Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

ĐỀ CƯƠNG môn lý LUẬN dạy học mầm NON

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.82 KB, 23 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN LÝ LUẬN DẠY HỌC MẦM NON
Câu 1: Các nhiệm vụ dạy học mầm non
- Nhiệm vụ 1: Trang bị cho trẻ hệ thống tri thức khoa học sơ đẳng về thế giới xung quanh và
rèn luyện những kỹ năng và kỹ xảo tương ứng
Như chúng ta đã biết, trẻ mầm non thường lịnh hội những hiểu biết, kiến thức, kinh
nghiệm, kỹ năng từ những thân xung quanh trẻ mà trẻ được giao tiếp trong cuộc sống xung
quanh hằng ngày. Nhưng những kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng trẻ lĩnh hội được từ người thân
thường là những tri thức rời rạc, lẻ tẻ, khơng theo một trình tự nhất định nào hết, có đơi khi cịn
máy móc, học vẹt hay là những kiến thức do trẻ tự lĩnh hội được qua quá trình “thử sai” khi
thao tác với các sự vật, hiện tượng mà trẻ chơi biết,…điều đó dẫn đến trẻ không hiểu được bản
chất, nguyên nhân của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, thậm chí dẫn đến hậu quả
xấu ở trẻ là hình thành những biểu tượng sai, những hiểu biết chưa đúng, sai lệch về các sự vệt,
hiện tượng.
Chính vì thế mà nhiệm vụ đầu tiên của dạy học ở mầm non là hình thành, trang bị cho trẻ
hệ thống những tri thức khoa học sơ đẳng về thế giới xung quanh dưới dạng các biểu tượng,
khái niệm đơn giản về các sự vật, hiện tượng và có sự sắp xếp, giải thích, hệ thống hóa những
tri thức đó để trẻ có những hiểu biết đúng đắn ban đầu về thế giới xung quanh. Trên cơ sở đó
mà hình thành cho trẻ thái độ đúng đắn với cuộc sống.
Tại sao nói những tri thức ở bậc học mầm non trang bị cho trẻ là những tri thức khoa học
sơ đẳng về thế giới xung quanh? Điều này là do đặc điểm hiểu biết, nhận thức, vốn sống, vốn
kinh nghiệm của trẻ ở lứa tuổi mầm non cịn hạn chế, mơi trường trẻ tiếp xúc chưa được nhiều,
trẻ chưa được thực hành nhiều mà chủ yếu thơng qua lời nói của người thân cubg cấp. Do đó,
những tri thức mà ở trường, lớp mầm non trang bị cho trẻ chủ yếu hướng đến những điều trẻ đã
biết, đã có trước đó và thơng qua đó sẽ cung cấp, mở rộng và kiến thức hóa những kiến thức, kỹ
năng và kỹ xảo cho trẻ ngày càng đầy đủ và chính xác nhất.
Những tri thức khoa học sơ đẳng ở trẻ mầm non được cung cấp chủ yếu là những tri thức
đơn giản, gần gũi, phù hợp với trình độ hiểu biết của trẻ, được thể hiện dưới dạng những biểu
tượng cụ thể về thế giới xung quanh. Nhưng khi ở trường lớp mầm non, trẻ sẽ được tìm hiểu
một cách có hệ thống hơn, có khoa học hơn. Trẻ sẻ được học từ những cái đơn nhất dần dần mở
rộng cho đến những cái phức tạp nhất nhưng vẫn nằm trong tầm hiểu biết của trẻ theo từng độ
tuổi, theo từng khả năng và phù hợp với từng địa phương nơi trẻ sinh sống .


Để hướng đến hình thành những biểu tượng về các sự vật, hiện tượng, trong thế giới
xung quanh thì điều đầu tiên chính là cần giúp trẻ biết được tên gọi, đặc điểm, tính chất, cơng
dụng...của chúng, đồng thời cịn giúp trẻ hiểu, biết được những mối liên hệ gần gũi, mật thiết
giữa các sự vật, hiện tượng với nhau, qui luật của chúng và mói mối quan hệ giữa chúng với con
người.
Như khi hướng dẫn trẻ tìm hiểu các đồ vật, đồ dùng của chính trẻ hay những đồ dùng sử
dụng trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày trong gia đình hoặc trong lớp học, thì cơ giáo dạy trẻ
biết được tên gọi, đặc điểm, tính chất, chức năng, cách sử dụng những đồ vật quen thuộc đó. Ví
dụ: Trong tiết KP MTXQ “Tìm hiểu các đồ dùng để ăn”, giáo viên vừa chính xác lại tên gọi mà
trẻ đã biết, vừa cung cấp cho trẻ biết về đặc điểm (cái bát gồm có miệng bát, thân bát và đế bát,
miệng bát có dạng trịn, ở phía dưới có đế bát giúp bát đứng được – cái đĩa gồm có lịng đĩa,
miệng đĩa và đế đĩa, đĩa có dạng hình trịn), tính chất (bát và đĩa thường được làm bằng sứ, nhựa


và thủy tinh), chức năng (bát và đĩa được dùng để đựng cơm, thức ăn) và cách sử dụng của cái
bát, cái đĩa. Ngồi ra, cơ cịn cung cấp thêm cho trẻ biết tên gọi khác của “cái bát” – “cái chén”,
“cái đĩa” – “cái dĩa” theo tiếng địa phương mà trẻ sinh sống. Qua đố cơ cịn giáo dục cho trẻ
biết khi sử dụng các đồ dùng trong gia đình trẻ cần sử dụng cẩn thận, tránh làm rơi như thế sẽ
gây bễ các đồ dùng. Mặt khác còn giáo dục trẻ biết yêu quý, tôn trọng các sạn phẩm của nghề
gốm và yêu mến các cô chú công nhân.
- Tiết dạy trẻ 4 – 5 tuổi khám phá “Ngày và đêm”
Giáo viên cung cấp cho trẻ biết được đặc điểm nổi bật của ban ngày và ban đêm (ban
ngày có mặt trời, ban đêm có mặt trăng và các ngôi sao), các hoạt động của con người (ban
ngày mọi người thường đi làm, đi chợ, đi học,… ; cịn ban đêm mọi người thường qy quầy
bên gia đình, xem tivi, đi chơi,.. Dạy trẻ biết được thời gian xuất hiện của mặt trời các buổi
trong ngày. Trẻ hiểu được Mặt trăng và các vì sao xuất hiện vào ban đêm
Hoặc tiết dạy trẻ tìm hiểu về thời tiết các mùa: giáo viên vừa hướng dẫn trẻ tìm hiểu về
tên gọi, đặc điểm, lợi ích của các mùa; vừa giúp trẻ hiểu được mối liên hệ giữa các mùa với
thiên nhiên và tác động của các mùa đến đời sống của con người. Như: Mùa hè thì thời tiết nắng
nóng, ánh ắng thì gay gắt, ít gió, có mưa rào kèm sấm chớp, cây cối thì xum xuê, xanh tốt và có

nhiều quả ngọt. Vào mùa hè, thì hoa phượng nở để báo hiệu mùa hè đến. Vào hè thì mọi người
thường được nghỉ ngơi, trẻ thì dược nghĩ học nên thường được cha mẹ đưa đi du lịch, đi nghỉ
mát. Tác hại của mùa hè đối với thiên nhiên là nếu nắng quá gay gắt, trời không mưa thì sẽ dãn
đến hạn hán, đất thì nức nẻ, nguồn nước cạn kiệt. Cịn đối với con người thì sẽ gây ra mất mùa,
gây ra nhiều dịch bệnh,…
- Dạy trẻ tìm hiểu về các lồi thực vật, động vật: giáo viên chính xác lại tên gọi, cung cấp
cho trẻ biết về các đặc điểm, cấu tạo, lợi ích của chúng và cách chăm sóc chúng, mối quan hệ của
nó với sự vật, hiện tượng....
Ví dụ: Dạy trẻ tìm hiểu về các con vật ni trong gia đình: giáo viên chính xác lại tên gọi
các con vật gần gũi mà trẻ biết như con chó, con gà, con mèo, con bị, con vịt thì con cung cấp
thêm cho trẻ các con vật nuôi khác như con chim khách, con chuột hamter, con vẹt,…và dạy trẻ
biết về các bộ phận (đầu, mình, đuôi, chân), các đặc điểm nội bật của các con vật (con gà trống có
mào đỏ, gáy ị ó o; con vịt bơi được dưới nước, chân có màng,…), cách sinh sản (vịt, gà đẻ trứng
cịn chó và mèo thì đẻ con),…phù hợp với hiểu biết của từng trẻ ở từng địa phương.
- Hướng trẻ tìm hiểu các sự kiện, hiện tượng xã hội mà trẻ có thể hiểu được như lao động
của người lớn, các phương tiện giao thông, những ngày hội, ngày lễ, các cơng trình văn hóa, các
di tích lịch sử của địa phương, đất nước, về thủ đô các miền của đất nước, về lãnh tụ, quốc kỳ,
quốc ca...:
VD: + Các ngày lễ: 20/10 là ngày Phụ Nữ Việt Nam. 20/11 là ngày nhà giáo Việt Nam,...
+ Khi tham gia giao thơng thì đèn xanh được phép đi, đèn vàng đi chậm, đèn đỏ dừng lại.
+ Dạy trẻ 4 -5 tuổi biết được tên gọi, hình ảnh, nơi sinh của Bác Hồ, hình ãnh lăng Bác Hồ
Khơng chỉ giúp trẻ tìm hiểu, chính xác hóa lại các hiểu biết về thế giối xung quanh trẻ mà
dạy học ở mầm non cịn hướng đến hình thành cho trẻ những biểu tượng toán học sơ đẳng, giúp
trẻ xác định được những mối quan hệ, những thuộc tính của chúng về số lượng, kích thước, hình
dạng, vị trí của đồ vật trong khơng gian,..theo từng độ tuổi
Ví dụ: + Trẻ 25 – 36 tháng: dạy trẻ nhận biết 3 màu cơ bản xanh, đỏ và vàng; dạy trẻ nhận
biết to – nhỏ; nhận biết 1 và nhiều; dạy trẻ xác định phía trước – phía sau, phía trên – phía dưới so
với trẻ; nhận biết, phân biệt hình trịn, hình vng.



+Trẻ 3 - 4 tuổi: không chỉ dạy trẻ nhận biết và phân biệt các màu sắc cơ bản thì còn cung
cấp thêm cho trẻ các màu sắc khác như màu cam, hồng xanh lá cây, màu tím, đen,..Về hình dạng :
thì dạy trẻ nhận biết, so sánh hình vng, hình trịn, hình tam giác, hình chữ nhật; dạy trẻ nhận
biết, phân biệt về độ lớn, to – nhỏ; so sánh chiều cao, chiều dài của 2 đối tượng; dạy trẻ đếm, so
ánh, thêm bớt và tách gộp các đối tượng trong phạm vi 5; Dạy trẻ nhận dạng các đồ dùng có cùng
hình dạng, màu sắc với nhau,...
+ Trẻ 4 - 5 tuổi: Dạy trẻ dếm đếm 10 theo khả năng; đếm, nhận biết chữ số, so ánh, thêm
bớt, tách gộp trong phạm vi 5; dạy trẻ nhận biết ý nghĩa của các con số trong cuộc sống hằng
ngày; dạy trẻ so sánh, sắp xếp chiều dài, chiều cao và rộng của 3 đối tượng; dạy trẻ nhận biết
thâm các khối cầu, khối trụ, khối vuông, khối chữ nhật; dạy trẻ biết đo dung tích của các vật,…
+ Trẻ 5 - 6 tuổi: hình thành biểu tượng về tập hợp, số lượng và chữ số trong phạm vi 10,
phân biệt sự khác nhau về số lượng giữa nhóm đối tượng trong phạm vi 10; dạy trẻ nhận biết,
phân biệt khối cầu, khối trụ, khối chự nhật, khối vuông, khối tam giác,…
Mặt khác, ngoài việc trang bị cho trẻ hệ thống những tri thức khoa học sơ đẳng về thế giới
xung quanh thì dạy học ở mầm non cịn giúp trẻ hình thành và rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo
tương ứng.
Kỹ năng mà ở bậc mầm non hướng đến hình thành và rèn luyện cho trẻ chính là những
thao tác, những hành động thực hành mà trẻ thực hiện trên cơ sở vận dụng những kiến thức mà
trẻ đã được học lúc trước và vận dụng nó vào các hoạt động tương ứng để tiếp thu và phát hiện
ra những kiến thức mới. Ví dụ: Khi cơ dạy cho trẻ 6 bước rửa tay, thì lúc đầu cơ vừa dùng lới
nói và động tác để làm mẫu cho trẻ xem để giúp trẻ hình thành nên các biểu tượng và hiểu biết
ban đầu về quy trình rửa tay. Sau đó, cơ cho trẻ thực hành hàng ngày, ban đầu trẻ cịn lung túng
chưa thực hiện được, cơ sẽ làm cùng trẻ kết hợp với lời nói, dần dần khi trẻ đã quen và lĩnh hội
được cách thực hiện. Khi trẻ đã có kỹ năng rửa tay trong đầu thì khi cơ nói đến cách rửa tay thì
trẻ khi chỉ nói được các bước thực hiện mà trẻ cịn thực hiện các bước đầy đủ, chính xác mà cịn
thực hiện một cách thành thạo, nhanh chóng.
Cịn kỹ xảo là những hành động đã được tự động hóa trong suy nghĩ của trẻ, khi cần nói
đến thì trẻ khơng cần suy nghĩ nhiều đến điều đó mà nó sẽ tự động xuất hiện và trẻ sẽ tự làm
một cách tự nhiên, thành thạo. Ví dụ: để viết được chữ a nếu như thời gian đầu cháu mới tập
viết cháu phải suy nghĩ mình phải viết nét gì trước nét gì sau, nhưng sau một thời gia cháu đã

