Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Tài liệu LƯỚI ĐIỆN THÔNG MINH pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 114 trang )

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ LƯỚI ĐIỆN THÔNG MINH
1.1. ĐỊNH NGHĨA VỀ LƯỚI ĐIỆN THÔNG MINH
Trong vài năm qua, năng lượng điện tiêu thụ đã liên tục phát triển và,
đồng thời, đầu tư cơ sở hạ tầng T & D (kiểm tra và chẩn đoán) do đó bị suy sụp. Các
giải pháp truyền thống để nâng cấp cơ sở hạ tầng hệ thống điện đã chủ yếu được thực
hiện theo hình thức nhà máy điện mới, đường dây truyền tải mới, trạm biến áp, và
thiết bị liên quan. Tuy nhiên, như kinh nghiệm đã chứng minh, các quá trình cho
phép, định vị, và xây dựng đường dây truyền tải mới trở nên vô cùng khó khăn, tốn
kém và mất thời gian. Kết quả là, lưới điện là bị suy giảm, dẫn đến độ tin cậy bị giảm
và chi phí năng lượng cao hơn.
Bất chấp những vấn đề trên, độ tin cậy của hệ thống là quan trọng và không thể
bị ảnh hưởng. Để khắc phục vấn đề này, các nhà khai thác mạng lưới đã di chuyển từ
hệ thống hình tia tới mạng lưới. Tuy nhiên điều này làm giảm khả năng kiểm soát của
mạng vì dòng điện chạy dọc theo các đường dây cụ thể mà không dễ dàng được kiểm
soát. Tình hình thậm chí còn tồi tệ hơn nếu một sự cố như quá tải xảy ra, tăng khả
năng mất điện lưới. Thêm vào đó, việc tăng trưởng phụ tải nhanh chóng dẫn đến tắc
nghẽn trên các đường dây trọng điểm, do đó, dẫn đến các hoạt động không hiệu quả
của thị trường năng lượng.
Câu trả lời dường như nằm trong việc biến dòng EPS vào mạng năng lượng
điện thông minh (SEEN).Hệ thống lưới điện thông minh trong tương lai sẽ phát triển
mạnh mẽ hơn, đáng tin cậy hơn,linh hoạt hơn và có khă năng tự phục hồi, hoàn toàn
kiểm soát được, có khả năng sở hữu và sẽ là một nền tảng đẻ làm cho sự cùng tồn tại
của hệ thống lưới điện thông minh với một số lượng lớn của DGS và các nhà máy
điện quy mô lớn tập trung. Sự cần thiết phải sửa đổi, yêu cầu để loại bỏ các rào cản
đối với việc khai thác quy mô lớn và hội nhập của DGS và các vấn đề khác, sẽ đòi hỏi
phải nghiên cứu sáng tạo và phát triển công nghệ mới từ truyền tải và phân phối cho
các công cụ truyền thông, với số lượng cảm biến nhiều hơn so với hiện nay.
Vì vậy, dự kiến rằng các hệ thống FACTS, CUPS, ESS, DG thông minh cho
người dùng trực tiếp với các thiết bị thông tin liên lạc sẽ được đặt tại trung tâm của
các hệ thống lưới điện thông minh trong tương lai, xem hình 1.1.
Hệ thống lưới điện thông minh (SEEN ) sẽ cho phép các khách hàng có một vai


trò tích cực trong việc cung cấp điện, để có thể giúp hệ thống điện đáp ứng với sự cố
1
thiết bị hay các điều kiện thời tiết liên quan đến trường hợp khẩn cấp, và các điều kiện
khác.
Hiện nay, các nhà điều hành hệ thống phải duy trì đủ dư thừa công suất phát điện trực
tuyến hoặc nhanh chóng có sẵn để tiếp tục cung cấp hệ thống nạp nếu phát sinh một
đơn vị tiêu thụ lớn hoặc đường dây truyền tải bị sự cố.
Trong mạng lưới điện thông minh, phần lớn năng lượng dự trữ có thể được cung cấp
bởi các đơn vị EPS hoặc DG nhỏ, ESS nằm ở gần các vị trí của người sử dụng trực
tiếp.
Hình 1.1: Định nghĩa mạng năng lượng điện thông minh
Tóm lại, một lưới điện thông minh hiện đại sẽ tạo ra EPS là :
• Sẽ giảm các tải đỉnh và tạo ra các phần dự trữ;
• Sẽ loại trừ các chi phí cơ bản của cơ sở hạ tầng (kiểm tra và chẩn đoán) mới cũng
như tạo ra các nhà máy;
• Sẽ giảm tổn thất đường dây cùng với chi phí vận hành và bảo dưỡng;
• Sẽ chuyển hướng dòng năng lượng chảy, thay đổi mô hình tải, cải thiện bên dạng
điện áp và độ ổn định;
• Sẽ cho phép tải ESS và DG để tham gia vào hoạt động hệ thống;
• Thông qua giám sát rộng rãi, thông tin liên lạc nhanh chóng, và kiểm soát thông tin
phản hồi của các hoạt động, sẽ có nhiều thông tin hơn về các vấn đề phát sinh của hệ
2
thống trước khi chúng ảnh hưởng đến dịch vụ;
• Cung cấp các tiện ích hệ thống với các công cụ trực quan tiên tiến để nâng cao khả
năng giám sát hệ thống.
1.2. CÁC VẤN ĐỀ CHÁT LƯỢNG TRONG CÁC MẠNG ĐIỆN THÔNG MINH
1.2.1. Chất lượng điện và EMC
Một trong những khái niệm cơ bản liên quan đến sử dụng năng lượng điện là sự
tương thích điện từ (EMC) - giữa các thiết bị điện và môi trường của nó, hoặc giữa
thiết bị này và các thiết bị khác.Đó là, theo định nghĩa của Ủy ban kỹ thuật điện quốc

