Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.01 MB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

PHP BIN CHNG V MÂU THUN
V VẬN DNG PHÂN TCH MÂU THUN BIN CHNG
TRONG NN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯNG X HI CH NGHA  VIT NAM HIN NAY

Sinh viên thực hiện: Nguyễn An Việt
Mã SV: 2012150100
STT: 77
Lớp tín chỉ: TRIE114.4
Giáo viên hướng dẫn: TS. Đào Thị Trang

Hà Nội, tháng 11 năm 2020


MC LC
PHẦN M ĐẦU .................................................................................................. 3
I. Quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật ...................................... 4
1. Khái quát lịch sử phát triển của phép biện chứng ......................................................4
2. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật ...........................................................5
3. Phép biện chứng về mâu thuẫn ..........................................................................................8
II. Vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ....................................... 10
1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng, phát triển kinh tế với sự bất cập của
cơ chế, chính sách khai thác nguồn lực hiện nay. .........................................................10
2. Mâu thuẫn giữa tính ưu việt của nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN
với những hạn chế trong việc tìm ra quyết sách khắc phục mặt trái của kinh tế


thị trường. ......................................................................................................................................11
3. Mâu thuẫn giữa tính tất yếu khách quan phải nâng cao sự đồng thuận xã hội
trong đổi đất nước với sự tấn công của các thế lực thù địch trong và ngoài
nước nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc....................................................12
4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao tính tích cực chính trị với lối sống thực
dụng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. ...........................................12
5. Mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy mạnh đổi mới hệ thống chính trị với sự thiếu
hụt trong những biện pháp mang tính đột phá trên lĩnh vực này. ...........................12
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 14


PHẦN M ĐẦU
Nhà triết học Hêgen đã từng nói: Cuộc sống tiến lên thơng qua những
mâu thuẫn.Tính đúng đắn của luận điểm càng được khẳng định qua thực tiễn
phát triển của đất nước ta hiện nay.
Sau gần hai thập kỷ chuyển mình, đất nước ta đã đạt được những thành
tựu có ý nghĩa lịch sử to lớn nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và tính tích cực,
sáng tạo của nhân dân. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang
từng bước được xây dựng. Đất nước của dân, do dân, vì dân đã thiết định nền
dân chủ XHCN trên những đường nét cơ bản, hình thành nền văn hoá tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc cùng sự thống nhất trong đa dạng. Khối đại đoàn kết
toàn dân tộc mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức ngày càng được củng cố, thực sự trở thành một động lực
quan trọng của đổi mới đất nước…
Bên cạnh những thành tựu, tiến bộ đã đạt được sau gần 20 năm đổi mới,
vẫn còn những yếu kém, khuyết điểm làm gay gắt những mâu thuẫn trong quá
trình phát triển.
Để đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên, chúng ta phải giải quyết rất
nhiều mâu thuẫn phức tạp. Xuất phát từ thực trạng đó, em quyết định viết để tài:
“phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện

chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở nước
ta”.


PHẦN NI DUNG
I. Quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật
1. Khái quát lịch sử phát triển của phép biện chứng
Phép biện chứng xuất hiện từ thời cổ đại, và từ đó đến nay lịch sử phát
triển của nó đã trải qua nhiều gian đoạn khác nhau gắn liền với sự phát triển của
khoa học và thực tiễn. Từ phép biện chứng mộc mạc, chất phác thời cổ đại đã
thể hiện rõ những tư tưởng biện chứng khá sâu sắc như mối quan hệ quy định
lẫn nhau tạo ra sự thống nhất giữa cái bất biến với cái biến đổi, giữa cái duy nhất
với số nhiều, bất kỳ sự vật nào cũng là thể thống nhất của hai mặt đối lập vừa
xung khắc nhau, vừa nương tựa vào nhau, vừa bao hàm lẫn nhau. Thế giới vật
chất tồn tại trong sự hình thành, vận động vĩnh viễn của sự thống nhất giữa các
mặt đối lập… Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cổ đại là tính tự phát, ngây
thơ. Cho dù cịn nhiều hạn chế, nhưng nhìn chung phép biện chứng cổ đại đã coi
thế giới là chỉnh thế thống nhất giữa các bộ phận của thế giới có mối lien hệ qua
lại, thâm nhập, tác động và quy định lẫn nhau, thế giới không ngừng vận động,
biến đổi. Tiếp theo đó là phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức
và đỉnh cao là phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Về hình thức, phép biện
chứng này bao quát cả 3 lĩnh vực: logic thuần túy, tự nhiên, biện chứng của tồn
bộ q trình lịch sử. Về nội dung, phép biện chứng chia thành tồn tại, bản chất
và khái niệm. Phép biện chứng trong giai đoạn này là sự phát triển từ cái trừu
tượng đến cái cụ thể, từ chất này sang chất khác nhờ giải quyết mâu thuẫn. Phát
triển được coi là sự tự phát triển, và là nguyên lý cơ bản nhất của phép biện
chứng với phạm trù trung tâm là “tha hóa” và khẳng định “tha hóa được diễn ra
ở mọi nơi, mọi lúc trong cả tự nhiên, xã hội và tinh thần”.
Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức thời kỳ này đã xây
dựng được hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh trong một chừng mực nhất