viết quen rồi thì cháu đặt bút xuống viết thì cháu sẽ biết mình viết nét cong trịn khép kín đầu
tiên, sau đó đến nét móc xi.
Trong q trình dạy học ở mầm non trẻ cần được hình thành và rèn luyện những kỹ năng,
kỹ xảo tương ứng như kỹ năng phân biệt màu sắc, âm thanh, hình dáng, kỹ năng so sánh, kỹ
năng đi, đứng, chạy, nhảy, kỹ năng nói...
Nhiệm vụ thứ nhất của dạy học ở mầm non nhấn mạnh yêu cầu làm cho trẻ nắm được
những tri thức sơ đẳng, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng nghĩa là giúp trẻ hiểu, nhớ và vận dụng được
các kiến thức mà trẻ đã được học vào cuộc sống hằng ngày.
- Nhiệm vụ thứ hai: Phát triển các quá trình tâm lý nhận thức và năng lực hoạt động trí tuệ,
đặc biệt là năng lực tư duy sáng tạo của trẻ.
Trong quá trình dạy học nhằm giúp trẻ lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng thì
qua đó cịn giúp trẻ phát triển các quá trình tâm lý nhận thức và năng lực hoạt động , phẩm chất
trí tuệ.


Việc phát triển các năng lực hoạt động trí tuệ sẽ đảm bảo cho các quá trình tâm lý nhận
thức như cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng, ngơn ngữ,.. được thực hiện một cách
có hiệu quả. Tiến đến phát triển cho trẻ năng lực cao nhất năng lực hoạt động trí tuệ là khả năng
tư duy, sáng tạo và tưỡng tượng phong phú của trẻ ở lứa tuổi mầm non.
Qúa trình phát triển nhận thức của trẻ ở độ tuổi mầm non thường diễn ra bằng 2 con
đường đó là con đường nhận thức bằng cảm tính và lý tính. Vì vậy mà để giúp trẻ phát triển có
hiệu quả và tốt ưu q trình nhận thức thì địi hõi cần thức đẩy phát triển q trình tư duy nhận
thức cảm tính và lí tính ở trẻ.
Trẻ mầm non nhận thức thế giới khách quan chủ yếu bằng con đường nhận thức cảm tính:
cảm giác và tri giác. Cảm giác và tri giác của trẻ càng phong phú thì tri thức của trẻ về thế giới
khách quan càng chân thực, sâu sắc. Đây là điều kiện để hoạt động nhận thức cảu trẻ có kết quả
tốt hơn
Ví dụ: Tiết khám phá về " Các loại quả": cô không chỉ cho trẻ quan sát tranh ảnh, video,
mà còn cho trẻ quan sát, thực hành trên quả thật. Cơ tiến hành cho trẻ, sờ, nhìn, bổ các loại quả
ngửi mùi thơm của quả, và tiến hành mời trẻ nếm vị quả. Điều này, không chỉ giúp trẻ nhận biết

đúng tên quả, đặc điểm bên trong, bên ngoài của các loại quả mà còn thúc đẩy phát triển các
giác quan (cho trẻ sờ, nắm giúp trẻ phát hiện được hình dáng trịn, dài hơi cong của quả chuối;
độ trơn nhẵn hay sần sũi của vỏ quả cam, quả chuối,.. phát triển xúc giác; nếm vị của quả cam
giúp trẻ biết được cam có vị chua chua ngọt ngọt như thế nào qua đó phát triển vị giác). Ngồi
ra thơng qua việc cho trẻ quan sát nhiều loại quả, cô cịn dạy trẻ so sánh, phân nhóm quả theo
màu sắc, hình dáng, đặc điểm bên ngồi vỏ (sần sùi, làng...) hoặc cấu tạo bên trong ( khơng hạt,
có hạt, nhiêu hạt...) qua đó giúp trẻ phát triển các qua trình tri giác và cảm giác của trẻ ngày
càng chính xác hơn. Qua đó cũng giúp trẻ phát triển các khả năng quan sát, chú ý, ghi nhớ có
chủ định; phát triển các kỹ năng so sánh, phân loại, tư duy tổng hợp...
Muốn phát triển cảm giác cho trẻ, trước hết cần hình thành cho trẻ hệ chuẩn cảm giác và
kỹ năng vận dụng chúng vào hoạt động thực tiễn. Đó là các chuẩn về màu sắc trong quang phổ
(đỏ, da cam, vàng, lục, lam, chàm, tím và màu trắng, đen), chuẩn về hình dạng hình học (vng,
trịn, tam giác); chuẩn về kích thước, âm thanh...Nhờ nắm được hệ chuẩn cảm giác mà trẻ nhận
biết được các thuộc tính của sự vật xung quanh đúng đắn hơn, sâu sắc và dễ dàng hơn.
Đối với trẻ mầm non, cần phát triển các hoạt động cảm giác, tri giác sau:
- Dạy trẻ nhận biết, phân biệt được các màu sắc cơ bản, phát triển năng lực cảm thụ màu sắc khi
xem tranh ảnh, khi tiếp xúc với thiên nhiên. Ví dụ:
+ Trong tiết tạo hình vẽ “Các loại quả” theo đề tài: khơng chỉ cung cấp cho trẻ các kỹ năng
vẽ, tô màu mà giáo viên cịn chính xác hóa, mở rộng thêm màu sắc của các loại quả mà trẻ vẽ. Khi
trong hoạt động các bạn đều tô màu quả cam màu cam, nhưng có 1 bạn vẽ và tơ màu quả cam
màu xanh. Thì cơ giáo cần làm rõ vì sao lại có sự khác biệt này. Cơ có đặt câu hỏi: Vì sao con lại
tơ quả cam này màu xanh? Con biết qủa cam màu xanh này có tên gọi là gì? (nếu trẻ có vốn hiểu
biết nhiều thì trẻ sẽ trả lời là vì con vẽ cam sành nên nó có màu xanh hoặc quả cam này nó chưa
chín,…) và tiến hành khen ngợi, tuyên dương sự sáng tạo của trẻ.
- Dạy trẻ nắm được các chuẩn về hình dạng, kích thước, các khái niệm về khơng gian;
phải - trái, trên - dưới, trước - sau và sử dụng trong sinh hoạt. Ví dụ:
* Tiết học làm quen với tốn: Dạy trẻ phân biệt " nặng, nhẹ", có tổ chức hoạt động như
sau:
- Một tay cô cầm túi bông to, một tay cô cầm quả dưa hấu nhỏ



- Cơ gợi hỏi để trẻ đốn xem vật nào nặng, vật nào nhẹ?
- Cô gợi ý: muốn biết rõ vật nào nặng hơn, vật nào nhẹ hơn thì mình sẽ làm gì? ( trẻ đốn:
cân)
- Cơ và trẻ cùng đem cân bơng gịn và quả dưa hấu, cơ cho trẻ tự nhận xét kết quả...
- Cô rút lại: túi bông to nhưng nhẹ hơn quả dưa hấu, quả dưa hấu nhỏ những cân nặng
hơn túi bông to.
=> Trẻ được tham gia hoạt động: Cân thử bằng tay, cân vật bằng cân thật nên trẻ rất thích
thú, kích thích trẻ khám phá,phán đoán và đưa ra kết luận một cách khoa học.
- Dạy trẻ định hướng về thời gian: hiểu được tính liên tục và độ dài của thời gian, nắm
được một số đại lượng của thời gian như hôm qua, hơm nay, ngày mai, phút, giờ.... Ví dụ:
+ Tiết khám phá ngày và đêm cho trẻ 4 – 5 tuổi:
- Cô cho trẻ xem bức tranh về bầu trời ban ngày và gợi hỏi trẻ về các buổi và các hoạt động của
con người trong các buổi
- Bức này nói về ban ngày hay ban đêm? Vì sao con biết?
-Thế các bé có biết ơng mặt trời mọc vào buổi nào không? Chiếu cảnh ông mặt trời mọc
cho trẻ xem
- Khi mặt trời mọc thì con thường làm gì?
- Cho trẻ xem tiếp tranh về ban đêm, hỏi trẻ về bầu trời và các hoạt động con người vào ban
đêm
Cô gút lại: Ban ngày thường bắt đầu vào lúc ơng mặt trời mọc hay cịn gọi là bình minh hay
sáng sớm, lúc này mọi người thức dậy chuẩn bị đi làm, đi học. Tiếp đến là buổi trưa, vào buổi
trưa thì ánh nắng gay gắt, con người ăn cơm trưa và ngủ trưa. Vào ban đêm, bầu trời thường rất
tối và có rất nhiều ngơi sao và có mặt trăng,…
Việc khám phá, xem tranh, video về ngày và đêm, giúp trẻ biết được trình tự của 1 ngày gồm có
các buổi nào, các hoạt động của con người trong một ngạy. Thơng qua đó cịn giúp trẻ nhận biết
và phân biệt chính xác đâu là ngày, đâu là đêm.
- Thông qua các tiết dạy hát, múa, vận động cho trẻ, giúp trẻ phát triển sự nhạy cảm về âm
thanh, kỹ năng lắng nghe và phân biệt âm thanh trong hồn cảnh xung quanh, phát triển cảm
giác ngơn ngữ, cảm giác âm nhạc (cao độ, trường độ, nhịp điệu...). Ví dụ: tiết dạy trẻ hát bài

“Cô và mẹ”, cô dạy trẻ hát theo từng câu để trẻ thuộc lời bài hát và biết hát đúng chính xác các
giai điệu của bài hát, biết chỗ nào hát chậm, yêu thương, trìu mếm. Qua tiết dạy hát còn kết hợp
cho trẻ chơi trò chơi âm nhạc “âm thanh to – nhỏ” yêu cầu trẻ phải lắng nghe thử cô tạo ra âm
thanh đó là to hay nhỏ và trả lời chính xác, và sau đó yêu cầu trẻ lên thực hiện đúng lại âm
thanh mà trẻ vừa nghe. Qua trò chơi này trẻ khơng chỉ được kích thích phát triển tai nghe âm
nhạc về việc phân biệt chính xác cường độ to – nhỏ của âm thanh mà còn phát triển ở trẻ khả
năng ghi nhớ và tái tạo lại chính âm thanh trẻ vừa nghe.
- Dạy trẻ phân biệt bằng cảm giác tính chất của các vật thể và diễn đạt bằng ngôn ngữ như:
nhẵn nhụi, mềm mại, cứng, nặng, nhẹ, nóng lạnh...
- Phát triển các cảm giác vận động, khướu giác và vị giác. Trên có sở phát triển cảm giác
mà phát triển tri giác cho trẻ.
- Phát triển tư duy cho trẻ mầm non là phát triển từ tư duy trực quan hành động đến tư
duy trực quan hình tượng, đến cuối tuổi mẫu giáo trẻ bắt đầu phát triển tư duy trừu tượng. Do
đó, cần chú ý phát triển tư duy hình tượng (nghĩ thầm trong óc) cho trẻ mẫu giáo, tiến tới phát
triển tư duy trừu tượng (tư duy khái niệm )


