Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN LỐI SỐNG CỦA NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.83 KB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----o0o-----

NGUYỄN THỊ HẰNG

ẢNH HƢỞNG CỦA PHẬT GIÁO
ĐẾN LỐI SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Triết học

HÀ NỘI – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----o0o-----

NGUYỄN THỊ HẰNG

ẢNH HƢỞNG CỦA PHẬT GIÁO
ĐẾN LỐI SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học
Mã số: 60 22 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Đặng Thị Lan


HÀ NỘI – 2015


LỜI CẢM ƠN
Sau hai năm học tập tại khoa Triết học - Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn, em có được kết quả như ngày hơm nay là do sự nỗ lực, cố
gắng của bản thân và sự giúp đỡ, chỉ bảo tân tình, chu đáo của các thầy cơ
trong khoa Triết học.
Em xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong khoa Triết
học, đặc biệt là cô giáo PGS.TS Đặng Thị Lan - người đã tận tình giúp đỡ, hướng
dẫn em trong quá trình học tập cũng như trong thời gian làm luận văn.

Cảm ơn gia đình, bạn bè và những người thân đã động viên, giúp đỡ,
tạo điều kiện cho em hoàn thành luận văn này.
Mặc dù đã cố gắng hết sức nhưng vì thời gian có hạn, trình độ năng lực
và kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn cịn nhiều hạn chế nên luận văn khơng
tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những lời nhận xét, góp ý
chân thành của q thầy cơ cũng như bạn bè để luận văn của em được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Học viên

Nguyễn Thị Hằng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHẬT GIÁO
VÀ LỐI SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT NAM................................................10
1.1. Những tƣ tƣởng cơ bản của Phật giáo................................................ 10

1.1.1. Thế giới quan Phật giáo.................................................................. 10
1.1.2. Nhân sinh quan Phật giáo................................................................17
1.2. Sự du nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam...........................29
1.3. Lối sống của ngƣời Việt Nam................................................................36
1.3.1. Quan niệm về lối sống.................................................................... 36
1.3.2. Đặc điểm lối sống của người Việt Nam truyền thống.....................42
1.3.3. Sự biến đổi của lối sống và những vấn đề đặt ra trong xây dựng lối sống

của người Việt Nam hiện nay....................................................................47
CHƢƠNG 2. NHỮNG ẢNH HƢỞNG CHỦ YẾU CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN

LỐI SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT NAM HIỆN NAY..................................59
2.1. Ảnh hƣởng của Phật giáo trong cách thức lao động sản xuất và tổ chức

cuộc sống của ngƣời Việt Nam hiện nay.....................................................59
2.1.2. Những ảnh hưởng tích cực..............................................................59
2.1.2. Một số ảnh hưởng tiêu cực..............................................................71
2.2. Ảnh hƣởng của Phật giáo đến phong tục, tập quán........................... 75
2.2.1. Phật giáo góp phần củng cố, duy trì các phong tục, tập quán của người

Việt Nam...................................................................................................75
2.2.2. Phật giáo ảnh hưởng đến tập tục đi lễ chùa, cúng Rằm, mùng Một
...................................................................................................................78
2.2.3. Phật giáo ảnh hưởng trong tục ăn chay, phóng sinh và bố thí.........81
2.2.4. Phật giáo ảnh hưởng đến nghi thức ma chay, cưới hỏi...................82
2.3. Ảnh hƣởng của Phật giáo đến phƣơng thức ứng xử, triết lý sống của
ngƣời Việt Nam.............................................................................................87


2.4. Một số khuyến nghị nhằm phát huy ảnh hƣởng tích cực, hạn chế ảnh

hƣởng tiêu cực của Phật giáo đến lối sống của ngƣời Việt Nam hiện nay.
.......................................................................................................................106
2.4.1. Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân và
đồng bào Phật tử nhằm xa rời mê tín dị đoan, tiếp nhận những tư tưởng tích

cực của Phật giáo.................................................................................... 106
2.4.2. Phát huy vai trị tích cực của các tổ chức Phật giáo, tổ chức Phật tử
trong đời sống xã hội...............................................................................109
2.4.3. Nâng cao hiệu quả tổ chức và quản lý đối với các hoạt động tín ngưỡng,

tơn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng.................................................. 111
KẾT LUẬN.................................................................................................. 114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................116


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo ra đời cách đây hơn 2500 năm và đã được truyền bá, có ảnh
hưởng tới nhiều nước trên thế giới như Xrilanca, Mianma, Ai Cập, Thái Lan,
Việt Nam, Trung Quốc… Trong quá trình du nhập và trải qua các thời kỳ lịch
sử, Phật giáo lại phụ thuộc vào tình hình kinh tế - xã hội, điều kiện lịch sử,
văn hóa ở mỗi quốc gia mà có những biến đổi cho phù hợp. Ngày nay, trên
phạm vi quốc tế, Phật giáo đang chiếm vị trí sâu rộng trong đời sống của con
người trong đó có Việt Nam.
Phật giáo vừa là một tơn giáo, vừa là triết học bởi trong nó chứa đựng
nhiều quan điểm sâu sắc về thế giới, nhân sinh. Trải qua bao thăng trầm của
lịch sử, từng chịu biết bao thử thách trong sự va chạm với các tôn giáo khác,
song Phật giáo vẫn tồn tại và phát triển mạnh mẽ cho đến ngày nay. Sở dĩ đạo
Phật có được sức sống mãnh liệt đó là vì mục đích tối thượng của nó là cứu
khổ đem lại sự an lạc, hạnh phúc cho con người. Mọi sự thuyết pháp của đức