định và đã trở thành một phương pháp tư duy triết học phổ biến. Tuy nhiên nó


vẫn tồn tại một số mặt hạn chế nhất định và sau này sẽ bị phủ định, thay thế
bằng phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy
vật và phương pháp biện chứng, giữa lý luận nhận thức và logic biện chứng. Sự
ra đời của phép biện chứng duy vật là cuộc cách mạng trong phương pháp tư
duy triết học, là phương pháp tư duy khác về chất so với những phương pháp tư
duy trước đó. “Nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư
tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau, trong sự rằng buộc, sự vẫn động, sự
phát sinh và sự tiêu vong của chúng”. Phép biện chứng duy vật thể hiện ở 2
nguyên lý, 6 cặp phạm trù và 3 quy luật.
2. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
2.1. Hai nguyên lý
2.1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Các sự vật, hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, có khác nhau đến thế
nào đi chăng nữa thì cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới
vật chất duy nhất. Nó có tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau tạo nên sự phát
triển. Trong hoạt động thực tiễn, phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên
hệ phổ biến.
2.1.2. Nguyên lý về sự phát triển
Mọi sự vật hiện tượng đều vận động từ thấp đến cao, đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quá trình đó diễn ra làm cho sự vật,
hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng vật chất mới ra đời. Phát triển là tự
thân, có mặt trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy, rất đa dạng và phong phú. Động
lực của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện
tượng. Phát triển đi theo đường xoáy ốc, cái mời dường như lặp lại một số điểm
của cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
2.2. Ba quy luật

2.2.1. Quy luật lượng chất


Mọi sự vật đều có lượng và chất. Lượng là tính quy định, thuộc tính vốn
có của sự vật. Chất là cái để phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vât, hiện
tượng khác. Mối sự vật đều là sự thống nhất giữa chất và lượng. Lượng biến đổi
đạt tới điểm nút, phá vỡ độ cũ thì chất của sự vật thay đổi căn bản. Sự vật biến
thành sự vật khác. Lượng biến đổi, chưa đạt tới mức phá vỡ độ thì chất của sự
vật đã thay đổi cục bộ. Khi chất biến đổi lại tác động ngược trở lại lượng làm
lượng biến đổi hoặc lượng mới xuất hiện. Sự chuyển hóa lượng – chất phụ thuộc
vào những điều kiện nhất định.
2.2.2. Quy luật phủ định của phủ định
Quy luật này chỉ ra khuynh hướng phát triển của sự vật. Quá trình phủ
định của phủ định tạo thành sự vận động phát triển khơng ngừng mang tính chu
kỳ của thế giới khách quan. Sau hai lần phủ định, sự vật dường như lặp lại cái
ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Phủ định là tự phủ định và khuynh hướng
diễn ra theo vịng trịn xốy ốc, nói lên tính tiến lên và kế thừa trong sự phát
triển.
2.2.3. Quy luật mâu thuẫn (thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập)
Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, nó chỉ ra nguồn
gốc, động lực của sự vận động, phát triển. Mọi sự vật đều có những mặt đối lập.
Sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn bên trong của sự
vật. Mâu thuẫn tồn tại khách quan, phổ biến trong các sự vật, hiện tượng. Các
mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau. Trong đó, thống nhất là
tương đối, tạm thời, đấu tranh là tuyệt đối, vĩnh viễn.
2.3. Sáu cặp phạm trù cơ bản
2.3.1. Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
Sự vật, hiện tượng nào cũng có cái chung, cái riêng và cái đơn nhất,
chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng với nhau, thông qua
nhau mà thể hiện sự tồn tại của mình. Nó mang tính chất tương đối và trong

những điều kiện nhất định chúng có thể chuyển hóa cho nhau.
2.3.2. Nguyên nhân và kết quả


Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân, mỗi một nguyên nhân thì
sinh ra một kết quả. Nguyên nhân ln có trước kết quả. Giữa ngun nhân, kết
quả ln có mối liên hệ qua lại, quy định lẫn nhau. Một sự vật, hiện tượng ở
trong mối quan hệ này là nguyên nhân, nhưng lại là kết quả ở trong mối quan hệ
khác và ngược lại tạo nên chuỗi nhân quả vơ tận. Ngun nhân và kết quả chỉ
mang tính chất tương đối và được xem xét ở trong một mối quan hệ cụ thể.
2.3.3. Tất nhiên và ngẫu nhiên
Tất nhiên là phạm trù chỉ mối liên hệ xuất phát bên trong của sự vật trong
những điều kiện nhất định phải xảy ra như thế. Ngẫu nhiên do mỗi liên hệ khơng
bản chất, do những ngun nhân, hồn cảnh bên ngồi quy định, có thể xuất
hiện, khơng xuất hiện, xuất hiện thế này hoặc xuất hiện thế khác. Ranh giới giữa
tất nhiên và ngẫu nhiên có tính chất tương đối. Trong điều kiện nhất định hai cái
có thể chuyển hóa lẫn nhau. Giữa ngẫu nhiên và tất nhiên có mối liên hệ biện
chứng lẫn nhau. Cái tất nhiên biểu hiện thơng qua vơ số cái ngẫu nhiên. Tất
nhiên đóng vai trò chi phối sự phát triển, còn ngẫu nhiên làm cho sự phát triển
diễn ra nhanh hoặc chậm trong hình thức này hay hình thức khác.
2.3.4. Nội dung và hình thức
Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố tạo nên sự vật, hiện
tượng. Hình thức là phương pháp tồn tại của nội dung. Giữa nội dung và hình
thức có mối liên hệ qua lại, quy định lẫn nhau, trong đó nội dung giữ vài trị quy
định hình thức. Nội dung thay đổi thì hình thức cũng phải thay đổi cho phù hợp.
Tuy nhiên hình thức cũng có tính độc lập tương đối và tác động tích cực trở lại
nội dung. Khi phù hợp nó là động lực thúc đẩy nội dung phát triển, cịn khơng
phù hợp, nó sẽ cản trở sự phát triển của nội dung. Một nội dung có thể thể hiện
dưới nhiều hình thức và ngược lại, một hình thức có thể phù hợp với nhiều nội
dung khác nhau.

2.3.5. Bản chất và hiện tượng
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương
đối ổn định bên trong, quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Sự


vật là những biểu hiện bên ngoài. Bản chất và hiện tượng căn bản thống nhất
biện chứng với nhau. Bản chất tương đối ổn định, còn hiện tượng thường xuyên
biến đổi.
2.3.6. Khả năng và hiện thực
Khả năng là cái hiện chưa xảy ra nhưng sẽ xảy ra khi có các điều kiện
thích hợp. Hiện thực là cái đang có, đang tồn tại thực sự. Trong hiện thực bao
giờ cũng chứa đựng những khả năng nhất định, ngược lại khả năng lại nằm trong
hiện thực và khi đủ điều kiện sẽ biến thành hiện thực mới. Mối quan hệ giữa khả
năng và hiện thực diễn ra rất phức tạp. Mỗi sự vật đều có nhiều khả năng, xuất
hiện trong q trình vận động và phát triển của nó. Nhưng bản thân khả năng
cũng luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng. Từ khả năng đến hiện thực
phải thông qua một tập hợp điều kiện thích hợp.
3. Phép biện chứng về mâu thuẫn
Mỗi sự vật, hiện tượng là một tổng thể của những mâu thuẫn khác nhau.
Mỗi mâu thuẫn có một vai trị nhất định đối với q trình phát sinh, phát triển tất
yếu của sự vật, hiện tượng chứa đựng chúng. Theo nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến, các mâu thuẫn cùng tồn tại trong một sự vật, hiện tượng phải tác động, ảnh
hưởng lẫn nhau. Và sự tác động, ảnh hưởng này tạo thành một tổng hòa tác dụng
của chúng. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong từng mâu thuẫn
chỉ có thể diễn ra trong tổng hòa tác dụng của tất cả các mâu thuẫn cùng tồn tại
trong một chỉnh thể. Vai trò động lực của mâu thuẫn đối với chủ thể chỉ có thể
phát huy tác dụng thơng qua tổng hịa tác dụng của chúng. Như vậy mâu thuẫn
không tác động đến chủ thể trong trạng thái riêng lẻ, đơn chiếc. Động lực phát
triển bao giờ cũng là một tổng hòa tác dụng của tất cả các mâu thuẫn.
Quá trình phát triển tất yếu của sự vật hiện tượng không chỉ chịu ảnh