Sự phát triển của trí tưởng tượng rất cần thiết cho sự phát triển tâm lý bình thường của trẻ
em. Vì nó là một trong những chức năng quan trọng nhất và ln có mặt trong hoạt động nhận
thức và giao tiếp của trẻ nói riêng và của con người nói chung. Ở thời kỳ đầu của trẻ mầm non
mới chỉ có tưởng tượng tái tạo tức là trẻ chỉ tái tạo lại những hình ảnh mà trẻ đã được tiếp thu
và ghi nhớ lại trong đầu. Trên cơ sở phát triển tưởng tượng tái tạo, cùng với sự phát triển tư duy
mà hình thành tưởng tượng sáng tạo ở trẻ.
Cùng với phát triển các quá trình nhận thức, cần chú ý phát triển ngơn ngữ cho trẻ vì ngơn ngữ
là công cụ của tư duy, là phương tiện để nhận thức và giao tiếp với người khác. Nhờ có ngôn
ngữ mà trẻ nắm tri thức một cách gián tiếp (thơng qua kể chuyện, giải thích của người lớn ) chứ
khơng phải chỉ bằng con đường tri giác trực tiếp.
Ví dụ: * Tiết học làm quen với văn học" Chú dê đen": cô yêu cầu trẻ: nếu để bạn dê trắng bị sói
ăn thịt thì đáng thương cho bạn ấy quá. Các con hãy suy nghĩ kể lại đoạn truyện ấy sao cho số
phận của bạn dê trắng bớt bi thảm => Trẻ phải suy nghĩ, tư duy tích cực để tìm đoạn truyện phù

hợp theo yêu cầu và diễn đạt được suy nghĩ của mình. Chẳng hạn trẻ tự đặt truyện: " sói khơng
ăn thịt dê trắng liền mà trói dê trắng vào gốc cây, sau đó dê đen đuổi chó sói va cứu dê
trắng...=> Phát triển trí tưởng tượng và ngơn ngữ cho trẻ
Mặt khác cịn phải hình thành ở trẻ mầm non năng lực ghi nhớ có chủ định, tăng khối
lượng ghi nhớ cho trẻ. Chẳng hạn: cô giáo cần tạo điều kiện cho trẻ quan sát các sự vật hiện
tượng xung quanh, qua kể chuyện, đọc thơ... nhằm làm phong phú những biểu tượng, ấn tượng
về thế giới xung quanh. Sau đó yêu cầu trẻ nhắc lại, kể lại những biểu tượng, ấn tượng về thế
giới xung quanh. Sau đó yêu cầu trẻ nhắc lại những điều trẻ biết để rẻn ghi nhớ có chủ định cho
trẻ.
Ngồi ra cịn cần chú ý phát triển ở trẻ các năng lực trí tuệ khác nhau như quan sát, chú ý
có chủ định, so sánh, phân tích, tổng hợp, ghi nhớ và tái hiện, năng lực và vận dụng tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo vào thực tế...
Trên cơ sở phát triển các năng lực trên mà phát triển tính ham hiểu biết và nhu cầu, hứng
thú nhận thức ở trẻ em. Muốn vậy cô giáo cần quan tâm tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt
động để qua đó nảy sinh nhiều mâu thuẫn, nhiều câu hỏi, nhiều thắc mắc... phát triển tính tị mị,
ham hiểu biết của trẻ, ham hiểu biết của trẻ, hình thành nhu cầu, hứng thú nhận thức bền vững ở
trẻ.
Tóm lại, trong hoạt động dạy học, trẻ phải được phát triển các năng lực hoạt động trí tuệ
bao gồm các năng lực nhận thức ( tri giác, trí nhớ, tư duy...) các năng lực vận dụng các thao tác
trí tuệ và một số cơ sở ban đầu của các phẩm chất trí tuệ. Đặc biệt cần chú ý phát triển trí thơng
minh, năng lực tư duy sáng tạo cho trẻ ngay khi trẻ còn nhỏ, biểu hiện ở khả năng giải quyết
vấn đề mau lẹ, sáng tạo, độc đáo, khơng rập khn, có tính chất mới lạ, khác thường và chọn
phương án đơn giản, tối ưu nhất để giải quyết vấn đề.
- Nhiệm vụ thứ 3: Hình thành và phát triển cơ sở của thế giới quan khoa học, tình cảm, đạo đức,
các phẩm chất nhân cách của trẻ
Mục đích cuối cùng của việc dạy học ở mầm non là hình thành và phát triển nhân cách
tồn diện cho trẻ. Vì vậy trên cơ sở hai nhiệm vụ trên, mà nhiệm vụ thứ ba của dạy học ở mầm
non phải nhằm hình thành những cơ sở ban đầu của thế giới quan khoa học, những phẩm chất
đạo đức tốt đẹp của người công dân.
Việc cung cấp những tri thức sơ đẳng về tự nhiên, về xã hội chính là góp phần hình thành

những cơ sở, nền tảng đầu tiên của thế giới quan khoa học cho trẻ. Có thế giới quan khoa học tức


là có cách nhìn nhận về thế giới xung quanh một cách đúng đắn, trẻ sẽ có thái độ đúng đắn đối với
thế giới khách quan.
Ví dụ: Trong giờ hoạt động ngồi trời “Quan sát cây bàng”, cơ cho trẻ quan sát cây thật và
cung cấp cho trẻ biết quá trình lớn lên của cây, và làm sao để cây phát triển tốt? mà cón giáo dục
trẻ khơng được ngắt hoa, bẻ cành, bức lá,... Từ đó hình thành ở trẻ những nhận thức đúng đắn về
việc bảo vệ cây và đó cũng là việc góp phần bảo vệ mơi trường. Qua đó trẻ sẽ có cách nhìn nhận
về thế giới xung quanh một cách đúng đắn hơn và có hành động đẹp.
Tiết KPKH “Tìm hiểu về một số hiện tượng tự nhiên” cô cung cấp cho trẻ biết là trời mưa
thì có mây đen, gió lớn, sấm chớp và nước mưa rơi xuống, và khi đi dưới trời mưa thì phải mặt áo
mưa, che dù. Từ đó trẻ sẽ có những tri thức sơ đẳng về tự nhiên và sẽ có thái độ hành vi đúng đó
là khi gặp hiện tượng như thế trẻ biết là trời mưa và sẽ mặc áo mưa, hoặc che dù.
Đồng thời, trên mỗi giờ học, thơng qua nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học,
giáo dục trẻ những tình cảm, phẩm chất đạo đức cần thiết, giáo viên phải biết căn cứ vào nội dung
của từng bài để giáo dục phù hợp, tránh gị ép, hình thức hoặc bng lỏng tác dụng của giáo dục
trong dạy học.
Ví dụ: Câu chuyện “chú cua thợ may” thuộc chủ đề nghề nghiệp thì nội dung giáo dục ở
đây khơng nên gị ép giáo dục trẻ là phải yêu quý nghề thợ may hay nghề nào đó trong xã hội mà
có thể giáo dục phù hợp nội dung câu chuyện là nên giúp đỡ bạn bè, người khác bằng sự chân
thành của bản thân, không nên tính tốn.
Như vậy, dạy học ở mầm non khơng chỉ bồi dưỡng thế giới quan khoa học, đạo đức, tình cảm,
niềm tin, hành vi ứng xử đúng đắn... mà cịn góp phần hình thành và phát triển nhân cách nói
chung cho trẻ.
Ba nhiệm vụ dạy học mầm non có mối quan hệ biện chứng, thống nhất nhằm mục đích "dạy
chữ" vừa "dạy người" cho trẻ.
Nhiệm vụ một vừa là cơ sở cho việc giáo dục, hình thành và phát triển nhiệm vụ hai và ba.
Nhiệm vụ hai lại vừa là kết quả vừa là điều kiện để có thể thực hiện các nội dung trong nhiệm vụ
một; đồng thời còn là cơ sở cho nhiệm vụ 3 được tiến hành một cách có hiệu quả và thiết thực

nhất. Và nhiệm vụ ba lại là mục đích, là kết quả cuối cùng mà nhiệm vụ một và hai muốn hướng
đến, mặt khác nó cịn là yếu tố kích thích, hướng dẫn và nội dung chỉ đạo xuyên suốt trong quá
trình thực hiện 2 nhiệm vụ đều của quá trịnh dạy học ở mầm non. Cả ba nhiệm vụ này vừa tác
động qua lại lẫn nhau, vừa cùng hộ trợ nhau cùng phát triện và cùng hướng đến một mục đích
chung.
Câu 2: Bản chất dạy học mầm non
Bản chất của HĐDH ở mầm non là hoạt động nhận thức tích cực của trẻ em được tiến
hành dưới vai trò tổ chức, hướng dẫn của GV nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học mầm
non.
Và hoạt động học là hoạt động độc lập của trẻ của trẻ nhằm lĩnh hội những tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo và phương thức hành động, diễn ra dưới sự hướng dẫn tích cực của giáo viên
1, Hoạt động dạy học ở mầm non trước hết là hoạt động nhận thức độc đáo của trẻ em
Trong HĐDH ở mầm non, hoạt động nhận thức – học tập của trẻ là một hoạt động đặc
biệt( khác với hoạt động chơi và lao động) được hình thành trong mối quan hệ biện chứng giữa
trẻ và người lớn, dưới ảnh hưởng của những giờ học có tổ chức. Học tập là hoạt động độc lập
của trẻ nhằm lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và phương thức hành động, diễn ra dưới sự
hướng dẫn của giáo viên.


a. Hoạt động học của trẻ thực chất là hoạt động nhận thức tích cực
Trong hoạt động học tập - nhận thức, trẻ thể hiện 2 tư cách:
- Trẻ là đối tượng nhận thức: trẻ tiếp nhận những tác động của cơ giáo một cách có ý
thức, trẻ hiểu được u cầu của cơ đề ra, suy nghĩ và tìm tịi để thực hiện u cầu của cơ theo
cách riêng của trẻ.
- Trẻ là chủ thể nhận thức: trẻ phát huy tính tự giác, tích cực, độc lập, sáng tạo trong q
trình nhận thức, tích cực tham gia vào q trình nhận thức nhằm tiếp thu những tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo mà cơ truyền thụ… Vai trị chủ thể nhận thức của trẻ biểu hiện:
+ Trẻ hiểu nhiệm vụ nhận thức đặt ra cho mình, “ biết nghe” và “ lắng nghe” cô giáo,
xem xét và nhận biết được điều giáo viên trình bày, theo dõi sự chỉ dẫn của giáo viên trong việc
nắm nội dung nhận thức, cách thức hành động.

+ Trẻ lựa chọn các biện pháp và phương tiện cần thiết để thực hiện nhiệm vụ nhận thức.
Muốn vậy, trẻ cần nắm được các biện pháp và phương tiện có thể có, biết đề ra kế hoạch làm
việc và hành động theo kế hoạch đó.
+ Trẻ tự kiểm tra quá trình thực hiện nhiệm vụ và kết quả cơng việc của mình, biết so
sánh hành động, ý kiến của mình với cái đã học.
Hoạt động học tập với các thành phần ở trên được hình thành dần dần từng bước ở trẻ.
Các cơng trình nghiên cứu cho thấy: trẻ nắm được hoạt động học tập có kết quả hơn trong các
tiết học. Song cần tính đén đặc điểm lứa tuổi và khả năng của trẻ. Đối với mẫu giáo nhỏ, cần
dựa trên động cơ chơi trong dạy học và hình thành hoạt động học tập. Ví dụ, cơ giáo nói: “ Chú
mèo con muốn uống sữa, chúng ta hãy nặn cho chú một cái bát”, “ Chúng ta hãy làm một ngôi
nhà cho búp bê”… Song trẻ lớn, thì phải dần daần hình thành ở trẻ những động cơ nhận thức
của hoạt động học tập, hướng cho trẻ quan tâm đến không chỉ ở kết quả sau cùng mà cả đến
chính q trình tiếp thu tri thức, đến các phương thức thực hiện hành động, làm cho trẻ hài lịng
khi có được tri thức và kỹ năng mới.
b. Hoạt động học của trẻ là hoạt động nhận thức độc đáo
- Hoạt động nhận thức của trẻ có sự hướng dẫn sư phạm của giáo viên nên diễn ra theo
con đường đã được khám phá, con đường thẳng. Do vậy, trẻ có thể nhận thức nhanh chóng và
chính xác các sự vật và hiện tượng mà loài người phải mất nhiều năm để nghiên cứu.
- Trong quá trình học tập, không đặt cho trẻ nhiệm vụ phát minh những chân lý khoa học
mới mẻ mà chỉ đòi hỏi trẻ lĩnh hội lại chúng một cách sáng tạo. Như vậy tri thức mà trẻ cần tiếp
thu, chiếm lĩnh là mới đối với trẻ, nhưng không mới đối với xã hội.
- Trong q trình dạy học mầm non, cơ giáo phải tính đến đặc điểm lứa tuổi của trẻ để
vận dụng phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp, phải vận dụng
nhiều biện pháp kích thích, xây dựng động cơ, gây cảm xúc và tình cảm nhận thức, thường
xuyên ôn luyện, khắc sâu, hệ thống hóa, kiểm tra, đánh giá,…nhằm giúp trẻ nắm vững kiến
thức, KN,KX,…
- Nhận thức của trẻ có tính giáo dục, có nghĩa thơng qua q trình lĩnh hội hệ thống tri
thức sơ đẳng về thế giới xung quanh và rèn luyện những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, phát triển
năng lực hoạt động trí tuệ,…trẻ được hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu của thế giới
quan khoa học, các phẩm chất đạo đức và nhân cách toàn diện.