tế (IEC) : "khả năng của một thiết bị hoặc hệ thống hoạt động tốt trong môi trường
điện từ của nó mà không cần quan tâm đến các nhiễu điện từ phân bố tại bất cứ nơi
nào trong môi trường đó" .
Sự tương tác lẫn nhau giữa môi trường điện từ và tải có thể qua dây dẫn hoặc bức xạ. .
Hiện nay, không giống như trong quá khứ, các khái niệm về tính tương thích điện từ
không chỉ liên quan đến các vấn đề của truyền thông tin.
Nó cũng bao gồm các vấn đề của sự tương tác lẫn nhau giữa các thiết bị và các
hệ thống sử dụng hiện tượng điện từ năng lượng truyền tải và mục đích chuyển đổi,
cũng như tác động của thiết bị này và các hệ thống trong môi trường điện từ tự nhiên
và sinh quyển, do đó, nó bao gồm tất cả các trường hợp của mọi sự không tương thích
điện từ.
Điện là kết quả của một quá trình sản xuất và là một sản phẩm được thẩm định
và tiêu chuẩn hóa. Nó cũng là một vấn đề của kim ngạch thương mại thị trường, do đó
giá trị tiện ích của nó có phải là một sự đánh giá mô tả trong một thỏa thuận giữa các
bên trong giao dịch thương mại. Trong ý nghĩa thông qua bởi Hội đồng châu Âu điều
tiết năng lượng (CEER) chất lượng cung cấp điện bao gồm ba lĩnh vực chính, xem
hình 1.2:
3
Hình 1.2: Sự phân loại các vấn đề cung cấp năng lượng điện
Ở đó :
-, Quality of power delivery : Chất lượng của cung cấp năng lượng điện
-, Commercial quality : Đặc tính thương mại
-, Continuity of supply : Sự liên tục cung cấp
-, Voltage quality : Chất lượng điện áp
-, Frequency : Tần số
-, Level : Mức
-, Waveform shape : hình dạng sóng
-, Asymmetry : Sự không đối xứng
• Chất lượng thương mại được hiểu là chất lượng của các mối quan hệ thương mại
giữa các nhà cung cấp điện và khách hàng;

• Liên tục cung cấp thường được đo trong điều kiện của số lượng sự gián đoạn cung
cấp, khoảng thời gian của một sự gián đoạn, thời gian tích tụ của các gián đoạn cung
cấp điện trong một khoảng thời gian nhất định.
• Chất lượng điện áp đo lường trong điều kiện của sự khác biệt giữa dạng sóng thực tế
và dạng sóng điện áp và dòng ba pha sin cân bằng về giá trị danh định.
Phần lớn, các ngành công nghiệp chấp nhận định nghĩa của vấn đề chất lượng điện
như sau : "Chất lượng cung cấp năng lượng điện là một tập hợp các thông số trong đó
mô tả quá trình phân phối năng lượng điện tới người sử dụng trong điều kiện hoạt
động bình thường, xác định sự cung cấp liên tục (cung cấp gián đoạn ngắn hạn và dài)
4
và đặc trưng của các điện áp cung cấp (độ lớn, không đối xứng, tần số, và hình dạng
sóng) ".
1.2.2. Các vấn đề về chất lượng điện
a, Biên độ của các điện áp cung cấp
Lý do chính làm thay đổi giá trị hiệu dụng của điên áp trong mạng điện là sự
biến đổi của tải. Như hình 1.3, điện áp thay đổi trong mạng điện cung cấp vượt quá
giới hạn cho phép, có ảnh hưởng xấu đến tải và có thể dẫn tới hỏng hóc các thiết bị
hoặ trong trường hợp tồi tệ nhất có thể dẫn tới sự phá hủy chúng. Điện áp giảm làm
tăng tổn hao trong đường dây truyền tải , máy biến áp Trong khi việc tăng biên độ
điện áp sẽ làm tăng dòng từ hóa ở các máy biến áp và động cơ, làm giảm tuổi thọ hay
phá hủy cách điện và làm tăng sự tiêu tán năng lượng trong tải (quá nóng).
Hình 1.3 Ví dụ vê sự thay đổi theo tuần trong điện áp pha và dòng pha
b, Dao động điện áp
Điện áp biến động là một loạt các sự thay đổi giá trị hiệu dụng của điện áp hoặc
sự thay đổi đường bao điện áp, xem hình 1.4. Các nguồn chính của sự dao động điện
áp trong
mạng lưới điện là nhiễu của các tải công nghiệp năng lượng cao (hàn điện, ổ đĩa máy
cán, máy cẩu, lò hồ quang, vv) và hoạt động chuyển mạch trong hệ thống điện để làm
thay đổi cấu hình mạng hay gây ra bởi hệ thống điều chỉnh điện áp.
5

Hình 1.4 Ví dụ của sự dao động điện áp trong dạng sóng tức thời
c, Sự sụt áp và sự ngắt nguồn ngắn
Sự sụt áp là sự giảm đột ngột của điện áp tại một điểm cụ thể của một hệ thống
cung cấp điện dưới ngưỡng nhúng quy định (trong một khoảng thời gian không nhỏ
hơn 10 ms), tiếp theo là phục hồi của nó sau một khoảng thời gian ngắn. Thông
thường một sự sụt áp thường gắn với một sự cố hay hiện tượng ngắn mạch hay sự
tăng của dòng cực trên hệ thống hay tại điểm kết nối ban đầu của nó (ví dụ sự khởi
động của động cơ lớn). Một sự sụt điện áp như một sự nhiễu loạn điện từ 2 chiều,
mức độ của nó được xác định tại cả 2 điện áp (điện áp dư hoặc biên độ) và thời gian
(khoảng thời gian). Xem hình 1.5 và 1.6 có thể thấy rằng nguồn nhiễu là ở phía người
sử dụng như dưới đây từ bản chất của sự thay đổi dòng trong suốt sự nhiễu loạn này.
Hình 1.5: Sự sụt áp và đặc tính của nó
6
Hình 1.6: Ví dụ về sự sụt áp tại các cực của thiết bị
Sự ngắt nguồn ngắn là một sự giảm đột ngột của điện áp trên tất cả các pha tại
điểm cụ thể của một hệ thống điện cung cấp dưới một ngưỡng gián đoạn đặc trưng
theo sự phục hồi của nó sau một khoảng thời gian ngắn. Sự ngắt nguồn ngắn là một
trường hợp cụ thể của sự sụt điện áp. Sự gián đoạn ngắn thường đi cùng với hoạt động
chuyển mạch liên quan tới sự xuất hiện và chấm dứt hiện tượng ngắn mạch trên hệ
thống hoặc tại điểm kết nối khởi tạo với nó.
d, Sự méo dòng điện và điện áp
Các dạng sóng dòng điện và điện áp méo trở thành một điều kiện hoạt động
thông thường trong hệ thống điện ngày nay. Thông thường chấp nhận đo lường sự
méo bao gồm cả sóng hài điện áp và dòng điện (các thành phần mà tần số của nó là
bội của các tần số cơ bản). Các thông tin toàn diện nhất thu được từ các thiết lập, nó
xác định bậc, biên độ và pha của các sóng hài cụ thể. Các tài liệu chuẩn hóa chấp
nhận sự thay đổi của số lượng xác định trên thiết lập này. Chúng thì phần lớn là hệ số
sóng hài bậc n.Và toàn bộ điện áp hài méo được tính toán cụ thể lên sóng hài bậc 50.
Những yếu tố này là cơ sở để tiêu chuẩn hóa chất lượng điện.
Trong số các nguồn sóng hài xảy ra trong hệ thống điện, ba nhóm thiết bị có thể được