Phật đều tập trung vào cuộc sống hiện thực của chúng sinh mà ít bàn đến
những hiện tượng tự nhiên, điều đó hồn tồn phù hợp với đơng đảo quần
chúng khi trình độ nhận thức cịn nhiều hạn chế. Hơn nữa, đạo Phật đã khơi
dậy được những giá trị văn hóa trong con người hướng tới chân – thiện – mỹ,
khơi dậy được khát khao của con người muốn được giải thốt trước những
mâu thuẫn, bế tắc do chính con người tạo ra. Bởi vậy, đạo Phật xét về mặt tích
cực, nó thực sự là chỗ dựa tinh thần cho một bộ phận đơng đảo quần chúng
nhân dân. Cũng chính bởi vậy mà đạo Phật đã bám sâu vào trong đời sống xã
hội, đáp ứng được nhu cầu thiết thực của con người trong mọi thời đại.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm và ln gắn bó với những
bước thăng trầm của lịch sử dân tộc. Những tư tưởng, giáo lý của Phật giáo đã
ngấm sâu vào tư duy và trở thành một bộ phận văn hóa, nếp sống của
1


người Việt. Với bề dày gần hai nghìn năm tại Việt Nam, Phật giáo đã khẳng
định chân giá trị của nó trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Phật giáo đã
trở thành một hệ tư tưởng - tôn giáo có sức sống lâu dài và đã có những ảnh
hưởng sâu sắc đến đời sống con người Việt Nam. Trải qua mọi thời đại, văn
hóa Phật giáo là một bộ phận khơng thể tách rời của văn hóa dân tộc. Đạo
Phật với quan niệm nhân sinh độc đáo đã trở thành một bộ phận không thể
thiếu của nền văn hóa Việt Nam. Phật giáo với cái đích là cứu con người thốt
khỏi nỗi khổ mn đời, với cứu cánh là giải thốt, nó mang đậm tính triết học
hơn bất kỳ một tôn giáo nào khác. Phật giáo chứa đựng một hệ thống những
tư tưởng về thế giới quan, nhân sinh quan vô cùng sâu sắc. Những tư tưởng cơ
bản của Phật giáo đã và đang có những tác động, ảnh hưởng sâu rộng trên
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở nước ta hiện nay.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, do sự tác động mạnh mẽ của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quá trình giao lưu, hội
nhập quốc tế, đạo đức, lối sống của con người có nhiều biến đổi theo cả chiều

hướng tích cực và tiêu cực. Chúng ta đang phải đối mặt với tình trạng suy thối
nghiêm trọng về đạo đức, lối sống trong một bộ phận dân cư, trong đó có cả các
đảng viên. Trong tình hình ấy, chúng ta cần phát huy mọi nguồn lực để xây dựng
một lối sống tiến bộ, lành mạnh. Phật giáo chứa đựng trong đó những tư tưởng
nhân văn về đạo đức vẫn cịn nhiều điểm phù hợp với cơng cuộc xây dựng xã hội
mới như Đảng ta khẳng định. Biết phát huy những giá trị tích cực trong thế giới
quan và nhân sinh quan Phật giáo là một nhân tố quan trọng góp phần xây dựng
lối sống ở nước ta hiện nay. Với tầm quan trọng và ý nghĩa như vậy, tác giả lựa
chọn chọn đề tài: “Ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sống của người Việt Nam
hiện nay” làm luận văn Thạc sĩ của mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Phật giáo là một trong ba tơn giáo lớn trên thế giới cả về bề dày lịch sử,
2


tính đồ sộ của hệ thống giáo lý và số lượng tín đồ, do đó thu hút được sự quan
tâm rất lớn của giới khoa học. Nghiên cứu về Phật giáo được rất nhiều nhà
khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu trên nhiều phương diện khác nhau
và đạt được kết quả đáng trân trọng. Có thể kể đến một số cơng trình nghiên
cứu trên các phương diện sau:
2.1. Các cơng trình nghiên cứu về Phật giáo, tư tưởng của Phật giáo và
lịch sử Phật giáo Việt Nam
“Việt Nam Phật giáo sử luận” (Nxb Văn học Hà Nội, 1992) của
Nguyễn Lang đã đề cập đến các giai đoạn du nhập của Phật giáo vào Việt
Nam, vai trò của các thiền sư trong công cuộc dựng nước và giữ nước của các
triều đại phong kiến Việt Nam. Trong sách “Lịch sử Phật giáo Việt Nam”
(Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998), các tác giả đã bàn về lịch sử du nhập
và quá trình phát triển của Phật giáo từ thời kỳ đầu mới du nhập đến thế kỷ
XX, bàn về các tơng phái Phật giáo và đã phân tích vai trò của Phật giáo đối