3.2.2.Hoạt động dạy học ở mầm non là hoạt động tổ chức nhận thức cho trẻ của người
giáo viên.


Trong HDDH ở mầm non, hoạt động dạy của giáo viên giữ vai trò chủ đạo: định hướng,
tổ chức, hướng dẫn, điều khiển, điểu chỉnh quá trình nhận thức của trẻ. Ở đây GV là chủ thể của
hoạt động dạy: GV là người được đào tạo chu đáo về nghiệp vụ sư phạm, người nắm vững kiến
thức khoa học chuyên ngành, các qui luật phát triển tâm lý, ý thức và đặc điểm hoạt động nhận
thức của trẻ để tổ chức cho trẻ học tập. Trên nguyên tắc phát huy tính tích cực nhận thức của trẻ,
GV khơng chỉ truyền thụ tri thức, mà chủ yếu là tổ chức quá trình hoạt động của trẻ, thơng qua
đó trẻ lĩnh hội được tri thức kỹ năng, kỹ xảo, vai trò. Vai trị tổ chức nhận thức của cơ giáo thể
hiện:
- Cơ xác định mục đích u cầu của giờ học
- Cơ xây dựng nội dung bài học cho phù hợp với trình độ nhận thức của trẻ
- Cơ lựa chọn phương pháp dạy học, phương tiện, hình ảnh tổ chức dạy học phù hợp với
trẻ,…
- Cô xây dựng kế hoạch hoạt động của bản thân và của trẻ.
- Cô là người tổ chức hoạt động dạy của bản thân và hoạt động nhận thức của trẻ (bao
gồm cô chuẩn bị phương tiện, đồ dùng dạy học, thí nghiệm, bài tập, tài liệu tham khảo, hướng
dẫn học tập; tổ chức dạy học trên lớp; giao nhiệm vụ học tập cho trẻ, phân cơng, chỉ dẫn,…)
- Cơ ln ln kích thích tính tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ.
- Cơ theo dõi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của trẻ, qua đó có biện pháp điều chỉnh
kịp thời và cải tiến công tác dạy học tốt hơn.
Như vậy, trong HDDH cơ giáo căn cứ vào chương trình, tài liệu những hiểu biết tổng hợp
của mình về nghề nghiệp và chuyên môn; căn cứ vào những điều kiện cụ thể của trường, lớp,
trẻ em, hoàn cảnh để vận dụng dẫn dắt trẻ học tập bằng con đường tốt nhất, nhằm đạt được các
nhiệm vụ dạy học với hiệu quả cao nhất.
Tóm lại: HDDH ở mầm non có tính hai mặt: hoạt động học tập của trẻ và hoạt động tổ
chức học tập cho trẻ của giáo viên. Hai hoạt động này có mối quan hệ tương tác, thống nhất với
nhau

Câu 3: Các nguyên tác dạy học mầm non
Nguyên tắc dạy học là những luận điểm cơ bản có tính quy luật của lý luận dạy học, có
tác dụng chỉ đạo tồn bộ tiến trình dạy học nhằm thực hiện tốt mục đích và nhiệm vụ dạy học.
Dựa vào các nguyên tắc dạy học đã hình thành trong lý luận đại cương, trên cơ sở đặc
điểm tâm sinh lý của trẻ mầm non mà xác định hệ thống nguyên tắc dạy học mầm non. Các
nguyên tắc cơ bản được vận dụng trong dạy học ở trường mầm non bao gồm:
- Nguyên tắc dạy học đảm bảo tính khoa học và tính giáo dục
Nguyên tắc này xuất phát từ mối liên hệ có tính qui luật giữa dạy học với phát triển trí tuệ
và giáo dục tồn diện nhân cách của trẻ mầm non. Nguyên tắc này thể hiện mối quan hệ thống
nhất biện nhất của 3 nhiệm vụ dạy học. Trên cơ sở trang bị cho trẻ những tri thức khoa học sơ
đẳng, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo tương ứng, phát triển năng lực hoạt động trí tuệ của trẻ
mà dần dần hình thành cơ sở thế giới quan khoa học, những phẩm chất và tình cảm, các chuẩn
mực hành vi đạo đức cho trẻ. Ngược lại, sự phát triển năng lực hoạt động trí tuệ là điều kiện
thúc đẩy việc nắm tri thức, KN, KX, đồng thời chính những niềm tin, phẩm chất, tình cảm một
khi đã phát triển ở trẻ và trở thành ý thức thì có tác dụng thúc đẩy trẻ hồn thành tốt nhiệm vụ
học tập, nhận thức.
Nguyên tắc này đòi hỏi: trong hoạt động dạy học mầm non, giáo viên phải biết thông qua
việc truyền thụ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà thúc đẩy sự phát triển trí tuệ, phát triển năng lực


nhận thức, năng lực thực hành, phát triển toàn diện nhân cách trẻ em, đồng thời hình thành ở trẻ
thái độ đúng đắn đối với cuộc sống, với lao động và thực tiễn xung quanh, giáo dục trẻ có
những tư tưởng, tình cảm, hành vi đạo đức đúng đắn, phù hợp với yêu cầu của xã hội và đáp
ứng yêu cầu đặt ra của mục tiêu giáo dục mầm non. Chẳng hạn, thông qua việc cho trẻ nhận biết
tên gọi, đặc điểm các loại động vật, cho trẻ biết so sánh những điểm tương đối giống nhau và
khác nhau cơ bản giữa chúng, biết phân loại và khái quát…Từ đó hình thành ở trẻ hiểu biết về
lợi ích và tác hại của từng loại động vật…; có thái độ chăm sóc và bảo vệ những con vật có ích,
cách đề phịng và chống những con vật có hại…hoặc sau khi cung cấp cho trẻ những kiến thức
về các hiện tượng thiên nhiên: mưa, gió, sấm, chớp, lạnh, nóng…;các mùa trong năm…dần dần
giáo dục trẻ quan điểm về các hiện tượng đó, qui luật vận động và phát triển của các hiện tượng

trong thiên nhiên…
Dạy học phải đảm bảo tính phát triển, tính giáo dục nghĩa là dạy học phải là phương tiện
để hình thành nhân cách cho trẻ, do vậy, giữa dạy học, phát triển và giáo dục phải gắn bó chặt
chẽ với nhau, thống nhất với nhau. Dạy học ở trường mầm non phải thực hiện tốt mục tiêu của
giáo dục mầm non.
Để đảm bảo nguyên tắc này, trong dạy học mầm non cần chú ý các yêu cầu:
+ Lập kế hoạch dạy học cho từng năm học, từng giai đoạn, từng mơn học, tiết học cụ thể,
trong đó thể hiện đầy đủ các nhiệm vụ dạy học phù hợp với trình độ, năng lực trẻ em trong lớp.
+ Trong hoạt động dạy học cho trẻ tìm hiểu về thế giới xung quanh như nó đang tồn tại,
bảo đảm cho trẻ lĩnh hội các tri thức chính xác, đúng đắn phù hợp với các quan điểm khoa học
và mối liên hệ của nó với thực tiễn.
+ Giáo viên cần biết khai thác triệt để tác dụng giáo dục của nơi dung kiến thức, của
phương pháp cũng như hình thức tổ chức dạy học. Trong đó nội dung kiến thức có tác dụng rất
lớn. Cơ giáo phải căn cứ vào nội dung kiến thức từng môn, từng bài cụ thể mà đề ra những
nhiệm vụ giáo dục cụ thể, tránh rập khn máy móc hoặc hình thức, bng lỏng tác dụng giáo
dụng của bài.
+ Trình bày những tri thức theo trình tự logic chặt chẽ, đảm bảo cho những điều học
trước làm cơ sở cho những điều học sau, những điều học sau dựa vào những điều học trước và
đồng thời làm phong phú thêm những điều học trước. Điều đó cũng có nghĩa là làm sao cho vốn
tri thức có sẵn của trẻ vừa là cơ sở, nền tảng, vừa là điều kiện, phương tiện để chiếm lĩnh tri
thức mới.
+ Giáo viên cần sử dụng ngôn ngữ rõ ràng, cụ thể, sinh động, giàu hình tượng… vì trẻ
mẫu giáo chưa đọc được sách, nên càng yêu cầu cao đối với ngơn ngữ của cơ giáo.
+ Phương pháp, hình thức tổ chức dạy học cần đổi mới theo hướng phát huy tích cực,
sáng tạo của trẻ, bồi dưỡng cho trẻ cách thức, thói quen học tập khoa học.
+ Tăng cường giáo dục tư tưởng, tình cảm, hành vi đạo đức đúng đắn cho trẻ… thông qua
hoạt động trên lớp và các hoạt động làm quen với môi trường xung quanh…
- Nguyên tắc dạy học đảm bảo tính vừa sức chung và tính vừa sức riêng:
Theo nhà Tâm lý học nổi tiếng L.S.Vư-gốt-xki thì mỗi cá thể trẻ em ln có 2 mức độ
phát triển cùng tồn tại song song trong q trình giáo dục trẻ. Đó là “vùng phát triển hiện tại” và

“vùng phát triển gần nhất”. Điều này có nghĩa là trong q trính nhận thức, trẻ khơng chỉ tồn tại
những kiến thức, năng lực hiện có đã được trẻ tích lũy dần trong q trình tương tác với thế giới
xung quanh, mà ở trẻ còn tồn tại những năng lực, kiến thức mới mẻ, tiềm ẩn dựa trên vốn hiểu
biết đã có mà trẻ có thể vươn đến.


Nghĩa là trong q trình dạy học, giáo khơng phải chỉ nhằm vào mức độ trẻ đã có được để
tiến hành giáo dục trẻ mà cịn phải ln biết tạo ra những thử thách, tình huống cao hơn sự hiện
có của trẻ để khơi gợi, kích thích, khám phá những khả năng mới cịn tiềm ẩn của trẻ. Từ đó,
giúp trẻ phát triễn mọi cách toàn diện về mọi mặt.
Nguyên tắc “vừa sức chung”, “vừa sức riêng” còn xuất phát từ đặc điểm chung của lứa
tuổi và đặc điểm cá biệt của riêng từng trẻ em trong quá trình học tập – nhận thức. Ở mỗi trẻ
đều có những đặc điểm chung của lứa tuổi đồng thời cũng mang những nét đặc điểm riêng biệt
của cá nhân trẻ. Ở trẻ tuy cùng độ tuổi nhưng ở mỗi trẻ khác nhau sẽ có những biểu hiện khác
nhau về khả năng lĩnh hội tri thức như: mức độ nhận thức, sự linh hoạt của tư duy, khả năng ghi
nhớ, tốc độ tiếp thu tri thức,…và việc hình hành các kỹ năng, kỹ xảo cũng khác nhau về thời
gian. Có những trẻ hiểu, ghi nhớ rất nhanh, mặc dù cô mới chỉ làm, nói cho trẻ nghe 1 lần trẻ đã
có thể trả lời, thực hiện được u cầu của cơ; nhưng có trẻ lại phải mất nhiều thời gian làm đi,
làm lại nhiều lần thì mới có thể nhớ được, làm được.
Do sự khác biệt về đặc điểm nhận thức của từng trẻ nhưng lại phải đảm bảo sự phát triển
của trẻ được diễn ra đồng bộ trong quá trình dạy học. Vì vậy, địi hỏi người giáo viên khơng chỉ
nắm vững đặc điểm phát triển tâm sinh lý chung của trẻ theo độ tuổi, mà còn phải biết được đặc
điểm riêng biệt của cá nhân mỗi trẻ để từ đó có những tác động tích cực, đúng đắn đến khả năng
hiện có của trẻ và khơi gợi được những năng lực tiềm ẩn của trẻ.
Chính vì thế mà trong q trình dạy học, yêu cầu giáo viên khi xác định nhiệm vụ, mục
tiêu; lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức dạy học, cần vừa phải căn cứ vào khả năng học
tập thực sự của trẻ ở mỗi lứa tuổi, vừa phải biết khai thác những hiểu biết, khả năng riêng của
mỗi trẻ trong từng lớp, từng đại phương cụ thể. Nếu nội dung dạy học quá dễ, nhiệm vụ dạy học
đặt ra thấp so với khả năng nhận thức của trẻ, trẻ không cần cố gắng suy nghĩ, vận dụng não bộ
để nắm được kiến thức, thì khơng có mâu thuẫn, khơng có động lực thúc đẩy trẻ học tập, do đó,