hưởng của riêng một mâu thuẫn nào, dù đó là mâu thuẫn quan trọng nhất, mà
chịu tác động của tất cả các mâu thuẫn chứa đựng trong nó. Chính tổng hợp tác
động này là động lực của quá trình phát triển. Các mâu thuẫn bên ngoài của sự


vật có thể tác động đến sự phát triển của sự vật đó thơng qua các mâu thuẫn bên
trong của nó. Tức là mâu thuẫn bên ngồi tác động đến mâu thuẫn bên trong làm
cho các mâu thuẫn này biến đổi, và đến lượt chúng, chính các mâu thuẫn bên
trong của sự vật làm biến đổi chủ thể của chúng. Xét trong một điều kiện nhất
định thì mâu thuẫn bên ngồi và mâu thuẫn bên trong có thể chuyển hóa cho
nhau, mâu thuẫn bên ngoài của sự vật này cũng là mâu thuẫn bên trong của sự
vật kia. Triết học duy vật biện chứng khẳng định: các mặt đối lập cùng tồn tại
với nhau trong một mâu thuẫn nhưng vận động theo những phương hướng đối
lập nhau, nên chúng bài trừ lẫn nhau, phủ định lẫn nhau. Từ đó có thể thấy rằng
đấu tranh chỉ có thể diễn ra giữa các mặt đối lập, gắn bó với nhau một cách hợp
quy luật khách quan trong một mâu thuẫn xác định, khơng có thể có sự đấu tranh
giữa các sự vật hiện tượng bất kỳ mà sự tồn tại của chúng hồn tồn khơng phải
là kết quả của sự phân cực. Đấu tranh của các mặt đối lập bắt đầu từ sự thống
nhất của chúng. Chừng nào sự thống nhất của các mặt đối lập khơng cịn nữa thì
sự đấu tranh của chúng cũng chấm dứt.
Sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau giữa các mâu thuẫn có ý nghĩa to lớn. Nó
địi hỏi người hoạt động thực tiễn, khi giải quyết bất kỳ mâu thuẫn nào của đời
sống, phải cân nhắc thần trọng đến ảnh hưởng của hoạt động giải quyết mâu
thuẫn này đối với các mâu thuẫn khác và tác động ngược lại từ các mâu thuẫn
khác đối với các mâu thuẫn được giải quyết.
Mâu thuẫn khơng chỉ được hình thành từ thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập. Nó cịn nhất thiết phải được hình thành từ sự thống nhất, theo nghĩa
loại trừ đối lập, của các phần tử không đối lập nhau. Logic của kết luận là: để có
mâu thuẫn phải có mặt đối lập, để có mặt đối lập phải có mặt khơng đối lập. Từ
đó nổi lên mối quan hệ biện chứng quan trọng là: đối lập phải được hình thành

từ khơng đối lập
Mối quan hệ thống nhất, đấu tranh giữa các mặt đối lập cịn có một nghĩa
khác: đấu tranh giữa các mặt đối lập có tác dụng trở lại đối với sự thống nhất
giữa các mặt đối lập. Để có sự thống nhất giữa các mặt đối lập thì phải có các


