kém quá xa so với những gì thị
tưởng tượng, tuy nhiên thị khơng vì thất vọng mà phàn nàn với Tràng, thị bỗng

trở thành một người đàn bà nhẫn nhịn và tế nhị “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên,
rồi nén một tiếng thở dài”. Thị đã cất hết cái thất vọng, buồn bã của mình vào
lịng, khơng để Tràng biết, quyết tâm cùng người chồng mới cưới xây dựng gia
đình, phấn đấu vượt qua cái nghèo cái khó. Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải
phép mà chào bà cụ Tứ, khi tưởng cụ không nghe thấy thị đã chào thêm lần nữa,
dáng điệu khép nép, ngại ngùng, thực sự thị đã lột xác trở thành một nàng dâu
hiền lành, e ấp, khác hẳn với dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở
chợ tỉnh.
Sau đêm tân hôn, thị lột xác trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang
tháo vát, gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra
sân hong, gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm,... Khơng khí gia
đình trở nên hịa hợp vui vẻ và có nhiều hy vọng hơn cả. Đặc biệt khi đối diện
với nồi cháo cám đắng ghét, nghẹn bứ nơi cổ họng của bà cụ Tứ, “đôi mắt thị tối
lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào miệng”, khơng nói năng hay tỏ thái độ gì.
Cách cư xử tế nhị ấy của thị, đã bộc lộ một nét tính cách khác của thị ấy là sự


thấu hiểu và cảm thông cho người mẹ già thương con, thị hiểu rằng vì nghèo q
khơng có gì đãi con nhân ngày tân hôn thế nên bà cụ tội nghiệp mới cố kiếm
một nồi cháo cám. Và trong không khí gia đình vui vẻ ấy, thị khơng muốn phá
hỏng nó, khiến cho bà cụ trở nên bối rối. Cuối cùng cảnh thị kể việc ở Thái
Nguyên, Bắc Giang người ta khơng chịu đóng thuế mà đi phá kho thóc của Nhật
đã bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn bà bà này không
cam chịu cuộc đời đói kém, và có lẽ trong một mai thị sẽ cùng chồng là Tràng đi
phá kho thóc, theo cách mạng để giải phóng cuộc đời, tìm kiếm một tương lai
tươi sáng hơn.
Nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân là nhân vật đại diện cho
hàng triệu kiếp người nơng dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Tuy nhiên
sống trong cảnh khốn khổ cùng đường nhưng thị vẫn giữ cho mình được những
vẻ đẹp tâm hồn quý giá, tiêu biểu nhất ấy là niềm khao khát được sống, khao

khát hạnh phúc, niềm hy vọng vào một tương lai mới tốt đẹp hơn. Bộc lộ rõ nét
tư tưởng nhân văn, nhân đạo mà tác giả muốn truyền tải trong tác phẩm của
mình.
Câu 6. Tâm trạng của bà cụ Tứ được nhà văn miêu tả như thế nào khi “hiểu ra
cơ sự” con trai nhặt được vợ.
Cũng như mọi người trong xóm ngụ cư, lúc đầu bà rất ngạc nhiên và khơng thể
hiểu nổi điều gì xảy ra. Thấy Tràng ra đón từ ngồi ngõ lại reo lên như một đứa
trẻ vồn vã khác thường. Tâm trạng bà cụ Tứ trở nên phấp phỏng, có cái gì đấy
bất thường đang chờ đợi bà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, càng ngạc nhiên
hơn. Kim Lân đã chọn ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng bà cụ:
"Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng
ngay đầu giường con trai mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Khơng phải
con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?" Cho đến khi nghe Tràng phân trần cắt nghĩa, bà cụ
mới hiểu. Lòng bà ngổn ngang những lo âu, tủi cực, xót thương lẫn vui mừng.
"Bà lão cúi đầu nín lặng". Trong lịng bà đầy những ám ảnh của một dĩ vãng
nặng trĩu những đắng cay. Bà nghĩ đến ông lão, đến đứa con Út, đến cuộc đời cơ
cực dài dằng dặc của mình mà thương, mà tủi cực xót xa: "Chao ơi, người ta
dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi những mong sinh con
đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì…" Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống
hai hàng nước mắt. Nạn đói đang đe dọa, con có vợ bà lo lắng thự
Từ xót xa, mặc cảm, lo lắng bà nghĩ tới cái may của gia đình. Bà xót thương
người đàn bà lạ. Lịng người mẹ nghèo nhân hậu thấu hiểu cảnh ngộ người con
gái xa lạ bỗng trở thành con dâu của mình. "Người ta có gặp bước khó khăn, đói
khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được.." Nghĩ
thế bà vui trong lòng, cử chỉ của bà dịu dàng âu yếm. Bà gọi người đàn bà xa lạ
là "con" xưng hơ "u" một cách chân tình: "Thơi thì các con phải duyên kiếp với
nhau u cũng mừng lòng". Với bổn phận làm mẹ, bà ao ước có được "dăm ba