sẽ “kìm hãm” sự phát triển của trẻ. Cịn nếu nội dung, kiến thức cô truyền đạt cho trẻ quá cao,
quá khó, nhiệm vụ đưa cho trẻ vượt quá khả năng nhận thức và thực hiện của trẻ, dù trẻ có cố
gắng hết sức cũng khơng hiểu được bài, trẻ có vận dụng các kỹ năng đã có để thực hiện nhưng
cũng khơng hồn thành nhiệm vụ . Điều này khiến trẻ dễ cảm thấy áp lực, khơng có hứng thú
học tập.
Việc lựa chọn nội dung, đặt ra các mục tiêu, nhiệm vụ cho trẻ trong quá trính học tập nếu
quá dễ hoặc quá khó đối với khả năng của trẻ sẽ gây ra những hậu quả không lường. Qúa trình
họctập và truyền đạt kiến thức như thế sẽ khiến trẻ dần dần mất niềm tin, hứng thú vào việc
khám phá thế giới xung quanh; khiến trẻ mất đi khả năng tư duy, khả năng tưởng tượng, sự sáng
tạo ở trẻ.
Dạy học vừa sức cũng là một trong những yêu cầu nhiệm vụ học tập phải phù hợp với
giới hạn cao nhất của “vùng phát triển trí tuệ gần nhất” của trẻ, mà trẻ có thể hồn thành được
với sự nỗ lực cao nhất về trí tuệ và thể lực. Việc dạy học vừa sức với trẻ sẽ thúc đẩy sự phát
triển mạnh mẽ về mặt trí tuệ cũng như về tồn bộ nhân cách nói chung… Tuy nhiên, trong quá
trình dạy học phải vừa quan tâm đến sự phát triển chung của tất cả trẻ đồng thời lại phải quan
tâm đến sự phát triển riêng biệt của từng đối tượng trẻ trong lớp, chú không nên đặt nặng bên
này mà bỏ bên kia và ngược lại.. Đó là do quá trình học tập, đã diễn ra sự phân hóa ở trình độ
của trẻ dưới ảnh hưởng của xu hướng, tính cách, điều kiện sống, điều kiện sức khỏe khác nhau,
đặc biệt là năng lực nhân thức khác nhau ở từng trẻ, mặc dù việc dạy học được tiến hành như
nhau cho mọi trẻ. Vì vậy, cần có phương pháp đối xử cá biệt theo năng lực nhận thức của trẻ để


giúp trẻ khá giỏi tiếp tục phát triển lên trình độ cao hơn; đồng thời giúp cho trẻ yếu kém đạt
trình độ chung do yêu cầu của chương trình qui định chung.
Để đảm bảo nguyên tắc này được diễn ra một cách suông sẻ và dễ dàng, giáo viên cần
chú ý các yêu cầu sau:
Lựa chọn nội dung dạy học phải đi từ gần đến xa, từ đơn giản đến phức tạp, từ những
điều đã biết đến những điều chưa biết, từ những điều quen thuộc đến những điều chưa quen
thuộc. Khi cho trẻ lĩnh hội tri thức mới, phải dựa trên cơ sở những cái trẻ đã được quan sát, đã
biết, đã có trong kinh nghiệm của trẻ.

Tri thức cung cấp cho trẻ cũng phải đi từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ các sự
kiện hiện tượng riêng lẻ đến mối liên hệ, quan hệ giữa chúng và nguyên nhân của chúng… Ví
dụ, việc phát triển từ ngữ được nâng dần lên theo lứa tuổi từ chỗ gọi đến sự vật, những đặc điểm
cơ bản nổi bật bên ngoài đến chỗ sử dụng những từ khái quát, những động từ, tính từ đa nghĩa,
những từ chỉ số trừu tượng.
Cần lựa chọn, áp dụng những phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học phù
hợp với đặc điểm lứa tuổi, phụ hợp với từng cá nhân trẻ, với nội dung kiến thức truyền đạt, sao
cho trẻ dễ hiểu nhất.
Giáo viên cần chú ý đặc biệt thường xuyên theo dõi tình hình học tập của trẻ, tăng cường
kiểm tra đánh giá, kịp thời uốn nắn, điều chỉnh hoạt động dạy học. Việc đánh giá trẻ không chỉ
dựa vào đánh giá trẻ cuối chủ đề, đánh giá qua bài kiểm tra năm học mà cần phải đánh giá qua
các hoạt động, qua các buổi học của trẻ và đánh giá trẻ mọi lúc mọi nơi.
Cần chú ý khuyến khích, động viên và giúp đỡ riêng đối với trẻ khá giỏi và đặc biệt là trẻ
yếu kém.
Khi nguyên tắc vừa sức chung, vừa sức riêng được đảm bảo thực hiện xuyên suốt, trọn
vẹn và có hiệu quả trong quá trình giáo dục trẻ ở trường mầm sẽ mang lại những lợi ích tuyệt
vời cả cho trẻ và cơ. Việc áp dụng tốt nguyên tác này, giúp giáo viên chủ động, dễ dàng hơn
trong việc giáo dục trẻ, giúp cô lựa chọn tốt các nội dung, đặt ra các mục tiêu vừa sức trẻ, tổ
chức các hình thức, phương pháp giáo dục mang lại hiệu quả cao, trẻ tích cực tương tác với cơ.
Cịn với trẻ sẽ tìm được niềm say mê, sự u thích khám phá, tìm tịi và sự hứng khởi khi học
tập, trẻ sẽ chủ động tương tác, năng động và sáng tạo trong các hoạt động. Đó là điều tuyệt với
nhất mà nền giáo dục mầm non cần hướng đến.
Ví dụ minh họa vào 1 bài dạy cụ thể:
Hệ thống cây hỏi đàm thoại tiết Kể chuyện sáng tạo chuyện “Thỏ con đi học”
+ Tranh 1:Thỏ con chào bố mẹ đi học
- Trong bức tranh có có những ai?
- Gia đình nhà Thỏ đang làm gì?
- Thỏ con xin phép bố mẹ điều gì?
- Khi Thỏ con xin phép, Thỏ mẹ dặn dò Thỏ con điều gì?
- Con đốn xem trên đường đi học Thỏ con đã gặp ai? Và điều gì?

* Trẻ chậm:
- Trong bức tranh có có những ai?
- Thỏ bố đang làm gì?
- Thỏ mẹ và thỏ con đang làm gì?
- Thỏ con xin phép đi học, Thỏ mẹ có đồng ý không?


- Thỏ mẹ nhắc thỏ con những gì?
+ Tranh 2: Thỏ con và chó con đi học
- Bức tranh có những ai?
- Chó con và Thỏ con đang làm gì?
- Ai đốn được chó con đã nói gì với thỏ con?
- Thỏ con trả lời như thế nào?
- Dưới lòng đường có ai đang tham gia giao thơng?
- Chó con chơi bóng trên lề đường, ai đốn được quả bóng sẽ lăn đi đâu? Và chuyện gì
xảy ra?
* Trẻ chậm:
- Bức tranh có những ai?
- Chó con và Thỏ con đang đi đâu?
- Chó con rủ Thỏ con làm gì?
- Thỏ con có đồng ý chơi bóng trên đường khơng?
- Khi Chó con chưa bóng, quả bóng đã lăn đi đâu?
- Bóng lăn ra đường, thì chó con làm gì?
+ Tranh 3: Chó con bị xe đạp của bác Gấu quyệt phải nên ngã ra đường
- Bức tranh có những ai?
- Khi Chó con chạy theo để bắt bóng, thì chuyện gì đã xảy ra? Chó con bị làm sao?
- Vì sao mọi người lại xúm quanh Chó con?
* Trẻ chậm:
- Chó con chạỵ theo bóng thì bị va vào xe ai?
- Khi bị va vào xe thì Chó con bị gì?

- Mọi người xúm quanh chó con để làm gì?
+ Tranh 4: Thỏ con, chó con xin lỗi bác Gấu
- Khi Chó con bị ngã, Bác Gấu đã làm gì?
- Chó con và Thỏ con làm gì khi sự việc xảy ra? Hai bạn nói như thế nào?
- Bác gấu đã dặn dị điều gì với chó con?
- Sau đó, 2 bạn tiếp tục đi đâu?
* Trẻ chậm:
- Bác Gấu đã làm gì với chó con?
- Chó con và Thỏ con có xin lỗi Bác gấu khơng?
- Chó con xin lỗi như thế nào?
- Bác Gấu nói gì với chó con?
+ Tranh 5: Thỏ con cùng các bạn học bài
- Buổi học ngày hơm đó cơ giáo dạy bài gì?
- Cơ giáo hỏi các bạn câu hỏi gì?
- Ai đã giơ tay trả lời? Và trả lời như thế nào?
* Trẻ chậm:
- Đến lớp, cơ giáo dạy Chó con điều gì?
- Cơ giáo hỏi các bạn câu gì?
- Thỏ con trả lời như thế nào?
- Cô kể ngắn gọn một câu chuyện mẫu cho trẻ nghe dựa trên các bức tranh đó
* Trẻ kể chuyện theo tranh


- Cô mời trẻ xung phong, cho trẻ kể câu chuyện dựa trên các bức tranh theo ý hiểu của trẻ. Cơ
giúp đỡ trẻ kể câu chuyện hồn chỉnh có nội dung và kể logic.
+ Qua câu chuyện, các con vừa kể, con rút ra được bài học gì?
+ Khi tham gia giao thơng thì con phải làm sao?
- Cơ khái quát và giáo dục trẻ
+ Bạn nào có thể đặt tên cho câu chuyện vừa kể là gì?
- Nguyên tắc dạy học đảm bảo tính hệ thống và liên tục:

Hoạt động dạy học tồn tại với tư cách là một hệ thống, trong đó nội dung dạy học là một
hệ thống tri thức, KN, KX mà người học cần phải nắm vững nhằm đảm bảo phát triển toàn diện
nhân cách. Mặt khác sự lĩnh hội kiến thức là một q trình liên tục đào sâu, mở động, chính xác
hóa, hệ thống hóa và củng cố những khái niệm, qui luật, những quan điểm lý thuyết… Do đó
việc dạy học đảm bảo tính hệ thống, liên tục mới giúp người học nắm vững chắc tri thức,
KN,KX. Đặc điểm nhận thức của trẻ em lứa tuổi mầm non chủ yếu là nhận thức cảm tính, tư
duy của trẻ em cịn mang tính hỗn độn, tính đứt đoạn, rời rạc của những tri thức. Trẻ em không
biết thống nhất những kết quả riêng biệt của hành động tư duy thành một sản phẩm hồn chỉnh.
Do vậy, việc hệ thống hóa tri thức giúp trẻ phân tích các hiện thực xung quanh và làm cơ sở cho
những hoạt động tư duy phức tạp hơn.
Ngun tắc này địi hỏi chương trình, nội dung dạy học và cả việc tổ chức dạy học trong
thực tiễn phải đảm bảo một trình tự hợp lý logic và liên tục: những kiến thức mới phải dựa trên
những kiến thức mà trẻ đã học, kiến thức đã học làm cơ sở cho trẻ tiếp thu những kiến thức
mới. Các tài liệu sau có mối liên hệ với các tài liệu học từ trước; tri thức được hệ thống hóa trên
cơ sơ các mối liên hệ cơ bản giữa các sự vật, hiện tượng trong một lĩnh vực tri thức nhất định.
Các giờ học theo mức độ từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp…Chẳng hạn, trên cơ sở tích
lũy dần kiến thức về các hiện tượng xung quanh mới đi đến những biểu tượng, khái niệm khái
quát về các mùa trong năm. Cũng như vậy, biểu tượng khái quát về ý nghĩa xã hội của lao động
cũng phải dựa trên một hệ thống các sự kiện: những hình thức lao động của người lớn cần gần
gũi và dễ hiểu với các em(lao động của cô cấp dưỡng, của bác công nhân, của cô giáo,…).
Để đảm bảo nguyên tắc này, cần chú ý các yêu cầu sau:
+ Khi xây dựng kế hoạch, chương trình các chủ đề, bài học cần đảm bảo tính hệ thống
của tri thức: phải cung cho trẻ tri thức từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, từ dễ đến khó,
từ cụ thể đến trừu tượng, đảm bảo mối quan hệ kế thừa giữa việc lĩnh hội tri thức mới với tri
thức cũ, giữa các biểu tượng mới với những biểu tượng cũ mà trẻ đã có.
+ Trong giờ học phải trình bày tri thức một cách logic, mạch lạc, dễ hiểu, phù hợp với
trình độ của trẻ. Ở mỗi giai đoạn dạy học giáo viên cần xác định rõ nội dung kiến thức, KN, KX
nhất định, biết liên kết các giờ học trước và các môn học khác.
+ Sau mỗi phần phải có hệ thống hóa các kiên thức: dựa trên cơ sở các mối liên hệ cơ bản
giữa các sự vật, hiện tượng trong mỗi lĩnh vực nhất định( Ví dụ trên cơ sở kiến thức về lao động