phân biệt :
• Thiết bị có lõi từ, ví dụ, máy biến áp, động cơ, máy phát điện,
• Lò hồ quang và các thiết bị khác, ví dụ, đèn phóng điện cao áp, hồ quang
• Điện tử và thiết bị điện điện tử.
7
1.2.3. Phân loại các nhiễu loạn điện từ
Nhiễu loạn điện áp có thể được chia thành hai nhóm :
• Biến đổi, tức là sự sai lệch nhỏ tử các giá trị danh nghĩa hoặc mong muốn , nó xảy
ra liên tục (sự thay đổi nhanh hoặc chậm trong biên độ điện áp, sự biến đổi,….)
Nguyên nhân chính là sự biến đổi của tải hệ thống hay tải phi tuyến. Kết quả làm điện
áp biến đổi từ hoạt động của hệ thống, và do đó giá trị của chỉ số mô tả các nhiễu loạn
này thì không thể khác biệt đáng kể so với mức danh định. Kể từ khi hệ thống điện
được thiết kế để hoạt động tối ưu dưới điều kiện thông thường và điện áp và dòng
hình sin, sự biến đổi điện áp được giảm đến mức tối thiểu. Hệ thống điều hành phải
có biện pháp để đạt được điều kiện này để dẫn đến quản lý hệ thống hiệu quả hơn.
• Các sự kiện, tức là sự lệch đáng kể và đột ngột từ dạng sóng mong muốn và
danh định. Sự biến đổi nhanh, sụt áp nhanh hay quá điện áp tức thời là các nhiễu điển
hình trong hệ thống và cùng với sự ngắt nguồn cung cấp, là các sự kiện điển hình nhất
của trường hợp này. Không giống như sự biến đổi điện áp – liên tục xuất hiện, còn
các sự kiện điện áp thì xảy ra ngẫu nhiên. Chúng được xác định bằng cách giám sát
liên tục bằng thiết bị ghi âm cung cấp một chức năng kích hoạt và nó được kích hoạt
khi số lượng ghi vượt quá giá trị ngưỡng. Những sự kiện điện áp mô tả "bệnh lý"
trong hoạt động mạng lưới cung cấp và có ý nghĩa rất lớn đối với thiết bị sử dụng.
Chúng có thể làm gián đoạn một quá trình sản xuất sử dụng điện, ngay cả khi một sự
gián đoạn nguồn cung cấp không xảy ra. Vì chúng có tính chất ngẫu nhiên nên chúng
được xử lý bằng cách sử dụng chủ yếu là các phương pháp thống kê.
Các nhiễu loạn, được đo lường trong các điều kiện của sự tác động kinh tế của chúng,
có sự khác biệt đáng kể, vì thế các sự xếp hạng dưới đây có thể được chấp nhận :
• Trong môi trường công nghiệp : sự sụt điện áp , sự ngắt nguồn cung cấp, biên độ
điện áp, sự không đối xứng, các sóng hài, độ biến đổi điện áp, sự biến đổi tần số.

• Đối với doanh nghiệp nhỏ và các dịch vụ : Gián đoạn nguồn cung cấp, biên độ
điện áp , sự sụt điện áp, không đối xứng, sóng hài, biến đổi điện áp, biến đổi tần
số.
8
• Trong môi trường dân cư : biên độ điện áp, độ biến đổi điện áp, sự ngắt nguồn
cung cấp, sự sụt áp, quá áp, sóng hài, không đối xứng, tần số biến đổi.
1.3. KIỂM TRA CHẤT LƯỢNG ĐIỆN NĂNG
1.3.1. Thủ tục đo
Hiện nay có 3 tài liệu tiêu chuẩn hóa cơ bản điều chỉnh sự đo lường các tham số
chất lượng điện. Với mỗi tham số đo lường, được phân thành 2 loại : A (viết tắt của
“Advanced” và B (viết tắt của “Basic”). Với mỗi loại thì phương pháp đo lường và
các yêu cầu thi hành sẽ khác nhau. Người dùng sẽ lựa chọn loại mà họ yêu cầu dựa
trên ứng dụng của họ.
Loại A được sử dụng mà các phép đo chính xác là cần thiết. Bất cứ sự đo lường của
một tham số được đưa ra với 2 dụng cụ khác nhau đồng thuận với các yêu cầu của lớp
A, khi đo lường cùng tín hiệu sẽ sinh ra kết quả phù hợp trong sự bất định của tham
số đó.
Loại B có thể được sử dụng để khảo sát chất lượng, xử lý các sự cố ứng dụng và các
ứng dụng khác, ở đó độ bất định thấp là không cần thiết. Chất lượng điện được đo
lường có thể được truy cập trực tiếp , như trường hợp thông thường trong hệ thống
điện áp thấp hay sự truy cập qua bộ chuyển đổi đo lường. Các chuỗi đo lường được
thể hiện như trong hình 1.6
Hình 1.7. Chuỗi đo lường
9
1.3.2. Sự tập hợp các kết quả đo lường qua các khoảng thời gian
Đối với loại A đo lường cơ bản khoảng thời gian cho tham số biên độ (về điện áp
cung cấp, sóng hài, và các sóng không đối xứng) sẽ là khoảng thời gian 10 chu kì cho
hệ thống điện 50Hz . Giá trị 10 chu kì thì sau đó được tập hợp qua 3 khoảng thời gian
bổ sung:
• Khoảng thời gian 150 chu kì (với tần số 150Hz), dữ liệu sẽ được tập hợp không