với các lĩnh vực tư tưởng chính trị trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam;
“Mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam” của Ủy ban Khoa học
Xã hội Việt Nam, Việt Triết học (Hà Nội, 1996) đã đề cập đến tính chất của
Phật giáo Việt Nam, các tông phái Phật giáo ở Việt Nam, vai trò của Phật giáo
trong nền văn hóa dân tộc và ảnh hưởng của Phật giáo đối với lịch sử tư tưởng
Việt Nam… Bên cạnh đó, các cơng trình nghiên cứu về triết học Phật giáo
như“Đại cương triết học Phật giáo” của Thích Đạo Quang (Nxb Thuận Hóa Huế, 1996) đã phân tích những giá trị trong các giáo lý cơ bản của Phật giáo
và đề cập một cách khái quát các tông phái cơ bản của đạo Phật; “Tư tưởng
triết học Phật giáo Việt Nam”của Nguyễn Duy Hinh đã trình bày và phân tích
một cách sâu sắc các vần đề của triết học Phật giáo như: Bản thể luận, nhận
thức luận, giải thoát luận và các nội dung triết học Phật giáo Việt Nam như tư
tưởng triết học Phật giáo sơn môn Dâu,
3


tư tưởng triết học Phật giáo sơn môn Kiến Sơ và triết học Phật giáo tông Trúc
Lâm... Nguyễn Hùng Hậu với cuốn “Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam”
(Nxb Khoa học xã hội, 2002) dưới góc độ triết học đã khái quát quá trình du
nhập và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam. Tác giả đã trình bày rõ sự tiếp
biến và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam qua các giai đoạn và chỉ ra đặc
trưng của Phật giáo Việt Nam là sự kết hợp của ba yếu tố Thiền – Tịnh – Mật
trong sự hòa quyện với tín ngưỡng bản địa tạo nên những đặc điểm riêng biệt
của Phật giáo Việt Nam…Cuốn sách này là một trong những nguồn tư liệu
quý giá khi nghiên cứu Phật giáo và Phật giáo Việt Nam. Phan Văn Hùm viết
cuốn “Phật giáo triết học” bản in lần thứ ba năm 1943 dưới góc độ tiếp cận
triết học, tác giả tập trung phân tích nguyên lý của Phật giáo nguyên thủy: vấn
đề tâm và vật, Ngũ uẩn, Nghiệp, Thiền định; đưa ra những nhận định chung
nhất về bản thể luận, nhận thức luận của triết học Phật giáo.
Ngoài ra, trong nhóm cơng trình nghiên cứu về Phật giáo cũng có một
số cơng trình nghiên cứu của các học giả nước ngồi, có thể kể đến một số

cơng trình như: “Cốt tủy của đạo Phật” (1971) của Daisetz Teitaro Suzuki do
Trúc Thiên dịch (Nxb An Tiêm, Sài Gòn); “Nền tảng của đạo Phật” của Peter
D. Santina do Thích Tâm Quang dịch (NXb Thành phố Hồ Chí Minh). Junjiro
Takakusu với cuốn “Tinh hoa triết học Phật giáo” (The Essentials of
Buddhis). Nhan đề lần xuất bản thứ nhất do Ban Tu thư Viện Đại học Vạn
Hạnh dịch là “Các tông phái của đạo Phật”, lần tái bản năm 2008 Tuệ Sỹ
dịch ra tiếng việt là “Tinh hoa triết học Phật giáo”. Ngoài phần giới thiệu và
kết luận, cuốn sách gồm có 14 chương. Ông đã trình bày triết học Phật giáo
theo xu hướng hệ thống trong đó tập trung lý giải các nguyên lý cơ bản của
Phật giáo ở các chương I, II, III. Ông đã chỉ ra 6 nguyên lý căn bản trong triết
học Phật giáo là nguyên lý duyên khởi, nguyên lý tất định và bất định,
4


nguyên lý tương dung, nguyên lý như thực, nguyên lý viên dung, nguyên lý
Niết bàn hay giải thoát viên mãn… Emmanuel Kant khi nghiên cứu về Phật
giáo Tích Lan, Miến Điện, Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản cũng đánh giá
cao những giá trị đạo đức của tôn giáo này thông qua nhận thức và hành vi
của các vị tu sĩ, qua thuyết “Duyên khởi”, thuyết “Luân hồi” của Phật giáo.
Sau Emmanuel Kant, một số triết gia người Đức khác như Schelling, Hegel,
Nietzche, Schopenhaueur… cũng chú ý đến Phật giáo. Nhìn chung, các triết
gia người Đức này đều đánh giá Phật giáo là một tôn giáo cao thâm thể hiện ở
các quan niệm của nó về thế giới và con người như quan niệm: thế giới là vô
thủy vô chung, thế giới vận động biến đổi không ngừng, con người là “vô
ngã”… Đặc biệt, họ rất chú ý đến quan niệm “Nhân quả, luân hồi’ trong giáo
lý nhà Phật, và cho đây là một trong những điều huyền bí nhất cần khám phá
trong văn hố phương Đơng.
2.2. Các cơng trình nghiên cứu về ảnh hưởng của Phật giáo đối với đạo
đức, lối sống của con người Việt Nam
Về lĩnh vực này có thể kể đến các cơng trình như: “Ảnh hưởng của các

hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay” (Nxb Chính trị
quốc gia Hà Nội, 1997) do Nguyễn Tài Thư (chủ biên) đã đề cập đến vai trò
của Phật giáo trên một số lĩnh vực như: ảnh hưởng của Phật giáo đối với hệ tư
tưởng, đối với sự hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay; “Phật
giáo và văn hóa Việt Nam” (Nxb Hà Nội, 1999) của Nguyễn Đăng Duy đã đề
cập đến vai trị của Phật giáo trong đời sống chính trị, văn hóa, đạo đức của
dân tộc Việt Nam. Trần Văn Giàu với một loạt các cơng trình như: “Giá trị
tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam” (Nxb Khoa học xã hội, 1975),
“Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại” (Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1993) và
“Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến cách mạng
tháng Tám” (3 tập) (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997, 1998) đã đề cập
5