của mọi người xung quanh, hình thành biểu tượng khái quát về ý nghĩa xã hội của lao động,…)
+ Việc luyện tập, hình thành kỹ năng, kỹ xảo phải có hệ thống, từ dễ đến khó, từ đơn giản
đến phức tạp
- Nguyên tắc dạy học đảm bảo tính trực quan:
Trong lịch sử giáo dục, việc dạy học trực quan đã được quan tâm. J.A.Cômenxki – nhà
Giáo dục người Sec vĩ đại là người đầu tiên đưa ra yêu cầu phải đảm bảo tính trực quan trong
dạy học, ơng gọi đó là “ qui tắc vàng ngọc” với nội dung là trong quá trình dạy học, cần tận


dụng mọi giác quan của học sinh để chúng có thể trực tiếp cảm giác, tri giác những thứ cần thiết
trong phạm vi có thể, theo ơng cách dạy này sẽ giúp cho học sinh dễ dàng nắm tri thức: “…Cần
gắng sức dạy làm sao cho con người dành lấy kiến thức không phải từ sách vở, mà từ bẩu trời
và trái đất, những cây sồi và cây dẻ, nghĩa là làm cho họ biểu biết và nghiên cứu nản thân các
vật chứ không phải chỉ những quan sát và bằng chứng xa lạ về các vật…”. Ông cho rằng kiến
thức càng dựa vào cảm giác thì nó càng xác thực. Nghiên cứu sự vật không phải chỉ dựa vào cái
mà người ta quan sát, chứng minh, mà phải căn cứ vào những cái chính mắt mình nhìn, chính
tai mình nghe, chính mũi mình ngửi, chính lưỡi mình nếm, chính tay mình sờ…
Nhà giáo dục Nga vĩ đại K.D.Usinxki ngay từ thế kỉ XIX cũng cho rằng việc dạy học dựa
trên những hình ảnh cụ thể do học sinh trực tiếp tri giác được:
những hình ảnh này hoặc do học sinh tri giác ngay khi học dưới sự hướng dẫn của giáo viên
hoặc do các em độc lập quan sát trước đó…Tiến trình dạy học đi từ cụ thể đến trừu tượng là tiến
trình hợp tự nhiên và dựa vào những qui luật tâm lí xác định).
Nguyên tắc này xất phát từ bản chất của hoạt động dạy học mầm non là hoạt động nhận
thức của trẻ diễn ra trong những điều kiện sư phạm đặc thù. Từ đó nhận thức của trẻ về cơ bản
diễn ra theo qui luật nhận thức chung của loài người: “ Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn…”. Tuy nhiên, đối với trẻ mầm non nhận thức chủ
yếu là từ nhận twhsc cảm tính( cảm giác, tri giác) rồi đến nhận thức lý tính( tư duy). Tư duy của
trẻ mang tính trực quan hành động và trực quan hình tượng, Do đó dạy học đảm bảo tính trực
quan là đặc biệt quan trọng.
Nguyên tắc này địi hỏi trong q trình dạy học mầm non, phải đảm bảo cho trẻ được tiếp

xúc trực tiếp với các sự vật, hiện tượng hay hình ảnh của chúng để hình thành biểu tượng về các
sự vật hiện tượng đó. Từ đó làm cơ sở để giúp trẻ nhận thức cái trừu tượng, cái khái quát.
Để đảm bảo nguyên tắc này, cần chú ý các yêu cầu sau:
+ Sử dụng phối hợp nhiều phương tiện trực quan khác nhau( quan sát các sinh vật, xem
xét các sự vật, tranh ảnh, hình mẫu, vận dụng các phương tiện dạy học mới: máy ghi âm, ghi
hình, máy chiếu,…, sử dụng các sơ đồ, mơ hình. Tùy mục đích, nội dung bài học mà sử dụng
phù hợp.
+ Kết hợp việc trình bày các phương tiện trực quan với lời nói sinh động, giàu hình ảnh
của cơ giáo để giúp trẻ hình thành biểu tượng, qua đó hình thành khái niệm khái qt.
_ Rèn luyện cho trẻ năng lực quan sát, năng lực tư duy qua việc sử dụng các phương tiện
trực quan.
+ Sử dụng phối hợp các hình thức tổ chức dạy học để giúp trẻ tích lũy được nhiều hình
ảnh trực quan và biểu tượng.
- Nguyên tắc dạy học phát huy tính tích cực, độc lập của trẻ:
Mục đích giáo dục mầm non là hình thành và phát triển tồn diện nhân cách trẻ, giáo dục
trẻ trở thành những công dân tự chủ, linh hoạt, năng động sáng tạo sau này. Bản chất của hoạt
động dạy học mầm non là hoạt động nhận thức tích cực của trẻ dưới sự hướng dẫn của cô giáo,
do vậy cần đảm bảo mối quan hệ thống nhất biện chứng giữa hoạt động dạy của giáo viên và
hoạt động học tập tích cực của trẻ.
Nguyên tắt này địi hỏi trong việc dạy học, cơ giáo phải đảm bảo tạo mọi điều kiện cơ
hội cho trẻ thực sự có nhu cầu, động cơ, hứng thú, ham thích, hăng say học tập, thực hiện hoạt
động tích cực dưới sự tổ chức hướng dẫn của cô giáo để hoàn thành các nhiệm vụ học tập.
Để đảm bảo nguyên tắc này, cần chú ý các yêu cầu sau:


+- Giáo viên phải nắm vững đặc điểm nhận thức của trẻ, chú ý đặc biệt đến động cơ, nhu
cầu, hứng thú, mức độ phát triển chú ý có chủ định của trẻ ở mỗi lứa tuổi khác nhau.
+ GV phải nắm được vốn kinh nghiệm đã có của trẻ liên quan đến nội dung giờ học để
giúp trẻ phát huy và tích cực vận dụng chúng trong giờ học cụ thể.
+ Giao cho trẻ giải quyết các nhiệm vụ trí tuệ thơng qua tổ chức hoạt động. Ở đây cụ thể

dùng thủ thuật trò chơi nhằm gây hứng thú, từ đó gây được tính tích cực cho trẻ trong quá trình
dạy học.
+ Kết hợp dẫn dắt trẻ nhận thức bằng cách cho trẻ lặp lại thứ tự từng hoạt động để đi
đến giải quyết một nhiệm vụ nào đó hoặc giao cho trẻ toàn bộ nhiệm vụ, giáo viên hướng dẫn,
gợi ý, khuyến khích trẻ sử dụng nhiều phương thức hành động khác nhau để thực hiện nhiệm
vụ, tạo điều kiện cho trẻ tự do hành động theo cách suy nghĩ của mình. Cách thức này thúc đẩy
tính tích cực hoạt động trí tuệ và tính độc lập của trẻ.
+ Trong q trình hướng dẫn trẻ hoạt động có thể dùng các phương pháp dạy học biện
pháp dạy học khác nhau như trao đổi, đặt câu hỏi hay so sánh để giúp trẻ tìm ra các thuộc tính
của sự vật và hiện tượng, tìm ra mối liên hệ giữa chúng.
+ Đưa trẻ vào các hoạt động tìm tịi đơn giản và đề ra cho trẻ những nhiệm vụ nhận thức
vừa sức, giúp trẻ vận dụng tri thức vào các hoạt động tích cực.
+ Mỗi ngun tắc dạy học có vai trò, chức năng riêng, nhưng tất cả các nguyên tắc dạy
học có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động và hỗ trợ nhau trong một hệ thống. Mỗi loại bài
học, mỗi giai đoạn, thời điểm nào đó của q trình dạy học có thể chịu ảnh hưởng của một hay
nhiều nguyên tắc dạy học nào đó là chủ đạo, nhưng tất cả các nguyên tắc đều xâm nhập, chứa
đựng trong nhau, tác động tương hỗ với nhau. Người giáo viên mầm non cần quán triệt tất cả
các nguyên tắc trên trong hoạt động dạy học ở trường mầm non đồng thời vận dụng một cách
linh hoạt và sáng tạo tùy vào từng bài học cụ thể và đối tượng trẻ cụ thể.
Câu 4: Nhóm phương pháp dùng lời
Nhóm PPDH dùng lời là những PP dùng lời nói sinh động cũa giáo viên để truyền thụ
cho trẻ em những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, phát triển nhân lực nhân thức và khả năng hoạt động
trí tuệ của trẻ em
- PP dùng lời đảm bảo cho việc mở rộng một cách đáng kể những tri thức về hiện thực
xung quanh, giúp cho việc hình thành các năng lực nhận thức gián tiếp và phát triển các quá
trình nhận thức ở mức độ khái quát và trừu tượng hơn.
- PP này củng góp phần hình thành ở trẻ hứng thú tích cực, giáo dục thái độ tình cảm
của trẻ đối với tiếng mẹ đẻ
- PP này được sử dụng khi giản tri thức mới nhằm giúp trẻ lĩnh hội những tri thức đó.
Muốn vậy phải trình bày, giải thích, phân tích, làm sáng tỏ những vấn đề khó phức tạp…, hay

sử dung để hệ thống hóa , khái hóa những nội dung tri thức mà trẻ đã lĩnh hội được trong quá
trình dạy học .
- Ở trường mầm non, nếu sử dụng phương pháp dung lời một cách độc lập thì khơng
thích hợp, kém hiệu quả, nên PP này thường được kết hợp với các PP khác, nhất là PP dạy học
trực quan.
b. Các PP cụ thể
* Phương pháp giảng giải
- Là cách thức giáo viên dùng lời nói kèm theo luận cứ, số liệu để giải thích, chứng
minh 1 vấn đề hay tinh chất, đặc điểm nào đó sự vật hiện tượng nhằm giúp trẻ nhận thức đúng


đắn, nhanh chóng, chinh xác về sự vật hiện tương ấy. Giảng giải có chứa đựng các yếu tố phán
đốn, suy lý nên có nhiều khả năng phát triển khả năng chú ý nghe, quan sát tư duy logic của trẻ
- Yêu cầu khi sử dụng phương pháp giảng giải
+ Lời giải thích của giáo viên phải ngắn gọn,dễ hiểu,chính xác, rõ ràng và có sức
truyền cảm.
+ Giảng giải phải kết hợp với hình ảnh cụ thể (trực quan) để trẻ dễ dàng tiếp thu được
tri thức.
* Phương pháp kể chuyện
- Là PP dùng các câu chuyện kể sinh động hấp dẫn để hình thành kiến thức cho trẻ.
Trong lời kể, tri thức được truyền thụ cho trẻ dưới hình thức hình ảnh và bằng lời kể có thể
truyền thụ cho trẻ những tri thức khác nhau, những tri thức cụ thể, riêng biệt phản ánh các hiện
tượng đơn nhất cũng như những tri thức chung,phản ánh những mối liên hệ và quan hệ hiện
thực.
- Dùng phương pháp này dễ gây được hứng thú ý của trẻ trong giờ học. Với lời kể sinh
động, khơng chỉ có ý nghỉa phát triển trí tuệ mà cịn có tác dụng mạnh mẽ đến việc giáo dục đạo
đức, thẩm mỹ cho trẻ, phát triển ngôn ngữ mạnh lạc cho trẻ.
- Cách thức thực hiện cụ thể:
+ Chuẩn bị kiến thức, tích lũy vốn kinh nghiệm giúp trẻ dễ dàng lĩnh hội nội dung câu
chuyện kể của giáo viên. Giáo viên có thể tổ chức cho trẻ quan sát, xem tranh ảnh, trò chuyện