có độ hở từ khoảng thời gian 15 10 chu kì. Khoảng thời gian này không phải là
thời gian đồng hồ mà nó dựa trên đặc tính tần số và sự chạy không tải với
khoảng thời gian 10 chu kì.
• Khoảng thời gian 10 phút. Dữ liệu cho khoảng thời gian này sẽ được tập hợp từ
khoảng thời gian 10 chu kì. Mỗi khoảng thời gian 10 phút sẽ bắt đầu trên đồng
hồ thời gian quốc tế 10 phút nhịp. Bất cứ sự trùng khớp nào của khoảng thời gian
10 chu kì được chèn vào trong sự tập hợp của khoảng thời gian 10 phút trước.
• Khoảng thời gian 2 giờ : Dữ liệu cho khoảng thời gian này sẽ được tích hợp từ
khoảng thời gian từ 12-10 phút.
Sự tập hợp phải được thực hiện bằng cách sử dụng căn bậc hai trung bình của bình
phương giá trị đầu vào.
1.3.3. Khái niệm đánh dấu
Trong suốt sự sụt áp, tăng áp hay sự ngắt nguồn, thuật toán đo lường cho các tham số
khác có thể sinh ra một giá trị không đáng tin cậy. Khái niệm Flagging do đó ngăn
chặn việc đếm một sự kiện đơn hơn một lần trong các tham số khác nhau và chỉ ra
rằng một giá trị tập hợp có thể không đáng tin cậy. Khái niệm đánh dấu được áp dụng
cho loại A trong suốt quá trình đo lường tần số , biên độ điện áp, độ nhấp nháy, sự
không đối xứng điện áp cung cấp, sóng hài, tín hiệu quan trọng và sự đo lường dưới
độ lệch và qua các tham số độ lệch.
10
Nếu trong một khoảng thời gian nhất định, bất cứ giá trị nào được đánh dấu (flag) , thì
giá trị tập hợp sẽ bao gồm giá trị của nó, cũng sẽ được đánh dấu. Người sử dụng cũng
có thể quyết định cách đánh giá các dữ liệu đã đánh dấu.
1.4. TÍCH HỢP CÁC PHÂN HỆ VỚI HỆ THỐNG ĐIỆN NĂNG
1.4.1. Hệ thống tích trữ năng lượng trong quá khứ và tương lai
Hệ thống tích trữ là một đơn vị phát sinh công suất điện dự trữ được sử dụng trong
nhiều thiết bị công nghiệp, bệnh viện, trường học, các khu tòa nhà, biệt thự Hầu hết
các đơn vị dự trữ này đều được sử dụng chủ yếu khi hệ thống lưới điện quốc gia gặp
sự cố hay không có hiệu lực. Việc lắp đặt đơn vị dự trữ khép kín có tác dụng hạn chế
sự tốn kém đường dây và tổn hao trên đường dây truyền tải. Các đơn vị dự trữ thì hiện

thời được coi như là sản lượng điện phân phối phân biệt từ mô hình máy phát điện tập
trung cổ truyền. Mô hình máy phát điện tập trung phải cung cấp nguồn điện tiết kiệm
và tin cậy.
Có khoảng 12 triệu đơn vị DG được lắp đặt ở Mỹ, với toàn bộ năng lượng khoảng
200GW. DG thì được dự đoán là được sử dụng trong thị trường năng lượng mới với
tất cả các lợi tích chính sau:
• Như EPS, DG sẽ tăng khả năng truyền tải và phân phối và do đó, giới hạn thị
trường và ảnh hưởng tới sự tăng giá thành năng lượng.
• Với hệ thống điện của người tiêu dùng lớn hoặc nhỏ, DG sử dụng khả năng cục
bộ kết hợp với nguồn nhiên liệu cơ bản, như làm giảm sự phụ thuộc vào sự
nhập khẩu. Nó cũng có thể được sử dụng cho trường hợp dự trữ khẩn cấp và
hơn nữa nó có thể được coi như một phương tiện thu nhập máy phát nếu nó
được liên kết với một hệ thống lưới chủ.
Ngày nay DG được biến đổi với giới hạn công suất từ vài watt tới hàng mega watt.
Giới hạn công nghệ DC từ đơn vị chỉ ra rằng chỉ chó hệ thống điện như hệ thống
quang điện tới đơn vị của chúng mới sinh ra một sự kết hợp của nhiệt và điện.
1.4.2. Kết nối với một lưới chính hoạt động song song
Để kết hợp thành công DG với một hệ thống lưới chính thì sự liên kết rõ ràng phải
yêu cầu một công thức chính xác. Các công trinh hiện thời thi hành cho các hệ thống
liên kết mạng DG/phân phối thì khôi phục mạng phân phối tới cấu hình cổ điển của
nó với tất cả các đơn vị liên kết DG. Trong thực tế có rất nhiều hệ thống kết hợp DG
như :
11
• Liên kết của nhiên liệu DG với nhiên liệu hóa thạch
• Liên kết của nhiên liệu DG với nhiên liệu phi hóa thạch
• Liên kết của nhiên liệu DG với sự kết hợp của cả nhiên liệu hóa thạch và phi
hóa thạch.
Ngày nay cấu trúc thứ 3 được sử dụng rộng rãi trong thực tế. Nó bao gồm cấu trúc
AC, DC, cấu trúc AC/DC như trong hình 1.8. Khi một bộ đơn vị năng lượng sinh ra
tồn tại trong một vị trí giới hạn, chúng đặt một điện áp cao cho việc tạo ra một miến