đến những giá trị đạo đức Phật giáo, những đóng góp của Phật giáo trong lịch
sử tư tưởng Việt Nam. Học viện Phật giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí
Minh với “Phật giáo nhập thế và phát triển” (Nxb Tôn giáo, 2008) đã tập
hợp các bài viết của các nhà khoa học, các tri thức Phật giáo viết về vai trò
Phật giáo trong các lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam hiện nay như: Phật
giáo trong thời kỳ hội nhập và phát triển, Phật giáo với chính trị, xã hội; Phật
giáo với sự phát triển bền vững của đất nước, Phật giáo với xã hội dân sự,
Phật giáo với sự nghiệp độc lập, Phật giáo với đời sống tâm linh… “Phật
giáo với dân tộc” của Thích Thanh Từ (Thành Hội Phật giáo TP. Hồ Chí
Minh, 1995) đã bàn về những nét chính trong luân lý Phật giáo, những giới
luật của phật tử tại gia và phật tử xuất gia, về đóng góp của Phật giáo cho lịch
sử dân tộc trên các phương diện chính trị, tư tưởng, văn nghệ, về các giá trị
đạo đức Phật giáo với tuổi trẻ Việt Nam hiện đại. Luận án Tiến sĩ Triết học
của Lê Hữu Tuấn với đề tài: “Ảnh hưởng của những tư tưởng triết học Phật
giáo trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam” (Hà Nội, 1999);
Luận án tiến sĩ triết học của Tạ Chí Hồng với đề tài: “Ảnh hưởng của đạo đức

Phật giáo trong đời sống đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay” (Hà Nội, 2004);
“Ảnh hưởng của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con
người Việt Nam và sự biến đổi của nó trong q trình đổi mới hiện nay” của
Mai Thị Dung, luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 2003…
Ngồi ra, cịn có rất nhiều các cơng trình trên các tạp chí cũng đề cập
đến những ảnh hưởng của Phật giáo trên các phương diện khác nhau trong
văn hóa, lối sống của người Việt Nam như: “Ảnh hưởng của Phật giáo đối
với tư uy và cách ứng ử của người Việt Nam hiện nay” (Tạp chí xã hội học, số
4 1989) và “Một số suy ngh về ảnh hưởng của Phật giáo đối với tư uy người
Việt” (Tạp chí Triết học, số 5 1996) của GS.TS Nguyễn Hùng Hậu;
6


“Phật giáo và sự hình thành nh n cách con người Việt Nam hiện nay” (Tạp
chí Triết học, số 2/1994) của GS.TS Nguyễn Tài Thư; “Tơn giáo và tín
ngưỡng trong đời sống văn hóa hiện nay” (Tạp chí cộng sản số 15/1999) của
GS.TS Đỗ Quang Hưng; “Vài suy ngh về Phật giáo dân gian Việt Nam” (Tạp
chí nghiên cứu Phật học, số 2/1997) của Hồng Thị Lan; “Một vài đóng góp
của Phật giáo đối với văn hóa Việt Nam” (Tạp chí nghiên cứu Tơn giáo, số
5/2005) của Lê Đức Hạnh; “Bàn thêm về ảnh hưởng của Phật giáo trong đời
sống xã hội Việt Nam hiện nay” (Tạp chí nghiên cứu tơn giáo, số 10/2007)
của Lê Văn Đính; “Phật giáo Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc” (Tạp chí nghiên cứu Phật học, số 3/2006) của Hịa thượng
Thích Thanh Tứ; “Nghiên cứu và ứng dụng các giá trị văn hóa Phật giáo
trong xã hội Việt Nam hiện nay” (Tạp chí nghiên cứu Tơn giáo, số 5/2008)
của Nguyễn Hồng Dương; “Ảnh hưởng của “T m” trong Phật giáo đối với
văn hóa tinh thần của người Việt Nam hiện nay” (Tạp chí nghiên cứu Tơn
giáo, số 5/2008) của Ngơ Thị Lan Anh…
Nhìn chung, có thể nhận xét khái qt các cơng trình nghiên cứu trên đã

tiếp cận Phật giáo và vai trò của Phật giáo dưới nhiều quan điểm và góc độ
khác nhau. Đồng thời, khẳng định Phật giáo có giá trị và ảnh hưởng sâu sắc
trong đời sống xã hội Việt Nam. Những tư tưởng cơ bản của Phật giáo kết hợp
với văn hóa truyền thống tạo nên sự đa dạng, phong phú của đời sống tinh
thần con người Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy, trên cơ sở tiếp thu, kế thừa
những kết quả nghiên cứu của các cơng trình đã có, luận văn tập trung vào
việc phân tích, đánh giá những ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sống của
người Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở trình bày một số vấn đề lý luận chung về Phật giáo, lối sống
7