với trẻ, giải thích cho trẻ các hình tượng văn học, ngơn ngữ và hình vẽ…Việc chuẩn bị này có
thể diễn ra trước giờ học sử dụng phương pháp kể chuyện (1 buổi, 1 tuần, 1 tháng hoặc cả giai
đoạn…)
+ Giáo viên kể chuyện cho trẻ nghe, giúp trẻ lỉnh hội đươc câu chuyện kể. Để thực hiện
nhiệm vụ này, GV có thể sử dụng nhiều biện pháp như sử dụng tranh ảnh, phương tiện trực
quan minh họa, giải thích, đánh giá, trò chuyện với trẻ về nội dung câu chuyện …
+ Cho trẻ kể lại: GV có thể cho trẻ kẻ lại câu chuyện của giáo viên hoạt kể lại theo
tranh, kể về các đồ vật, hiện tương đã quan sát (kể về đồ chơi, kể về đường phố, kể về ngày sinh
nhật…) tùy thuộc vào nhiệm vụ dạy học cụ thể của giờ học. GV kết hợp dùng hệ thống câu hỏi,
tranh ảnh, gợi ý, chỉ dẫn cụ thể.
- Yêu cầu khi sử dụng PP kể chuyện:
+ Lựa chọn câu chuyện kể có nội dung rõ ràng, súc tích, vừa sức, phù hợp với nhận thức
của trẻ em theo lứa tuổi. Các câu chuyện dùng để kể cho trẻ không nên quá dài, cần phải lưu ý
tới đặc điểm về trí nhớ và sự chú ý của trẻ…
+ Lời kể hay chuyện kể phải có bố cục ẽo ràng, súc tích, hấp dẫn, mang tính nghệ thuật
cao và chứa đựng những thông tin mới, các sự kiện trong chuyện diễn ra theo một trình tự nhất
định, từ ngữ, kết cấu ngữ pháp dễ hiểu để sau khi nghe trẻ có thể kể lại và thể hiện được thái độ
của mình (Các câu chuyện như: “Chó vàng”, “Thỏ con khơng vâng lời”, Chú dê đen”, “Ba cơ
gái”, “Tích Chu”…)
+ Cơ giáo phải nắm vững nội dung câu chuyện và dùng nghệ thuật khéo léo (giọng kể,
ngôn ngữ kết hợp nét mặt, cử chỉ, điệu bộ, phương tiện trực quan…) của mình để giúp trẻ nắm
sâu sắc nội dung câu chuyện và trẻ có thể bắt chước.
+ Yêu cầu đối với việc trẻ kể lại: hiểu đầy đủ câu chuyện, các chi tiết phải được kể theo
một trình tự loogic nhất định, yêu cầu cao đối với ngôn ngữ của trẻ khi trẻ kể lại: nói trọn câu,
phát âm đúng, diễn cảm và mạch lạc…


* Phương pháp đàm thoại (trao đổi)
- Là PP giáo viên đặt ra những câu hỏi đã được lựa chọn kích thích hoạt động nhận thức
theo hướng cần thiết, khích lệ và gợi ý trẻ dựa vào tri thức đã biết, đã quan sát để trả lời câu

hỏi của giáo viên.
- Phương pháp này được sử dụng nhiều trong dạy học mầm non vì nó phát huy được tính
tích cực của trẻ trong giờ học, làm cho giờ học sinh động, khơng khí lớp học sơi nổi. Qua trao
đổi, gợi ý của giáo viên trẻ nắm được tri thức mới, củng cố, mở rộng, hệ thống hóa tri thức cũ,
phát triển ngôn ngữ và tư duy cho trẻ. PP này cũng giúp cho giáo viên có điều kiện nắm được
đặc điểm của từng trẻ để có biện pháp dạy học phù hợp.
- Cách thức thực hiện cụ thể: GV có thể xây dựng đàm thoại theo 2 cách:
+ Đàm thoại qui nạp:
* Sử dụng các câu hỏi và tranh ảnh, mơ hình… giúp trẻ tái hiện lại các đặc điểm, tính
chất của các đối tượng cụ thể.
* Sử dụng câu hỏi, tranh ảnh, mơ hình…. dẫn dắt trẻ so sánh, tìm ra đặc điểm, tính chất
chung và mối liên hệ giữa các đối tượng cụ thể. Từ đó tìm những tính chất, đặc điểm chung của
nhóm, loại, dạng.
* Sử dụng câu hỏi gợi ý trẻ tự đặt tên chung cho nhóm hoặc thơng báo cho trẻ lĩnh hội ên
gọi khái quát.
+ Đàm thoại suy diễn:
* Từ tên gọi chung, sử dụng câu hỏi giúp trẻ tìm ra dấu hiệu cơ bản của nhóm, loại,
dạng…
* Sử dụng câu hỏi giúp trẻ tìm ra những đặc điểm, tính chất của các đối tượng cụ thể…
- Yêu cầu khi sử dụng PP đàm thoại
Đối với giáo viên
+ Xây dựng và sắp xếp các câu hỏi theo một hệ thống phức tạp dần phù hợp với mục đích
u cầu của bài học… VD: Có loại câu hỏi khiến trẻ có thể mơ tả hình dạng, hành động về một
nhân vật. Dựa trên sự mô tả hành động, tình tiết, sự kiện, cơ giáo có thể đưa ra câu hỏi đòi hỏi
trẻ nhớ lại chi tiết, hành động, sự kiện và lí giải, giải thích: “Tại sao con lại nghĩ rằng chàng trai
này rất trẻ và dũng cảm?”
+ Trả lời to, rõ ràng, ngắn gọn. Trả lời thành câu hỏi trọn vẹn
+ Trả lời một cách độc lập, tự nhiên, không rụt rè.
+ Cả lớp chú ý lắng nghe, trật tự giơ tay, cô gọi mới đứng lên trả lời.
+ Dạy trẻ cách đặt câu hỏi cho cơ giáo và các bạn.

Tóm lại: PPDH dùng lời có tác dụng hướng cho tri giác trực tiếp của trẻ sang tỏ hơn, tập
trung hơn. Các PP dùng lời cho phép phát triển ở trẻ kỹ năng hiểu được tài liệu học tập được
trình bày dưới dạng lời lẽ. Tuy nhiên ở trẻ mẫu giáo khả năng hiểu được qua lời lẽ cịn hạn chế
nên cơ giáo cần sử dụng PP này gắn liền với tài liệu trực quan. Từng bước một, cô giáo cần làm
cho khối lượng tài liệu trực quan giảm bớt và tiến tới chổ trẻ có thể nắm được nội dung phức
tạp chỉ dựa trên cơ sở các PP dùng lời. Đó là bước phát triển cao của trẻ cuối tuổi mẫu giáo.
Câu 5: Nhóm phương pháp trực quan
a. Khái niệm
- Là nhóm phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan trong dạy học để giúp trẻ
trực tiếp quan sát tài liệu mới, trên cơ sở đó hình thành những biểu tượng, khái niệm, phát triển
các thao tác tư duy và năng lực hoạt động trí tuệ cho trẻ.


- Phương tiện trực quan là những đối tượng, hiện tượng hiện thực (vật thật) hoặc là những
vật mô tả chúng (sơ dồ, biểu đồ, đồ thị, tranh ảnh, mô hình, phim học tập,…)
b. Đánh giá PP trực quan
- Các PP dạy học trực quan được sử dụng phổ biến trong dạy học mầm non. Trước hết nó
phù hợp với đặc điểm nhận thức và tư duy của trẻ (nhận thức cảm tính). Vì vậy, hoạt động nhận
thức của trẻ trong quá trình nắm vững tri thức và kỹ năng mới chủ yếu được tổ chức trên cơ sở
trình bày trực quan những đối trượng và hiện tượng thích hợp. Việc trẻ trực tiếp quan sát các
đối tượng là vật thật giúp trẻ hình thành những biểu tượng chính xác về các sự vật hiện tượng
trong thế giới khách quan. Từ đó mà phát triển tư duy trừu tượng.
Ví dụ, dạy trẻ các loại trái cây quả cam., quả xoài, đu đủ trẻ nhìn tổng quát ba quả và thấy
quả cam trịn, quả xồi khơng trịn, phần đi hơi dẹt và quả đu đủ thì dài. Tiếp tục cho trẻ sờ,
nắm, trẻ biết quả cam có vỏ dày, sần sùi, quả xồi có võ mỏng và nhẵn, quả đu đủ có vỏ nhẵn
nhưng dày hơn quả xồi. Khi cho trẻ nếm thử thì trẻ nhận ra cả ba loại quả đều có vị ngọt những
mỗi quả có mùi vị khác nhau, trẻ cịn nhận ra quả xồi có hạt to, cam có hạt nhỏ màu trắng, đu
đủ có hạt nhỏ màu đen. Sau khi đã tiếp xúc khá đầy đủ và lặp đi lặp lại khá nhiều lần, trẻ hình
thành trong đầu những biểu tượng riêng biệt về ba loại quả. Nhờ có biểu tượng chính xác về các
loại quả này mà khi chơi đố tìm về các loại quả, trẻ nhắm mắt lại, vẫn nhận biết từng loại quả.

- Trong quá trình dạy học sử dụng các phương tiện trực quan làm cho trẻ dễ hiểu, dễ
nhớ , dễ gây hứng thú, phát triển tính tị mị, ham hiểu biết của trẻ.
- Tuy nhiên nếu dụng PP này thì dễ làm trẻ phân tán chú ý, thiếu tập trung vào các dấu
hiệu cơ bản, chủ yếu, làm hạn chế sự phát triển năng lực tư duy của trẻ.
c. Các phương pháp cụ thể
* Phương pháp quan sát
- Là cách thức giáo viên tổ chức và hướng dẫn trẻ độc lập tri giác các sự vật hiện tượng
của thế giới xung quanh một cách có mục đích, có kế hoạch nhằm giúp trẻ nhận biết các sự vật
hiện tượng đó.
Ví dụ: Quan sát các sự vật hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội; quan sát mơ hình,
tranh ảnh, vật thí nghiệm, xem phim, đèn chiếu…
-Căn cứ vào nhiệm vụ nhận thức khi tổ chức cho trẻ quan sát, người ta chia quan sát
thành 3 loại:
+ Quan sát tìm hiểu, nhận biết các sự vật hiện tượng: Đây là loại quan sát được tổ chức
nhằm hình thành các biểu tượng ban đầu về đồ vật, hiện tượng xung quanh, về tính chất, đặc
điểm và mối quan hệ bên ngồi giữa chúng. Đối với loại quan sát này, trẻ sử dụng tất cả các
giác quan để tìm hiểu nhận biết các sự vật và hiện tượng, sử dụng rộng rãi ở tất cả các lớp trong
trường mẫu giáo, nhất là mẫu giáo bé và mẫu giáo nhỡ (3-5 tuổi).
Ví dụ: Tổ chức cho trẻ quan sát các con vật để trẻ nhận biết đó là con gì?... Hay tổ chức
cho trẻ quan sát các buổi trong ngày, các mùa trong năm để trẻ hình thành các biểu tượng về
thời gian…
+ Quan sát sự thay đổi, lớn lên và phát triển của sự vật hiện tượng: Loại quan sát này được tổ
chức nhằm hình thành ở trẻ các biểu tượng về quá trình vận động, các mối liên hệ, quan hệ của
các sự vật, hiện tượng xung quanh, đồng thời phát triển các thao tác tư duy phức tạp hơn ở trẻ
(so sánh, ghi nhớ, khái quát hóa,..) Từ đó giúp trẻ hiểu biết sơ đẳng về các quy luật tồn tại khách
quan của sự vật hiện tượng theo quan điểm khoa học, phù hợp với trình độ của trẻ. Loại quan
sát này đòi hỏi diễn ra trong một thời gian dài… Sử dụng chủ yếu ở mẫu giáo lớn.