nguồn phân phối. Nó có khả năng tạo ra một mạng phân phối trong hệ thống định
nghĩa như một hệ thống phát sinh và phân phối Micro Grid (MGR). Mục đích ở đây là
kết hợp tất cả nguồn năng lượng có hiệu lực và các đơn vị liên kết DG trong một miền
để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng một cách tốt nhất. Bất cứ phần năng lượng
thừa nào có thể được trao đổi với một đơn vị gần đó, do đó, bổ sung một phần trong
thị trường năng lượng trong thời gian rất ngắn.
12
Hình 1.8: Các cấu trúc MGR : a Cấu trúc AC nền tảng ; b Cấu trúc dòng DC nền
tảng ; c Cấu trúc DC nền tảng và AC nền tảng tập trung.
Như sơ đồ trong hình 1.5, ta thấy có 3 cấu trúc phân phối trong mạng điện MGR là
cấu trúc AC,DC và cấu trúc AC/DC.
Cấu trúc AC : Về riêng biệt, mỗi một DG phát sinh một nguồn năng lượng chất
lượng cao cho bản thân nó. Các đơn vị DG biến đổi thì sau đó được kết nối với nhau
từ cấu trúc của toàn bộ mạng phân phối như chỉ ra trong hình 1.5a. Đây là một cấu
trúc mô đun của kết nối DG. Các đơn vị DG lớn hơn hay nhỏ hơn có thể được thêm
vào để đáp ứng yêu cầu cục bộ. Yêu cầu thì liên tục được cung cấp qua cấu trúc MG.
Cấu hình như vậy yêu cầu có hỗ trợ phụ thuộc các yêu cầu thi hành VAR. Sự phối
13
hợp chính xác giữa các đơn vị DG thì chủ yếu cho sự liên tục của dòng năng lượng tới
lưới. Sự trao đổi năng lượng giữa các hệ thống với các tiện ích có sẵn cũng có thể
thực hiện được.
Cấu trúc DC : Bỏ qua nhiên liệu sơ khai, tất cả các đơn vị DG thì sinh ra năng
lượng DC như trong hình 1.5b, tạo ra mạng phân phối DC. Bus DC tạo ra có thể cấp
trực tiếp cho các hộ tiêu thụ riêng lẻ bởi mức điện áp một chiều tiêu chuẩn. Cấu hình
như vậy có một độ ổn định và độ dư thừa cao như nó yêu cầu một sự tinh xảo nhỏ
trong quá trình kết nối nguồn DC so sánh với nguồn xoay chiều. Lợi thế chính là sự
rủi ro trong quá trình dòng điện tuần hoàn giữa các đơn vị. Mỗi hộ tiêu thụ có thể sử
dụng nguồn một chiều hay đảo ngược nó vào trong nguồn xoay chiều phụ thuộc vào
các thiết bị sử dụng. Sự trao đổi công suất với năng lực ưu tiên thì cũng có khả năng
thực hiện bởi việc sử dụng một bộ phận đơn vị nghịch lưu tiêu chuẩn.

Cấu trúc DC/AC: MGR có cấu trúc quanh đơn vị phát sinh riêng lẻ, nó sinh ra nguồn
điện áp một chiều kết nối tới một bus một chiều. Nhìn chung, các đơn vị được nối
mạng tới hệ thống giao diện AC tập trung cho mục đích tích hợp với lưới đã tồn tại
như mô tả trong hình 1.5c. Một điểm yếu trong cấu hình này là toàn bộ tổn hao của
năng lượng xoay chiều nết bộ nghịch lưu tập trung ngừng hoạt động.
Trong tất cả các cấu trúc có hệu lực, các kết nối khác nhau hay các yêu cầu quản lý
năng lượng cần phải được đồng nhất hóa và địa chỉ hóa bởi người điều khiển MGR và
bởi mạng lưới chính. Tương tự như sự đa dạng của các cách thức DG có thể tích hợp
lẫn nhau và với một lưới chính cung cấp một vài cơ hội. Nó cung cấp sự hỗ trợ cho
khu vực năng lượng theo các công nghệ mới xuất hiện. Nó cũng mở ra một hướng
nghiên cứu mới cho sự phát triển của các công nghệ mới này.
1.4.3. Nguyên lý tiêm công suất
Toàn bộ công suất biểu kiến được tiêm vào trong đường dây truyền tải thì bao
gồm 2 phần chính là tác dụng và phản kháng. Thành phần công suất tác dụng P là một
phần của năng lượng được chuyển đổi vào trong cấu trúc năng lượng vật lý. Thành
phần công suất phản kháng Q thì giúp cho việc tạo ra môi trường từ rất cần thiết cho
các hệ thống và các thiết bị điện từ chuyển đổi năng lượng hiện nay. Chẳng hạn như
động cơ điện xoay chiều hấp thụ cả 2 thành phần P và Q một lần nó được cung cấp
bởi nguồn xoay chiều. Phần công suất phản kháng thu hút tạo ra trường điện từ cần
thiết để cho phép quá trình chuyển đổi năng lượng cần thiết trong động cơ. Thành
14
phần công suất tác dụng được thu hút và chuyển đổi trong năng lượng cơ, nó di
chuyển cả bộ đôi tải cơ học như một băng chuyền cơ học.
Động cơ điện sẽ tích trữ công suất phản kháng như năng lượng từ dao động
trong cuộn dây của nó như một quá trình chuyển đổi liên tục. Hầu hết các ứng dụng
trong công nghiệp và thương mại thì yêu cầu cả 2 công suất P và Q đều phải hoạt
động.
Cả 2 công suất P và Q thì cần thiết ngay tức thời và với các số lượng khác nhau
để đáp ứng yêu cầu của các thiết bị chuyển đổi năng lượng điện kết nối tới nguồn
xoay chiều. Công suất phản kháng có thể được hút hay cung cấp phụ thuộc vào môi

trường năng lượng liên kết với thiết bị điện. Các thành phần năng lượng thu hút hay
cung cấp là cuộn cảm hoặc tụ điện. Cuộn cảm thì thu hút công suất phản kháng +Q và
rút phần được định nghĩa như dòng trễ pha. Năng lượng tiêu thụ được tích trữ như
năng lượng từ trong cuộn cảm. Trong khi đó, tụ điện lại cung cấp công suất phản
kháng –Q và rút một dòng sớm pha, tích trữ nó như việc nạp năng lượng vào trong
môi trường điện môi và các khu vực liên kết.
Để hiểu sự chảy của P và Q trong đường dây, ta xem xét một đường dây đơn thuần nó
tạo ra các bus truyền và nhận với cáp truyền tải ở giữa như trong hình 1.6.
Hình 1.9: Mô tả đường dây đơn của mạng lưới phân phối năng lượng
Giả định điện trở đường dây nhỏ R<<X, các thành phần công suất tác dụng và phản
kháng có thể xấp xỉ tính như sau :
)(sin
RS
RS
S
X
VV
P
δδ
−=
X
VVV
Q
RSRSS
S
)(cos
2
δδ
−−
=

Có thể thấy rằng từ công thức xấp xỉ trên, các thành phần công suất chảy thì phụ
thuộc vào 4 biến điều khiển : V
S
, V
R
,X và
)(
RS
δδ