con người Việt Nam, luận văn làm rõ mộ số ảnh hưởng chủ yếu của Phật giáo
đến lối sống của người Việt Nam hiện nay và đưa ra một số khuyến nghị
nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật
giáo đến lối sống của người Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất, phân tích những tư tưởng cơ bản của Phật giáo; quá trình du
nhập, phát triển của Phật giáo ở Việt Nam và lối sống của người Việt Nam.
Thứ hai, phân tích làm rõ một số ảnh hưởng chủ yếu của Phật giáo đến
lối sống con người Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, đề xuất một số khuyến nghị nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực
và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo đến lối sống của người Việt Nam
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Ảnh hưởng của Phật giáo đến lối sống của người Việt Nam hiện nay.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phật giáo hàm chứa trong nó những tư tưởng rất rộng lớn về thế giới và
nhân sinh. Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả tập trung nghiên cứu, giới
thiệu thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo, trong đó chứa đựng những
triết lý có ảnh hưởng đến lối sống con người Việt Nam.
Phạm trù lối sống cũng rất rộng, tác giả chọn ra 3 phương diện cơ bản
nhất và phân tích sự ảnh hưởng của Phật giáo đến các phương diện đó.
Về mặt thời gian, luận văn nghiên cứu ảnh hưởng chủ yếu của Phật
giáo đến một số phương diện thuộc lối sống của người Việt Nam từ khi đổi
mới (từ năm 1986) đến nay.
8


5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về
vấn đề tơn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu của triết học như: Phân
tích - tổng hợp, quy nạp – diễn dịch, so sánh, khái quát hóa…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần vào việc phân tích, đánh giá ảnh hưởng của Phật
giáo đến một số phương diện của lối sống người Việt Nam hiện nay.
- Luận văn bước đầu đề xuất một số khuyến nghị cơ bản nhằm phát huy
ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của Phật giáo đến lối sống
của người Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu tư tưởng cơ bản của Phật giáo,

quá trình du nhập, phát triển của Phật giáo ở Việt Nam và ảnh hưởng của nó
đối với lối sống của người Việt Nam hiện nay.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy,
nghiên cứu về vấn đề tơn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng trong các trường
đại học, cao đẳng và cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
đề tài gồm 2 chương 7 tiết.

9


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHẬT GIÁO
VÀ LỐI SỐNG CỦA NGƢỜI VIỆT NAM
1.1. Những tƣ tƣởng cơ bản của Phật giáo
Toàn bộ nội dung tư tưởng của Phật giáo được thể hiện Tam Tạng kinh
(Kinh Tạng, Luật Tạng và Luận Tạng). Kinh sách Phật giáo được viết bằng
hai thứ tiếng: tiếng Pali (ngơn ngữ bình dân, giản dị), tiếng Phạn (ngơn ngữ trí
thức, mẹo luật chặt chẽ tế nhị).
Cùng với sự biến đổi của lịch sử xã hội, Phật giáo cũng có nhiều biến đổi
về tổ chức cũng như giáo lý. Nhiều hệ phái tồn tại cho đến ngày nay là biểu hiện
của sự biến đổi đó. Mặc dù vậy, những nội dung, tư tưởng chủ yếu, những triết lý
về thế giới quan, về nhân sinh cùng con đường giải thoát khỏi bể khổ của Phật
giáo vẫn là cái chủ đạo, xuyên suốt trong quá trình biến đổi của Phật giáo.
Những tư tưởng đó ảnh hưởng sâu sắc đến lối sống của con người Việt Nam

1.1.1. Thế giới quan Phật giáo
Thế giới quan là “tổng hợp tất cả những quan niệm, chính kiến về thế

giới, về cấu trúc và nguồn gốc của nó, ý ngh a và giá trị đời sống của con
người, lòng tin của con người trong hiện thực” [43,tr.167].
Từ điển Triết học định nghĩa: “Thế giới quan được hiểu là toàn bộ
những nguyên tắc, quan điểm và niềm tin định hướng hoạt động và quan hệ
của từng cá nhân, của một tập đoàn ã hội, của một giai cấp hay xã hội nói
chung đối với thực tại” [77,tr.539]
Như vậy, có thể hiểu thế giới quan là hệ thống quan điểm, quan niệm,
tư tưởng của con người về thế giới, về cuộc đời và vị trí của con người trong
thế giới đó.
Thế giới quan tôn giáo là hệ thống quan điểm, tư tưởng tôn giáo, thể
hiện niềm tin của con người vào sức mạnh của các lực lượng siêu nhiên, được
10


biểu hiện tập trung trong các kinh sách của các tôn giáo, được các chức sắc
tôn giáo truyền bá một cách tự giác.
Thế giới quan Phật giáo được thể hiện tập trung trong quan điểm về thế
giới, tư tưởng vô thường, thuyết nhân quả và thuyết duyên khởi. Những tư
tưởng này chứa đựng yếu tố duy vật và biện chứng, nó đối lập với định mệnh
luận và thần linh luận.
- Quan niệm của Phật giáo về thế giới
Theo GS.TS Nguyễn Hùng Hậu trong cuốn “Đại cương Triết học Phật
giáo Việt Nam - Tập 1: Từ khởi nguyên đến thế kỷ XIV”: Phật giáo thừa nhận
thế giới về đại thể có hai yếu tố cơ bản là Danh và Sắc. Khái niệm danh và sắc
có từ thời Upanishad để chỉ hiện tượng và cá thể nhưng đến thời đức Phật nó
ngụ ý là yếu tố tinh thần và yếu tố vật chất, nó chính là vật và tâm. Theo
thuyết “Chư pháp nhân dun sinh” thì hai cái đó liên hệ khăng khít với nhau,
khơng tách rời nhau, khơng có cái này thì khơng có cái kia và ngược lại. Phật
giáo quan niệm: “Nhất thiết duy tâm tạo” tức là mọi sự vật hiện tượng từ
“tâm” mà sinh ra. Tâm là “sắc biên tế tướng” là cái ở giữa cái có và cái không