Ví dụ: Trẻ quan sát q trình tang trưởng của cây đậu và nhận xét các đặc điểm biến đổi

của từng giai đoạn phát triển ở cây; Tổ chức cho trẻ quan sát những dấu hiệu khác nhau giữa
các buổi trong ngày, các ngày trong tuần lễ, các tháng, các mùa trong năm,…
+ Quan sát tái tạo: Đây là một loại quan sát dựa vào một vài tính chất, đặc điểm hay dấu
hiệu đặc trưng của một bộ phận nào đó để thiết lập trạng thái trọn vẹn của đối tượng quan sát.
Ví dụ: Dựa vào đặc điểm bộ phận tai để xác định đó là con gì? Hoặc dựa vào màu đất màu lá
cây để xác định cây thiếu nước hay đủ nước… Loại quan sát này giúp trẻ vận dụng các kiến
thức đã có để hình thành tính tích cực, sang tạo, phát triển trí nhớ, tưởng tượng, năng lực khái
quát hóa, hệ thống hóa…, được sử dụng chủ yếu ở mẫu giáo lớn.
* Phương pháp trình bày trực quan
- Là PP giáo viên trình bày nội dung bài học dựa trên các phương tiện trực quan khác
nhau tuỳ mục đích, yêu cầu, nội dung bài học. PP này thường được thể hiện dưới hai hình thức
là minh họa (bản mẫu, bản đồ, tranh ảnh, chân dung hình vẽ…) và trình bày (làm mẫu, thí
nghiệm, thiết bị kỹ thuật, chiếu phim đèn chiếu…)
Trong dạy học PP quan sát và PP trình bày trực quan ln được sử dụng phối hợp chặt
chẽ với nhau. Muốn quan sát phải có trình bày trực quan và trong quá trình trình bày trực quan
phải yêu cầu quan sát.
- Đối với hình thức trình bày mẫu , giáo viên trình bày cách thực hiện các động tác, thao
tác thực hành , qua đó giúp trẻ lĩnh hội kỹ năng thực hiện các hành động thực hành (vẽ, múa,
hát, nói diễn cảm, vận động…)
d. Những yêu cầu khi sử dụng PP trực quan
- Lựa chọn thận trọng các phương tiện trực quan cho phù hợp với mục đích, yêu cầu và
nội dung bài học, tránh tham lam trình bày nhiều phương tiện trực quan cùng một lúc. Lựa chọn
thời điểm, địa điểm quan sát thích hợp.
- Phương tiện trực quan phải đảm bảo yêu cầu về thẩm mỹ (đẹp, rõ ràng, chính xác),vệ
sinh, giáo dục và an toàn cho trẻ.
- Khi sử dụng đồ trực quan phải trình bày theo trình tự của bài, đưa ra đúng lúc, đúng
chỗ, để nơi thuận tiện đảm bảo cho tất cả trẻ trong lớp quan sát được rõ ràng, chính xác.
- Cần hướng dẫn trẻ quan sát các hệ thống và nhấn mạnh những dấu hiệu đặc trưng của
sự vật, hiện tượng, đồng thời huy động tham gia của nhiều giác quan để giúp trẻ hình thành biểu
tượng chính xác về sự vật, hiện tượng.

- Trong quá trình hướng dẫn trẻ quan sát, giáo viên cần kết hợp với PP dùng lời để giúp
trẻ dễ dàng nắm được tri thức.
Câu 6: Nhóm phương pháp thực hành
- Là nhóm PP giáo viên tổ chức cho trẻ trực tiếp tham gia vào hoạt động thực tiễn.
Thông qua hệ thống làm việc thực tiễn trẻ tiếp thu tri thức, phát hiện ra sự vận động, biến đổi
của thế giới khách quan, phát hiện ra những thuộc tính mới, những mối lien hệ của sự vật hiện
tượng mà con người không thể trực tiếp tri giác được.
- Các PPDH thực tiễn được áp dụng rộng rãi khi dạy trẻ trong nhiều lĩnh vực khác nhau,
có tác dụng giúp trẻ vận dụng các kiến thức đã lĩnh hội được vào các hoạt động thực tiễn, hình
thành KN, KX cho trẻ, phát triển tích cực, độc lập, sáng tạo, tạo hứng thú, say mê học tập cho
trẻ.
Khác với PP trực quan chỉ sử dụng các hoạt động tri giác, các PP thực tiễn tạo điều kiện
cho trẻ tham gia trực tiếp vào các hoạt động, biến đổi và tác động vào các sự vật hiện tượng, từ


đó mà nhận thực được tri thức mới. Như vậy,trẻ sẽ nhận thức sâu sắc hơn, độc lập hơn, phát huy
đượctính tích cực tư duy và rèn luyện được kỹ năng, kỹ xảo.
Chẳng hạn: Trong hoạt động xây dựng, khi lắp ghép các chi tiết thành một ngôi nhà, trẻ
mới nhận được độ vững chắc của ngôi nhà phụ thuộc vào cách sắp xếp những chi tiết; Khi tưới
cây, trẻ phát hiện trạng thái của cây phụ thuộc vào cách chăm sóc, lượng nước tưới…; Những
biểu tượng tốn học đầu tiên hình thành trên cơ sở trẻ hoạt động thực tiễn với các tập hợp (bằng
nhau, lớn, nhỏ, dài, ngắn…)
b. Các PP cụ thể
* Phương pháp làm thí nghiệm đơn giản
- Đây là PP giáo viên tổ chức cho trẻ tham gia trực tiếp vào làm các thí nghiệm đơn giản
nhằm biến đổi sự vậ, hiện tượng, qua đó trẻ nhận thức được tri thức mới, hiểu được mối quan
hệ qua lại giữa các sư vật hiện tượng.
- PP này được sử dụng nhằm mục đích giúp trẻ lĩnh hội những đặc điểm, mối lien hệ giữa
đồ vật hiện tượng với những điều kiện khác, giúp trẻ hình thành, phát triển kỹ năng quan sát, tư
duy, tính mục đích của q trình nhận thức, hứng thú tích cực, sáng tạo nhận thức, giáo dục thái

độ với hiện tương xung quanh.
Chẳng hạn: Đặt gương trong một chậu nước để tạo ra phổ cầu vồng; cho các thanh nam
châm tác dụng với nhau để làm xuất hiện lực hút, lực đẩy; gió thổi làm quay chong chóng, gieo
hạt cho nảy mầm, mọc rễ,…
- Cách thức sử dụng:
+ Đặt ra nhiệm vụ làm thí nghiệm: bằng cách GV nêu vấn đề, khơi gợi trẻ nêu vấn đề,
thắc mắc…
+ Phân tích, tìm hiểu những điều chưa biết, đưa ra giả thuyết để tiến hành thí nghiệm:
GV đàm thoại với trẻ để tìm ra vấn đề chưa biết, nêu giả định, cách thức tổ chức thí nghiệm, trẻ
tham gia vào cách tổ chức tình huống thí nghiệm, thơng báo của GV.
+ Tiến hành thí nghiệm: GV cùng trẻ tiến hành thí nghiệm, tạo điều kiện cho trẻ quan sát,
GV nêu câu hỏi giúp trẻ tìm ra sự thay đổi,…
+ Kết thúc thí nghiệm: GV nêu câu hỏi gợi nhớ dụng cụ, vấn đề thi nghiệm, điều kiện tác
động, cách thức tác động, giúp trẻ phân tích, so sánh kết quả thu nhận với giả thuyết và rút ra
kết luận về kết quả thí nghiệm.
- Yêu cầu:
+ Thí nghiệm phải phù hợp với trẻ, với vốn kinh nghiệm và nhu cầu hoạt động của trẻ
em.
+ Khi tiến hành thí nghiệm, trẻ phải ý thức được nhiệm vụ, cách thức thí nghiệm…
+ Khơng được để cho vật thí nghiệm bị chết hay hỏng
+ PP này được sử dụng chủ yếu từ lớp nhỡ và lớn, phải kết hợp với PP khác
Nhìn chung PP này ít được sử dụng
* PP luyện tập
- Là PP dạy học dưới sự chỉ dẫn của GV, trẻ lặp đi lặp lại nhiều lần những hành động,
thao tác nhất định trong những hoàn cảnh khác nhau nhằm hình thành và phát triển kỹ năng kỹ
xảo. Trên cơ sở đó rèn luyện tính độc lập cho trẻ.
- Các loại bài luyện tập:
+ Dựa vào mức độ tích cực sáng tạo của trẻ chia thành: BT bắt chước; BT sáng tạo; BT
tái tạo.



+ Dựa vào nội dung BT, chia thành: BT đơn nội dung, BT đa nội dung.
+ Dựa vào các hành động, chia thành: BT hành động với đồ vật; BT khái quát, BT lời nói
- Cách thức thực hiện PP luyện tập:
+ Sử dụng câu hỏi, làm mẫu, phương tiện trực quan hay chỉ dẫn bằng lời để giúp trẻ tái
hiện lại các tri thức đã lĩnh hội được qua quan sát hay qua các giời học…
+ Tổ chức cho trẻ tự luyện tập bằng hệ thống BT từ dễ đến khó, từ tái tạo đến sáng tạo…
GV giảng, chỉ dẫn cách thực hiện, sửa chữa, uốn nắng sai sót…
Trong PP luyện tập, trẻ phải hoàn thành một nhiệm vụ thực tiễn nào đó: Xây một ngơi
nhà, xếp cái ơ tơ, gấp máy bay,xếp hình chữ nhật …có hai cách giao nhiệm vụ cho trẻ:
* Cách thứ nhất là giao nhiệm vụ theo “mẫu có sẵn” (cần làm gì và làm như thế nào).
* Cách thứ hai là giao nhiệm vụ theo “điều kiện” (giới thiệu những điều kiện để thực
hiện nhiệm vụ). Cách thứ hai có tác dụng kích thích hoạt động tư duy và tính độc lập của trẻ
+ Củng cố, khái quát bằng lời các khái niệm đã luyện tập.
- Yêu cầu sử dụng PP luyện tập:
+ Cô giáo phải cho trẻ tri giác đầu đủ nội dung tri thức, kỹ năng, kỹ xảo trước khi luyện
tập: giúp trẻ nắm vững kiến thức, lý thuyết trước khi luyện tập, các yêu cầu, thao tác quy trình
luyện tập…(trước khi thực hiện nhiệm vụ theo mẫu có sẵn, trẻ phải tri giác và phân tích vật mẫu
rồi mới tái hiện lại…)
+ Cần đưa ra những nhiệm vụ cụ thể cho trẻ,: làm cái gì?, đồng thời tắng dần tính phức
tạp của nhiệm vụ thực tiễn. Tính phức tạp thể hiện trong các yêu cầu về kỹ năng đối với trẻ
ngày càng tăng lên, trong việc quan sát vật mẫu, trong các nhiệm vụ thực hiện theo điều kiện đã
cho ngày càng nhiều hơn
Bước 1: Hướng dẫn chơi
- Cô giáo lựa chọn trò chơi phù hợp với nội dung chương trình, xác định chính xác nhiệm
vụ học tập thể hiện qua trị chơi.
- Cơ giáo giới thiệu trị chơi, phổ biến nội dung chơi và phổ biến luật chơi cho trẻ (nếu trị
chơi có hành động phức tạp, cơ vừa giải thích vừa làm mẫu).
Bước 2: Tổ chức và theo dõi quá trình chơi
- Gây chú ý và khiêu gợi hứng thú của trẻ được tham gia khi mở đầu trị chơi. GV có thể

dùng những thủ thuật khác nhau như: Đưa ra đồ chơi, lời lẽ ngắn gọn, rõ ràng, sinh động, cử chỉ
gần gủi ân cần với trẻ…
- Hướng dẫn cách chơi ngắn gọn, rõ ràng, sinh động để trẻ dễ hiểu và dễ nắm luật chơi.
GV có thể đề nghị một vài trẻ nhắc lại luật chơi.
- Theo dõi tiến trình chơi và tổ chức, tạo điều kiện cho các trẻ tham gia chơi một cách
tích cực, hứng thú, đúng luật chơi. Cô giáo cần sử dụng nhiều biện pháp khác nhau trong khi
hướng dẫn trò chơi để tác động đến trẻ trong khi chơi. Cô giáo có thể trực tiếp tham gia vào trị
chơi như một thành viên của thể trẻ, hoặc không trực tiếp tham gia vào trị chơi thì cơ giữ vai trì
như người đạo diễn, hướng dẫn sự phát triển của hành động chơi. Cơ theo dõi trẻ chơi có đúng
luật khơng, theo dõi thái độ trẻ đối với nhau, động viên trẻ, phát hiện các khó khan để dẫn dắt
trẻ đến kết quả.
Bước 3: Nhận xét sau khi chơi
- Cô giáo căn cứ vào luật chơi để đánh giá khả năng chơi của trẻ. Ngồi ra cơ cịn nhận
xét về thái độ của trẻ trong quá trình chơi.


- Tùy theo trẻ ở lứa tuổi nào mà lựa chọn hình thức nhận xét cho phù hợp. Cơ có thể gợi ý
để trẻ tự nhận xét mình và nhận xét bạn.
- Những yêu cầu khi sử dụng phương pháp
- Trò chơi phải đưa ra trong giờ học phải phù hợp với nội dung bài dạy, phục vụ cho mục
đích của bài dạy đó. Trị chơi phù hợp với khả năng, vốn hiểu biết , kinh nghiệm sống của trẻ.
- Khi tổ chức hướng dẫn trẻ chơi cần hướng dẫn rõ ràng, dễ hiểu, đảm bảo sự tự nguyện,
hứng thú, phát huy tính tích cực, tự lực, chủ động, sáng tạo của trẻ khi chơi.
Lựa chọn đồ dùng, đồ chơi thích hợp và hấp dẫn.
- GV phải quan sát, theo dõi và bao quát trẻ khi chơi để kịp thời giúp đỡ, động viên,
khuyến khích trẻ chơi.
- Phải sử dụng kết hợp các PPDH khác, khơng biến trị chơi thành giờ học.




×