.
Việc bù song song tại điểm giữa trên đường dây truyền tải sẽ làm tăng cả 2 thành
phần công suất P và Q của công suất tiêm vào. Để bộ bù không tổn hao và các đường
15
dây truyền tải V
S
=V
R
=V, thì công suất tiêm vào tại điểm giữa thì bây giờ được xác
định bởi :
)2/)sin((
2
2
RSSh
X
V
P
δδ
−=


))2/)cos((1(
4
2
RSSh
X
V
Q
δδ
−−=
Trong khi đó, việc bù nối tiếp tại điểm giữa với điện áp V
C
trong trạng thái vuông góc
với dòng dây tương ứng cho phép các yếu tố bù chỉ giúp đỡ điều khiển công suất phản
kháng. Kết quả là công suất tiêm vào thì được xác định bởi :
)sin(
)1(
2
RSSer
Xr
V
P
δδ


=

))cos(1(
)1(
2
2

2
RSSer
r
r
X
V
Q
δδ
−−

=
Ở đó r chính là mức độ của bộ bù nối tiếp (
10 ≤≤ r
)
1.4.4. Tiêm công suất sử dụng bộ bù tĩnh
Đa số các bộ bù tĩnh thì được thiết kế để cung cấp điều khiển công suất phản
kháng. Các bộ bù nối tiếp và song song được sử dụng và cung cấp một giải pháp thi
hành cho bộ bù VAR. Các linh kiện chuyển mạch công suất được sử dụng để điều
khiển kết nối với một bộ cố định hay một bộ ngắt được của cuộn cảm hay tụ điện tới
đường dây truyền tải.
a. Bù VAR cố định
Bộ bù VAR cố định được thực hiện bởi tụ điện song song kết nối với đường dây
truyền tải. Tụ điện song song có thể chuyển mạch để đáp ứng các mức độ biến đổi của
công suất VAR yêu cầu để duy trì mức độ tốt nhất của bộ điều chỉnh điện áp và hệ số
công suất sử dụng bộ đôi tụ điện như trong hình 1.10. Để dòng công suất tác dụng là
hằng số và cung cấp điện áp V, yêu cầu năng lượng VAR phải có sự chênh lệch giữa
lần bù trước và phần bù yêu cầu, như vậy số lượng của năng lượng điện nạp được xác
định bởi :
2
V

VARVAR
B
khôngbùcâuyêu
C

=
Từ đó điện dung yêu cầu có giá trị :
ω
C
B
C =
16
Hình 1.10: (a) Bộ điều khiển bộ đôi tụ điện chuyển mạch; (b) Mô hình tương đương
Bộ điện kháng nối tiếp thì thường được điều chỉnh với tụ điện song song để loại
trừ các dòng hài không mong muốn và thực hiện giới hạn dòng khởi động trong suốt
sự chuyển mạch của tụ điện. Nó là một sơ đồ giá thành thấp và chỉ cung cấp công suất
chính. Hạn chế của nó là xuất hiện chuyển mạch ngắn với giá trị khác nhau của tụ
điện khi chuyển mạch ON và OFF.
b. Bộ bù điều khiển VAR động
Bộ bù VAR động được sinh ra bởi việc sử dụng SVC, nó cho phép dòng bù biến
đổi từ giá trị sớm pha hoặc trễ pha. Điều này có thể được thi hành bởi sự thay đổi trở
kháng tại cực bởi sử dụng bộ điều khiển điện dung và các yếu tố cuộn cảm kết nối
song song tại điểm tiêm công suất. Sự trễ của dòng với điện áp được đưa ra bởi sử
dụng các thiết bị như Thyristor hay transistor công suất.
- Thyristor chuyển mạch tụ điện
Sơ đồ Thyristor chuyển mạch tụ điện (TSC) được chỉ ra trong hình 1.11. Linh kiện
chuyển mạch trong TSC chỉ sử dụng các chuyển mạch ON và OFF, không có điều
khiển góc pha. Bản thân TSC không cung cấp sóng hài nhưng có thể chuyển mạch rất
nhanh. Sự chuyển mạch của bộ tụ điện được sử dụng khi tải yêu cầu tụ điện hỗ trợ. Sự
hỗ trợ của tụ điện thường được chia thành 3 tới 4 bước:

Nhìn chung thì điện kháng nối tiếp được kết nối song song với bộ tụ điện để giới
hạn sự chảy năng lượng trong khi tụ điện chuyển mạch và giới hạn giá trị định mức
của sự tăng của dòng của linh kiện chuyển mạch trong một giá trị an toàn.
17
Hình 1.11 (a) TSC; (b) Mô hình tương đương
-Thyristor điều khiển điện kháng
Trong sơ đồ Thyristor điều khiển điện kháng (TCR), các switch tĩnh thì được kết
nối nối tiếp với điện kháng như trong hình 1.12. TCR thi hành như một điện nạp biến
đổi và phụ thuộc vào thyristor điều khiển chuyển mạch. Bộ điều khiển góc pha
chuyển mạch từ 90
0
đến 180
0
, dòng chảy qua bộ điện kháng thì biến đổi. Các dòng cơ
bản qua cuộn cảm thì do đó có chức năng như một nhánh điện nạp B
TCR
, nó phụ thuộc
vào sự trễ của góc mở van
α
và được ước lượng theo công thức :
)
)2sin(2
1(
1
π
α
π
α
ω
−−=