(vô cùng nhỏ bé) rất vi tế huyền diệu và vơ thủy vơ chung. Tâm có tên là
“Như Lai tạng tính”, “giáo diệu minh tâm”… và “Phật tính”. Cái gọi là thế
giới chẳng qua là thành lập trên quan hệ nhận thức giữa sáu căn và sáu cảnh,
ngoài ra thế giới đối với chúng ta khơng có một ý nghĩa nào khác vì khơng có
chủ quan thì cũng khơng có khách quan, mà khơng có khách quan thì cũng
khơng có chủ quan. Ngồi quan hệ chủ quan – khách quan ra cũng khơng có
thế giới, cái gọi là hết thảy cũng được thành lập trên quan hệ ấy. Như vậy,
theo tinh thần Phật giáo trong hai yếu tố vật và tâm thì tâm đóng vai trị chủ
đạo trong việc thành lập thế giới. Tất cả thế giới chỉ là một dịng biến hóa vơ
thường, vơ định, khơng có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật mà chỉ do nhân
quả nối tiếp nhau mà thành. Trên thế giới khơng có sự vật nào tồn tại độc lập
11


tuyệt đối, mọi sự vật hiện tượng đều nằm trong mối quan hệ phức tạp, tất cả
mọi cái đều phải nương tựa vào nhau.
Trong giáo lý của đạo Phật thì không gian là vô tận, thế giới nhiều như
cát sông Hằng. Khơng gian có Tam thiên thế giới gồm: Đại thiên thế giới,
trung thiên thế giới và tiểu thiên thế giới. Mỗi tiểu thiên thế giới có hàng chục
ngàn thế giới. Thời gian có “tam kiếp” gồm: đại kiếp, trung kiếp và tiểu kiếp.
Một đại kiếp bằng 4 trung kiếp. Một trung kiếp bằng 20 tiểu kiếp. Một tiểu
kiếp bằng hàng chục triệu năm. Thế giới trong không gian được gọi là thế
gian. Thế giới được chia thành 3 cõi lớn (Tam giới) là Dục giới (nơi lòng dục
thịnh); Sắc giới (dục tuy khơng thịnh nhưng chưa hồn tồn thốt ly khỏi sự
trói buộc của vật chất); Vơ sắc giới (hồn tồn thốt ly khỏi sự trói buộc của
vật chất, chỉ có tinh thần). Theo Kimura Taiken, Tam giới của nhà Phật được
sinh ra từ trạng thái tinh thần trong giai đoạn thiền định. “Dục giới lấy núi Tu
Di làm trung tâm. Xung quanh núi Tu Di là cửu sơn (Trì song, Trì dục, Diêm
mộc, Thiên kiến, Mã nhĩ, Tượng nhĩ, Trì sơn, Thiết luân), Bát hải. Giữa Trì
song và Thiết luân có 4 châu: Nam là Diêm phù đề châu, Đông là Đông thắng

thần châu, Bắc là Bắc câu lư châu, Tây là Tây ngưu hóa châu. Chúng ta đang
ở châu Diêm phù đề. Trên núi Tu Di có thần Dạ Xoa, Tứ Thiên vương, Kim
cương Thủ và Trời Đạo Lợi, tầng thứ 33 có chủ nhân là Đế Thích.” [24, tr.
150].
Phật giáo cịn có quan niệm Lục đại bao gồm: Địa ngục: có 8 đại địa
ngục ở nơi tận cùng thế giới hay dưới Diêm phù đề châu; Ngạ quỷ: kể cả
Diêm Ma, quỷ thần, Dạ xoa; Súc sinh; Atula (dưới đáy biển); nhân gian (có 4
châu nói trên); Thiên (Trời).
- Thuyết duyên khởi
Thích Thiện Châu trong tác phẩm “Phật tử” cho rằng: Cốt tủy của đạo
Phật là đạo lý duyên khởi. Đạo lý này nói rõ tương quan, tương duyên của tất
12