mặt đối lập. Nhưng các mặt đối lập trong một mâu thuẫn chỉ có thể tồn tại trong
sự đấu tranh của chúng. Trong đấu tranh các mặt đối lập không ngừng loại trừ
lẫn nhau nhưng đồng thời cũng không ngừng tự khẳng định mình, do đó cả hai
mặt đối lập đều được kích thích, tăng cường vận động và phát triển. Chính đó,
đấu tranh là phương thức tồn tại của sự vật. Chúng ta hiểu tồn tại không phải là
tồn tại biệt lập, cách biệt với thế giới bên ngoài, mà là khẳng định mình trong sự
tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau, đối lập
nhau. Quan điểm này là quan trọng. Sự đấu tranh giữa các cực là một phương
pháp của sự phân cực. Ta vẫn quan niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập là để
giải quyết mâu thuẫn, mà khi mâu thuẫn được giải quyết thì các mặt đối lập của
mâu thuẫn không tồn tại nữa – chúng bị tiêu diệt hoặc chuyển hóa thành các mặt
đối lập khác. Vậy quan niệm cho rằng đấu tranh giữa các mặt đối lập là điều
kiện để khẳng định sự tồn tại của các mặt đối lập có trái với quan niệm được
thừa nhận khơng? Về thực chất thì các quan niệm này khơng trái ngược với
nhau. Các mặt đối lập nào thực sự tiêu biểu cho xu thế phát triển của cái mới,
của cái tiến bộ thì tồn tại và phát triển cao hơn, cịn ngược lại cái nào khơng có
đủ sức tồn tại thêm nữa thì phải chấm dứt. Đó là ngun tác phát triển chung của
sự vật.
Như vậy từ mối liên hệ của sự đấu tranh giữa các mặt đối lập với sự thống
nhất của các mặt đối lập có thể rút ra kết luận: sự thống nhất giữa các mặt đối
lập không thể hiểu đơn giản sơ lược, chỉ diễn ra một lần. Theo tinh thần biện
chứng, đây là một quá trình vận động, phát triển, một quá trình đấu tranh lâu dài.
II. Vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng, phát triển kinh tế với sự bất cập của
cơ chế, chính sách khai thác nguồn lực hiện nay.
Để đạt mục tiêu đến năm 2015 thoát khỏi tình trạng một nước kém phát
triển, tốc độ phát triển kinh tế thời gian tới phải đạt mức trung bình khoảng


8%/năm. Chỉ bằng cơ chế, chính sách như hiện nay, chúng ta khó có thể thực
hiện phát triển đột biến về khả năng khai thác những tiềm năng lớn về tài
nguyên, lao động trong nước, về khả năng tận dụng những cơ hội quốc tế để gia
tăng mạnh và sử dụng tốt các nguồn lực từ bên ngoài. Nền kinh tế hiện vẫn rất
dễ bị tổn thương trước tác động khơng lớn lắm của những biến đổi kinh tế bên
ngồi. Khoảng cách về kinh tế giữa nước ta với nhiều nước trong khu vực và thế
giới ngày càng mở rộng. Sự tụt hậu trên lĩnh vực này chưa được ngăn chặn.
2. Mâu thuẫn giữa tính ưu việt của nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN
với những hạn chế trong việc tìm ra quyết sách khắc phục mặt trái của kinh
tế thị trường.
Tính ưu việt của q trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa phải được thể hiện ngày càng đậm nét trước hết và chủ yếu ở khả
năng bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hố,
thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, trong khi đó, chúng ta chưa tìm được
những giải pháp hữu hiệu để giải quyết những hậu quả xã hội do tác động tiêu
cực của những mặt trái thuộc kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế gây
ra. Nhiều vấn đề xã hội có xu hướng ngày càng gay gắt. Đặc biệt, điều làm cho
nhân dân hết sức bất bình, lo lắng là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhũng
nhiễu dân, suy thối về tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của
.một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng. Văn hố lai căng
có xu hướng phát triển. Hiện tượng ma chay, cưới xin, hội hè với nhiều hủ tục
được khôi phục ở nhiều nơi. Đạo lý xã hội, gia đình xuống cấp. Tình huống mất
ổn định cục bộ có khả năng xảy ra nhiều hơn, mức độ phức tạp của tình hình gia
tăng hơn… Chúng ta chưa tìm được những phương hướng ngăn chặn có hiệu

quả tình trạng đó.