L
VI
L
18
Hình 1.12: (a) TCR; (b) Mô hình tương đương
Trong sơ đồ 3 pha, TCR thì thường được kết nối hình tam giác để làm giảm sóng
hài. Các thành phần sóng hài trong dòng cuộn cảm chảy vào trong mạng gồm các
sóng hài bậc 3,5,7,9,11,và 13 với biên độ cực đại là 13,8%, 5%, 2,5%, 1,6%,1% và
0,7%. Nếu mạng lưới mà cân bằng, tất cả các bội số của sóng hài bậc 3 sẽ được triệt
tiêu trong kết nối tam giác TCR và sẽ không chảy trong mạng. Cũng chú ý rằng trong
trường hợp tải không cân bằng, bội của các sóng hài bậc 3 cũng chảy trong mạng và
nó thêm vào các sóng hài. Do đó yếu tố tụ điện lọc phải được tăng trong khi lọc các
thành phần dòng hài không mong muốn tạo ra bởi TCR trong suốt quá trình nó hoạt
động.
-Cố định tụ điện và Thyristor điều khiển điện kháng
Phải chú ý rằng TSC thì bản thân nó không thể cung cấp công suất phản kháng
biến đổi một cách nhẹ nhàng. Nó chỉ điều khiển trong những bước nhảy, vì vậy để
cho hoạt động an toàn và nhẹ nhàng của nó thì cần phải kết hợp giữa TSC và TCR.
Trong sơ đồ một tụ điện cố định được kết nối qua một sự kết hợp của linh kiện
chuyển mạch nối tiếp với bộ điện kháng như hình 1.13.
19
Hình 1.13: (a) Tụ điện cố định với Thyristor điều khiển điện kháng ; (b) Mô hình
tương đương
Dòng trong cuộn cảm thì biến đổi bởi phương pháp đã trình bày ở trước của sự
điều khiển góc trễ pha. Tụ điện cố định trong thi hành thì thường được thay thế hoàn
toàn hay một phần bởi mạng bộ lọc, nó cần thiết phải có tụ điện và cuộn cảm tại tần
số cơ bản để phát sinh công suất VAR yêu cầu. Tuy nhiên, điều này sẽ cung cấp một
trở kháng thấp tại tần số lựa chọn để lọc các dòng hài song song chủ yếu sinh ra bởi
TCR. VAR cố định sớm pha thì cung cấp bởi tụ điện và nó đối kháng với công suất
VAR trễ pha cung cấp bởi cuộn cảm. Toàn bộ điện nạp cho bởi hệ thống thì chia

thành 2 phần (cố định và biến đổi) và nó được xác định như sau :
)(
α
TCRCTCRC
BBB +=

Tại điện dung cực đại đầu ra, thyritor điều khiển điện kháng thì OFF. Để làm giảm
điện dung đầu ra, dòng trong bộ điện kháng thì tăng bởi việc giảm góc trễ pha. Tại
công suất đầu ra VAR = 0, dòng trong cuộn cảm và tụ điện thì cân bằng nhau. Với sự
giảm hơn nữa của góc lệch pha, dòng trong cuộn cảm trở nên lớn hơn so với dòng
trong tụ điện, kết quả là cuộn cảm cung cấp công suất đầu ra.
- Thyristor chuyển mạch tụ điện và Thyristor điều khiển điện kháng
Thyristor chuyển mạch tụ điện và Thyristor điều khiển điện kháng (TSC-TCR) thì
tương tự như hoạt động của tụ điện cố định và TCR (FC-TCR) nhưng cới giá trị bước
nhảy của tụ điện. Một pha đơn TSC-TCR được chỉ ra như trong hình 1.14. Để giới
hạn điện dung đầu ra, nó bao gồm số lượng bội của nhánh TSC và một TCR. Số
20
lượng của các nhánh thì được xác định bởi yêu cầu thực tế nó bao gồm sự hoạt động
của các mức điện áp hoạt động, công suất đầu ra tối đa, giới hạn dòng của linh kiện
chuyển mạch. Giới hạn cuộn cảm có thể khuếch đại tơi bất cứ giới hạn cực đại nào
bởi việc thêm vào nhánh TCR. Toàn bộ giới hạn năng lượng đầu ra thì được chia
thành n khoảng. Trong khoảng thời gian đầu tiên, đầu ra của máy phát VAR được
điều khiển trong giới hạn VAR/n không. Ở đó VAR là toàn bộ giới hạn cung cấp bởi
tất cả các nhánh TSC. Trong khoảng thời gian này, một tụ điện thì chuyển mạch và
đồng thời, dòng trong TCR thì được đặt bởi góc mở trễ và nó là tổng của VAR đầu ra
của TSC và của TCR cân bằng với năng lượng đầu ra yêu cầu.
Hình 1.14: (a)TSC-TCR ; (b) Mô hình tương đương
1.4.5. Tiêm công suất sử dụng thiết bị tĩnh hiện đại
Các bộ bù thụ động và ngắt được sinh ra sóng hài tần số thấp trongkhi cung cáp
công suất VAR yêu cầu. Bởi việc sử dụng các linh kiện chuyển mạch thông minh,

hiện đại và nhanh sẽ làm giảm sóng hài được thi hành với giá thành thấp của bộ lọc
thông cao. Lợi thế của việc sử dụng linh kiện chuyển mạch này là việc điều khiển các
bộ tụ bù hay cuộn cảm bù đưa ra hệ thống bù với khả năng điều khiển cà công suất
phản kháng và tác dụng. Trong số các bộ tụ bù hiện đại thì bộ bù đồng bộ tĩnh
STATCOM thường được sử dụng nhiều nhất như bộ D-STATCOM (Dynamic Static
Synchronous Compensator) hay UPFC.
a. Bộ bù đồng bộ tĩnh
STATCOM là một bộ bù chất lượng cao cho để làm giảm sự dao động của thành phần
công suất phản kháng tiêm vào. Nó được cấu tạo từ 6 linh kiện chuyển mạch công
21
suất trong sơ đồ cầu 3 pha. Cầu được điều khiển để cung cấp dòng tới tụ điện một
chiều lớn. Giới hạn công suất củ các linh kiện thì tương đối thấp. Các linh kiện
chuyển mạch được điều khiển bởi mạch điều khiển chuyển mạch logic PWM. Các
thành phần sóng hài tần số cao có thể dễ dàng được lọc sử dụng các yếu tố lọc thụ
động tần số cao. Các thành phần cơ bản của điện áp dây biến đổi, vì thế dòng được rút
từ bộ biến đổi. STATCOM được kết nối song song với mạng lưới phân phối qua bộ
điện kháng giới hạn hay biến áp đôi như trong hình 1.15.
Hình 1.15: (a) STATCOM ; (b) Mô hình tương đương
Khi điện áp lớn hơn điện áp cơ bản của bộ biến đổi thì bộ STATCOM sẽ sinh ra công
suất phản kháng và khi điện áp hệ thống cao hơn thì nó sẽ thu hút công suất phản
kháng. Cả hai thành phần công suất phản kháng và tác dụng được xác định bởi :
)sin(
βφ