cả các hiện tượng vật lý và tâm lý. Sự hiện hữu của thế giới chỉ là tương quan
đồng thời của nhận thức chủ quan và đối tượng khách quan. Sự vật ở ngoài ta
và trong ta vốn sinh, diệt biến chuyển theo luật nhân quả mà không hề tiêu
diệt hoàn toàn, ấy là tương quan khác thời.
Trong cuốn “Triết học Phật giáo Việt Nam” của Nguyễn Duy Hinh có
viết: Theo Phan Văn Hùm trong cuốn “Phật giáo triết học” cho rằng Thuyết
duyên khởi trong Phật giáo gồm có nhiều thuyết: “Thuyết thứ 1 là Nghiệp
cảm duyên khởi. Thuyết thứ 2 là Alaida duyên khởi. Thuyết thứ 3 là Chân như
duyên khởi. Thuyết thứ 4 là Pháp giới duyên khởi. Thuyết thứ 5 năm là Lục
đại duyên khởi.” [26, tr.13]
+ Nghiệp cảm duyên khởi: “Đây là học thuyết có từ thế giới Phật giáo
nguyên thủy, rút ra từ Tứ diệu đế và Thập nhị nhân duyên” [26,tr.13]. Trong
quá trình luân hồi sinh tử, định luật và trật tự vận hành tạo nên vịng trịn sinh
hố là luật nhân quả. Yếu tố chính của diễn trình nhân quả là lý thuyết về
nghiệp cảm. Nghiệp cảm là cái năng lực tâm lý tiềm tàng, vẫn tồn tại khi thân
xác bị chết đi. Nghiệp gồm có biệt nghiệp và cộng nghiệp. Biệt nghiệp tạo nên

cá thể và cộng nghiệp tạo nên thế giới. Còn nghiệp là còn hiện tượng giới:
“Sự hành vi của chúng ta hàng ngày, sinh ra tam nghiệp (thân nghiệp, khẩu
nghiệp, ý nghiệp) – Tam nghiệp cứ lớp trước tàn lớp sau nối, liên liên như
những khoen dây xích. Thân tâm ta bởi đó mà tiếp dẫn với chủ quan giới và
khách quan giới. Ấy gọi là Nghiệp cảm duyên khởi.” [26, tr 34]. Cho nên, dứt
trừ được nghiệp là trở về với Chân như, Niết bàn, muốn giải thoát phải diệt
nghiệp.
+ Alaida duyên khởi: Theo phái Duy Thức, thức được chia thành 8
nhóm: tiền ngũ thức, ý thức, Manas (Mạt la thức) và Alaya (A lại da thức).
Thức thứ bảy – Manas là trung tâm hiện khởi của các ý tưởng vị ngã, ích kỹ,
tự ái, ảo tưởng, là trung tâm chấp ngã, ngã hố. Trong khi đó, A lại da thức là
13


trung tâm tích tụ ý thể (nghĩa là thức), là nơi chứa nhóm các hạt giống (chủng
tử) của tất cả mọi hiện khởi và chúng được bộc lộ trong các hiện khởi đó.
Theo Duy thức tơng, ngun khởi của vạn pháp là hiệu quả của ý thể. Tàng
thức là trung tâm tích tụ của ý thể, là kho chứa hạt giống của mọi hiện hữu.
Khi chúng tiềm ẩn, ta gọi là chủng tử; khi chúng hoạt động ta gọi là hiện
hành. Những chủng tử cố hữu, những hiện hành và những chủng tử mới hỗ
tương phụ thuộc lẫn nhau tạo nên một vịng trịn mãi mãi tái diễn tiến trình
trước sau như nhất. Cái làm cho chủng tử phát khởi thành hiện hành, nghĩa la
động lực tạo ra dòng vận động của duyên khởi chính là ý thể - nghĩa là thức.
Đấy gọi là Alaida duyên khởi. Theo thuyết Alaida duyên khởi Nghiệp, Khổ
khởi nguyên từ nghiệp thức hay ý thể.
+ Ch n như uyên khởi: Thuyết này theo kinh Lăng già, kinh Đại bát
Niết Bàn, kinh Đại thừa khởi tín luận thuộc thời kỳ Đại thừa (khoảng đầu
cơng ngun). Chân như là từ ngữ được dùng để diễn tả thực tại cứu cánh
vượt ngoài định danh và định nghĩa. Chân như trong nghĩa tĩnh thì phi khơng
gian, phi thời gian, bình đẳng, vơ thuỷ, vơ chung, vơ tướng vơ sắc. Chân như

trong nghĩa động có thể xuất hiện dưới bất cứ hình thức nào. Khi được điều
động bởi một ngun nhân thuần tịnh, nó mang hình thức thanh thốt; khi
được điều động bởi một ngun nhân ơ nhiễm, nó mang hình thức hủ bại. Do
vậy, chân như có hai trạng thái: mặt tĩnh là tự thân chân như và mặt động là
những biểu lộ của chân như trong vòng sống chết.
+ Lục đại duyên khởi. Đây là chủ trương của Chân ngôn hay Mật tông.
Lục đại gồm địa, thủy, hỏa, phong, không, thức. “Địa, thủy, hỏa, phong,
không” thuộc về vật thể tức là sắc pháp cịn “thức” thì thuộc về tâm tức là tâm
pháp. Chính sáu yếu tố này tùy duyên sinh khởi mà khởi sinh ra con người và
vũ trụ. Khi nói là vật và tâm nhưng thật ra bản thể của chúng vẫn là một,
không thể phân chia ra được. Vật là hình tướng và tâm là năng lực để hình
14