mâm" trước cúng tổ tiên sau mời làng xóm. Có thể nói bà là người suy nghĩ

trước sau song cái khó bó cái khơn, ao ước giản dị ấy khơng thể thực hiện vì quá
nghèo.
Thương con, bà thương dâu. Bà dặn dò nàng dâu bằng những lời động viên an ủi
"Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi
may ra ông trời cho khá. Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ ai khó ba đời? Có ra
rồi con cái chúng mày về sau". Bà lại động viên an ủi " cốt làm sao chúng mày
hòa thuận là u mừng rồi. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá".
Sáng hôm sau, con trai đã có vợ. Gia đình bà dường như đã thay đổi. Sáng hôm
sau bà cùng con dâu dậy sớm thu dọn, quét tước nhà cửa." Bà mẹ Tràng cũng
nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ
hẳn lên". Bữa cơm đãi nàng dâu thật thảm hại. "Giữa cái mẹt rách có độc một
lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo". Bà đãi nàng dâu mới món
"chè khốn" cháo cám. Nhưng bà tồn nói chuyện vui, chuyện sung sướng sau
này, bà dặn con trai. Mấy hôm nữa mua ít nứa về ngăn cho khỏi trống, có tiền
ni mấy con gà chẳng mấy chốc có cả đàn gà. Bà đem lại cho cá con niềm tin
cuộc sống mặc dù tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập, tiếng quạ kêu từng hồi thê
thiết. Khơng khí ảm đạm vẫn bao trùm cuộc sống. Có thể nói trong bức tranh xã
hội sáng hôm ấy, bà cụ Tứ là một điểm sáng về đạo lý làm người. Người mẹ
không ao ước cho mình mà ln sống vì con, cho con, cho lớp con cháu mai sau.
Nhân vật bà cụ Tứ tưởng như khơng thể có được nhất là trong hồn cảnh gia
đình bà, sự tăm tối của xã hội. Ngọn lửa tình mẫu tử ấy cũng đã đủ nhóm lên giữ
niềm tin hi vọng vào tương lai tươi sáng. Nét đẹp và nhân hậu vốn có trong bà
được tác giả diễn tả tinh tế qua cách sử dụng ngôn ngữ chọn lọc trong diễn tả
tâm lý nhân vật, góp phần khắc họa vẻ đẹp tâm hồn của người mẹ nghèo Việt
Nam.
II. TÌM HIỂU CỤ THỂ
…….
• Ghi chú: Phần kiến thức trong khung, các em ghi vào tập môn Ngữ văn



Chi tiết dàn ý phân tích truyện Vợ nhặt của Kim Lân
a) Mở bài
- Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về
cảnh nông thơn, hình tượng người nơng dân lao động.
- Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người
nơng dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945,
nhưng cũng ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ.
b) Thân bài
Ý nghĩa nhan đề "Vợ nhặt"
- “Vợ nhặt”: nhặt được vợ, thể hiện sự rẻ rúng của thân phận con người và
phản ánh tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói.


* Tình huống truyện
- Tình huống: Tràng – một người dân ngụ cư xấu xí bỗng dưng lại có vợ mà
lại là nhặt được, theo về không.
- Đây là một tình huống độc đáo, bất ngờ: với chính Tràng (hồn cảnh của
Tràng khó mà lấy được vợ nhưng nghiễm nhiên có vợ theo khơng về, tự ngờ
ngờ mình đã có vợ ư), với những người xung quanh (thắc mắc bàn tán), với
bà cụ Tứ.
- Phân tích tình huống nhặt vợ trong truyện Vợ nhặt ta thấy tình huống
xuyên suốt tác phẩm thật éo le: hồn cảnh gia đình và xã hội (khung cảnh
nạn đói) khơng cho phép Tràng lấy vợ, cả hai vợ chồng đều là những người
cùng cực, khó có thể trở thành chỗ dựa cho nhau.
* Nhân vật Tràng
- Hồn cảnh gia đình: dân ngụ cư bị khinh bỉ, cha mất sớm, mẹ già, nhà ở
tồi tàn, cuộc sống bấp bênh, ..., bản thân: xấu xí, thơ kệch, “hai con mắt nhỏ
tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp, trí tuệ ngờ
nghệch, vụng về, ...
a. Gặp gỡ và quyết định nhặt vợ

- Lần gặp 1: lời hị của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ
khơng có tình ý gì với cơ gái đẩy xe cùng mình.
- Lần gặp 2:
+ Khi bị cô gái mắng, Tràng chỉ cười toét miệng và mời cơ ta ăn dù khơng
dư dả gì. Đó là hành động của người nông dân hiền lành tốt bụng.
+ Khi người đàn bà quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo
bòng thêm miệng ăn, nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải quyết
định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm, chấp nhận hoàn cảnh, khát
khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
+ Đưa người đàn bà lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc, chu đáo
của Tràng trước quyết định lấy vợ.
b. Trên đường về:
+ Vẻ mặt “có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”,
“cảm thấy vênh vênh tự đắc”, ... Đó là tâm trạng hạnh phúc, hãnh diện.