=
Sh
PSh
Sh
X

VV
P
Sh
PShSh
Sh
X
VVV
Q
)cos(
2
βφ
−−
=
Bộ STATCOM cho phép các linh kiện thu hút hay phát sinh công suất phản kháng với
một tụ điện bên ngoài hay một sòng qua cuộn cảm thu hút bởi cầu điều khiển thì
không phụ thuộc vào mức điện áp xoay chiều với điện áp bộ biến đổi.
b. Bộ điều khiển công suất chảy thống nhất (UPFC- Unified Power Flow
Controller)
22
UPFC cơ bản thì bao gồm 2 bộ biến đổi đầy đủ chia sẻ chung một tụ DC link như
chỉ ra trong hình 1.16. Các bộ biên đổi được điều khiển để bù điện áp như công suất
của bộ đôi đường dây truyền tải. Bộ biến đổi 2 thực hiện chức năng chính là tiêm một
điện áp xoay chiều với biên độ điều khiển được và góc pha nối tiếp với đường dây
truyền tải. Bộ biến đổi 1, mặt khác còn cung cấp hay thu hút công suất tác dụng yêu
cầu bởi bộ biến đổi 2. Cả 2 bộ biến đổi có thể được điều khiển để phát sinh hay hấp
thu một công suất phản kháng hay cung cấp không phụ thuộc vào bộ bù công suất
phản kháng song song cho đường dây. Về nguyên lý, một UPFC có thể thi hành việc
hỗ trợ điện áp, điều khiển công suất chảy cà cải thiện ổn định động trong một hay một
vài linh kiện giống nhau.
Hình 1.16: (a) UPFC ; (b) Mô hình tương đương

1.5. NHẬN XÉT
Như đã trình bày trên, chương này trình bày sơ lược về lưới điện thông minh và
các vấn đề liên quan đến chất lượng điện năng trong lưới điện thông minh. Nguyên lý
tiêm công suất và mô hình MGR (MicroGrid) cũng được đề cập, các bộ bù
STATCOM và UPFC cũng được mô tả, là tiền đề cho sự phát triển của mô hình lọc
tích cực cho các chương sau.
23
CHƯƠNG 2. LÝ THUYẾT CÔNG SUẤT TỨC THỜI
2.1. NHẮC LẠI VỀ LÝ THUYẾT CÔNG SUẤT CỔ ĐIỂN
2.1.1. Định nghĩa công suất dưới các điều kiện sin
Các định nghĩa của công suất điện cho hệ thống hình sin 1 pha đã được thiết lập
từ lâu. Ngày nay cũng không có sự khác nhau trong kết quả thu được ở miền thời gian
và miền tần số.
Một hệ thống 1 pha lý tưởng với một nguồn áp hình sin và một tải tuyến tính
thì có điện áp và dòng điện được xác đinh theo công thức:
u(t) =
)sin(2 tV
ω

)sin(2)(
δω
−=
tIti
(2.1)
Ở đó V và I mô tả giá trị hiệu dụng của điện áp và dòng điện, và
ω
là tần số góc.
Công suất tác dụng tức thời được xác định bằng tích của điện áp à dòng điện tức thời,
đó là :
p(t) = u(t)* i(t) = 2VI sin (

ω
t) sin (
δω
−t
)
=VI cos
δ
–VI cos (
δω
−t2
) (2.2)
Công thức (2.2) chỉ ra rằng công suất tức thời của hệ thống một pha thì không
phải là hằng số. Nó có một thành phần dao động với tần số góc 2
ω
được thêm vào với
thành phần một chiều VI cos
δ
. Phân tích thành phần dao động trong công thức trên
và biến đổi ta thu được định nghĩa cổ điển của công suất tác dụng và công suất phản
kháng :
p(t)=VI cos
δ
[1-cos 2
t
ω
] - VI sin
δ
sin (2
t
ω

) (2.3)
Công thức (2.3) chỉ ẩ 2 phần của công suất tức thời và nó có thể được diễn dịch
như sau :
Phần 1 có một giá trị trung bình là VI cos
δ
và có một thành phần dao động với tần số
2
ω
trên nó. Phần này thì không bao giờ bị âm vì -90<=
δ
<=90 và do đó nó mô tả một
chiều công suất chảy từ nguồn tới tải.
Phần 2 có một thành phần dao động tại tần số 2
ω
và nó có giá trị cực đại là VI sin
δ
.Rõ ràng, nó có giá trị trung bình là 0.
Thông thường công suất tức thời được chỉ ra trong (2.3) thì được mô tả bởi 3
công suất “hằng số” : Công suất tác dụng, Công suất phản kháng và Công suất biểu
kiến. Các công suất này được mô tả như sau:
Công suất tác dụng : P Là giá trị trung bình của phần 1 :
P= VI cos
δ
24
Đơn vị chuẩn của nó là Watt (W).
Công suất phản kháng Q: là giá trị cực đại của phần 2:
P= VI sin
δ
Đơn vị đo chuẩn của nó là Var (Votl – ampere reactive).
Một tín hiệu cho sự thay đổi của

δ
là sự thay đổi đặc tính của cuộn cảm hoặc
điện dung của tải. Ở đây, ta mặc định : giá trị dương cho công suất phản kháng của tải
điện càm, và giá trị âm cho công suất phản kháng của tải điện dung.
Công suất phản kháng theo thông thường vẫn gọi là thành phần công suất với
giá trị trung bình là 0.Tuy nhiên sự nhận định này không hoàn toàn chính xác và nó sẽ
dược chỉ ra sau. Ý nghĩa vật lý này của công suất phản kháng đã được chứng minh khi
thiết bị phản kháng chỉ là cuộn cảm và tụ điện. Tất nhiên, ở đó không có thiết bị điện
tử công suất. Các linh kiện này có khả năng tạo ra công suất phản kháng không có
thành phần tích trữ năng lượng. Vấn đề này sẽ được đề cập ở chương tới.
Bây giờ công suất tức thời p(t) có thể được viết lại :
p(t) = P
δ
[1-cos 2
t
ω
] - Q sin (2
t
ω
) (2.6)
Hình 2.1 chỉ ra các thành phần công suất trên cho điện áp và dòng điện.Trong hình
này thì dòng điệntrễ pha hơn so với điện áp bởi một góc
δ
, nó cân bàng với góc 60
0
.
Từ công thức (2.6) và hình 2.1 ta dễ dàng hiểu rằng năng lượng chảy (công suất tức
thời) trong hệ thống 1 pha xoay chiều thì không phải là cố định về chiều và giá trị.
Trong suốt khoảng thời gian tương ứng của vùng “A” ,nguồn cung cấp năng lượng
cho tải và ngược lại , trong suốt khoảng thời gian tương ứng của vùng “b” thì năng

lượng chảy theo chiều ngược lại.
25

×