3. Mâu thuẫn giữa tính tất yếu khách quan phải nâng cao sự đồng thuận xã
hội trong đổi đất nước với sự tấn công của các thế lực thù địch trong và ngoài
nước nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân là một điều kiện
tất yếu để đưa công cuộc đổi mới tiến lên mạnh mẽ hơn. Nhưng, cùng với những
yếu kém của chính chúng ta, thì sự tác động của các thế lực thù địch nhằm thực
hiện chiến lược “diễn biến hồ bình” đối với nước ta bằng nhiều con đường,
nhiều biện pháp và phương tiện, cả trực tiếp lẫn gián tiếp qua một số phần tử cơ
hội về chính trị để chống phá trên lĩnh vực tư tưởng -lý luận đã làm cho một bộ
phận cán bộ, Đảng viên và nhân dân phân tâm… Chúng ta có phần cịn lúng
túng, hữu khuynh trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực này.
4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao tính tích cực chính trị với lối sống thực
dụng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Trong khi cuộc sống đòi hỏi phải thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của nhân
dân, phát huy đóng góp của nhân dân vào việc hoàn thiện và tổ chức thực hiện
đường lối đổi mới, thì tình trạng thờ Ơ chính trị, chỉ lo vun vén cho lợi ích của
bản thân và gia đình, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền của một bộ phận
cán bộ, đảng viên và nhân dân có chiều hướng gia tăng. Chúng ta chưa tìm được
cách để khắc phục tình hình này với hiệu quả cao.
5. Mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy mạnh đổi mới hệ thống chính trị với sự thiếu
hụt trong những biện pháp mang tính đột phá trên lĩnh vực này.
Cơng cuộc đổi mới kinh tế đã phát triển tới mức đòi hỏi phải đẩy mạnh
hơn nữa việc đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, sự
kết hợp hài hoà hơn nữa giữa các bộ phận cấu thành hệ thống đó, song, chúng ta
chưa có những đột phá trên lĩnh vực này. Đã có nhiều nghị quyết, nhiều chủ
trương chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhưng hiệu quả thực tiễn còn
thấp. Bộ máy của hệ thống chính trị cịn q cồng kềnh, cơ chế vận hành chưa



thật khoa học, tình trạng lẫn lộn chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ phận cấu
thành hệ thống chính trị còn xuất hiện ở nhiều cấp, nhiều địa phương. Việc thực
hiện luật pháp, kỷ cương khơng nghiêm. Nhiều nơi cịn vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức chưa đủ mạnh, phương pháp hoạt
động của nhiều cán bộ đảng, đồn thể cịn trong tình trạng viên chức hố… Sự
yếu kém đó, nếu khơng được khắc phục có hiệu quả, thì một số phương diện của
hệ thống chính trị sẽ trở thành lực cản lớn đối với đổi mới trên lĩnh vực kinh tế.


KẾT LUẬN

“Cuộc sống tiến lên thông qua những mâu thuẫn. Những mâu thuẫn sinh
động thì mn hình, mn vẻ, dồi dào hơn nhiều so với điều mà người ta suy
nghĩ ban đầu” (Hêgen). Một số mâu thuẫn và vấn đề có tính mâu thuẫn nêu trên
khơng phải là tất cả những mâu thuẫn đang có trong q trình đổi mới hiện nay
ở nước ta. Song, việc điểm danh một cách đại thể như vậy cũng đủ cho chúng ta
thấy tính phức tạp của tình hình mà chúng ta đang phải giải quyết.
Việc giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn và những vấn đề có tính
mâu thuẫn trên đây là một điều kiện căn bản để nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh tồn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện
cơng cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta thốt khỏi tình trạng kém phát triển.


TÀI LIU THAM KHẢO
1. “Giáo trình Triết học” – dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh

không thuộc chuyên ngành Triết học – Bộ giáo dục và đào tạo – NXB
Chính trị- Hành chính – 2008

2. “ Đổi mới ở Việt Nam – nhớ lại và suy ngẫm” – GS.TS Phạm Ngọc

Quang – NXB Tri thức – 2008
3. “ Biện chứng của mâu thuẫn – nhận thức mới về quy luật mâu thuẫn” – Lê

Đức Quảng – NXB Đại học Quốc gia Hà Nội – 200
4. “ Mác- Anghen tồn tập” – NXB Chính trị, Quốc gia 1997



×