+ Mua dầu về thắp để khi thị về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.
c. Khi về đến nhà:
+ Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua, thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu
bàn tay của đàn bà. Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc.
+ Khi bà cụ Tứ chưa về, Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ
bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn, sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
+ Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ vẫn
phải nghĩ đến quyết định của mẹ. Đây là biểu hiện của đứa con biết lễ
nghĩa.
+ Khi bà cụ Tứ về: thưa chuyện một cách trịnh trọng, biện minh lí do lấy
vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp. Khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng
lòng Tràng thở phào, ngực nhẹ hẳn đi.
d. Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:
+ Tràng nhận thấy sự thay đổi kì lạ của ngơi nhà (sân vườn, ang nước, quần

áo, ...), Tràng nhận ra vai trị và vị trí của người đàn bà trong gia đình.
Cũng thấy mình trưởng thành hơn.
+ Lúc ăn cơm trong suy nghĩ của Tràng là hình ảnh đám người đói và lá cờ
bay phấp phới. Đó là hình ảnh báo hiệu sự đổi đời, con đường đi mới.
- Nhận xét: Từ khi nhặt được vợ nhân vật đã có sự biến đổi theo chiều
hướng tốt đẹp. Qua sự biến đổi này, nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của những con
người trong cái đói.
* Nhân vật người vợ nhặt
a. Lai lịch
- Khơng có q hương gia đình: có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết
bao con người bị dứt khỏi q hương, gia đình.
- Tên tuổi cũng khơng có và qua tên gọi “vợ nhặt”: thấy được sự rẻ rúng
của con người trong cảnh đói.
b. Chân dung


- Ngoại hình: quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khn mặt lưỡi cày xám xịt
chỉ cịn hai con mắt.
- Lần thứ nhất: khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây
chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.
- Lần thứ hai:
+ Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị
hơn, khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn
bát bánh đúc”.
+ Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ... cùng về”, thị đã theo về
thật bởi trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.
- Nhận xét: Cái đói khổ khơng chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân
cách con người. Người đọc vẫn cảm thơng sâu sắc với thị vì đó khơng phải
là bản chất mà do cái đói xơ đẩy.
c. Phẩm chất

- Có khát vọng sống mãnh liệt:
+ Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo
khơng về khơng cần sính lễ vì thị sẽ khơng phải sống cảnh lang thang đầu
đường xó chợ.
+ Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố
cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có
cơ hội sống.
- Thị là người ý tứ và nết na:
+ Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống,
thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
+ Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi
mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi
chưa xác lập được vị trí trong gia đình.
+ Khi gặp mẹ chồng, ngồi câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã
rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.


+ Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa, khơng cịn cái vẻ “chao
chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
+ Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và
vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, khơng làm bà
buồn.
=> Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ khơng
vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
- Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên
Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho
Tràng.
Có thể bạn quan tâm: Hướng dẫn làm đề văn phân tích hình ảnh người vợ
nhặt trong hai lần miêu tả về cách ăn (khi được Tràng đãi bánh đúc và khi
nhận bát “chè khoán” từ mẹ chồng)

* Nhân vật bà cụ Tứ
- Giới thiệu nhân vật: dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, vừa đi vừa
ho húng hắng, lẩm nhẩm tính tốn theo thói quen người già.
- Bà ngạc nhiên trước sự đon đả của đứa con trai ngờ nghệch, ngạc nhiên
trước sự xuất hiện của người đàn bà lạ.
- Bà hiểu ra “biết bao nhiêu cơ sự”, “mắt bà nhoàn đi”: thương cho con trai
phải lấy vợ nhặt, mà trong cảnh đói khát mới lấy được vợ, thương cho
người đàn bà khốn khổ cùng đường mới phải lấy con trai bà.
- Bà đối xử tốt với nàng dâu mới: “Con ngồi đây... đỡ mỏi chân”, nói về
tương lai với niềm lạc quan, bảo ban các con làm ăn,...
=> Bà cụ Tứ là người mẹ hiền từ, chất phác, nhân hậu.
c) Kết bài
- Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật: đặt nhân vật vào tình
huống éo le, độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng, tích cách; miêu tả tâm lí
nhân vật, ngơn ngữ bình dị, gần gũi.
- Tác phẩm chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc, phản ánh chân thực tình
cảnh người nơng dân trong nạn đói, mặt khác cũng phản ánh bản chất tốt
đẹp và sức sống mãnh liệt của họ.


Xem thêm tại: />


×