tướng có thể hoạt động. Do đó nếu tâm rời sắc thì năng lực chẳng tồn tại
được. Cịn nếu sắc khơng nhờ tâm thì hình tướng khơng phát hiện được. Vậy
vật và tâm là hai phương diện của bản thể “nhất như”. Con người chúng ta có
được là do lục đại kết hợp mà thành. Con người cũng như vũ trụ là một sự
hoạt động không ngừng của Lục đại.
+ Pháp giới duyên khởi: Theo Hoa Nghiêm tông, “pháp giới” có nghĩa
là “những yếu tố của nguyên lý” và có hai sắc thái: trạng thái chân như hay
thể tánh; thế giới hiện tượng. Học thuyết Pháp giới duyên khởi chủ trương
rằng giới (tức vũ trụ, vạn hữu) là một duyên khởi lớn tức là các pháp làm nhân
duyên cho nhau, nương tựa, tương phản, dung thông nhau mà thành lập . Tất
cả hoà điệu trong một thế giới toàn vẹn. Nếu thiếu một, vũ trụ khơng hiện
hữu, nếu khơng có tất cả, cái một cũng khơng thể lập. Khi tồn thể vũ trụ hồ
điệu tồn, nó được gọi là nhất chân pháp giới.
- Thuyết vô thường
Trong tư tưởng của Phật giáo, quan điểm về cách nhìn nhận thế giới bên
ngồi cịn có quan niệm về vơ thường. Vơ thường có nghĩa là khơng thường cịn,

khơng có gì ổn định, bất biến. Phật giáo đưa ra hệ thống quan niệm về thế giới,
cho rằng tất cả sự vật hiện tượng xung quanh con người cũng như bản thân con
người là không tồn tại thực, chỉ là ảo, là giả, do vô minh (sự không sáng suốt)
của con người đưa lại. Mọi vật đều được cấu tạo bởi các yếu tố vật chất (Sắc) và
tinh thần (Danh). Danh và Sắc được gồm Ng u n (năm yếu tố) là: sắc, thụ, tưởng,
hành, thức. Trong đó, “Sắc” là yếu tố vật chất gồm tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong),
còn “thụ”, “tưởng”, “hành”, “thức” là cảm giác, ấn tượng tư duy nói chung và ý
thức là những yếu tố tinh thần (Danh).

Theo thuyết vô thường, Danh và Sắc chỉ hội tụ lại với nhau trong một
thời gian ngắn rồi lại chuyển sang trạng thái khác. Bản chất của sự tồn tại của
thế giới là một dịng biến chuyển liên tục, khơng thể tìm ra nguyên nhân đầu
15


tiên, cũng khơng có kết quả cuối cùng (vơ thủy, vơ chung), khơng có gì là tồn
tại vĩnh hằng, bất biến, mọi vật đều biến đổi liên tục (vạn pháp vơ thường),
khơng có gì là thường định. Thế giới biến đổi không ngừng, sự biến đổi diễn
ra trong khoảng khắc gọi là niệm vô thường và sự biến đổi diễn ra theo những
chu kỳ nhất định gọi là nhất kì vô thường. Phật giáo cho rằng con người cũng
không tồn tại – “vơ ngã”, do đó cũng khơng tồn tại Atman (tiểu ngã). Phật
giáo cũng phủ định sự tồn tại của Brahman (đấng sáng tạo). Thế giới các sự
vật, hiện tượng ln ở trong một chu trình biến hóa khơng ngừng là sinh – trụ
– ị – iệt (hoặc thành – trụ – hoại – không), ở con người là sinh – ão – ệnh
– tử Đó là q trình biến hóa theo quy luật nhân quả mãi mãi.
Thuyết vơ thường là một trong những thuyết cơ bản trong giáo lý của
Phật giáo, là cơ sở lý luận cho phương thức sống, cho triết lý sống của những
con người tu dưỡng theo giáo lý Phật.
- Thuyết nhân quả
Phật giáo trong q trình giải thích sự biến hóa vơ thường của vạn vật

đã xây dựng nên thuyết nhân quả. Nhân duyên là tư tưởng thể hiện quan điểm
của Phật giáo đối với đời người, với sự tồn tại và sinh mệnh, là một luận
thuyết tương đối hợp lý về sự hình thành và diễn biến và về bộ mặt vốn có của
thế giới; là thế giới quan độc đáo của Phật giáo và là đặc trưng cơ bản để phân
biệt đạo Phật với các tôn giáo khác.
Trong thuyết nhân duyên giải thích căn ngun biến hóa vơ thường của
vạn pháp, có ba khái niệm chủ yếu: nhân, quả và duyên. “Nhân” là nguyên
nhân (cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó), là mầm
tạo ra “quả”. Cái gì tập lại từ nhân được gọi là “quả”. “Duyên” là điều kiện,
mối liên hệ giúp nhân tạo ra quả. Dun khơng phải là cái gì đó cụ thể, xác
định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để giúp cho sự chuyển biến của vạn
pháp. Tất cả các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ đều khơng thốt được sự chi
16


phối của luật nhân quả. Mọi sự vật ra đời là do một nguyên nhân trước nó,
nhưng đồng thời nó lại trở thành nguyên nhân của cái sau nó. Cái nhân nhờ
cái duyên mới sinh ra quả; quả lại do duyên mà tạo thành nhân khác; nhân
khác lại nhờ duyên mà tại thành quả mới. Cứ như vậy, quá trình tương tác
nhân – quả nối tiếp nhau vô cùng, vô tận. Duyên chính là điều kiện trong mối
quan hệ tương tác đó. Phật giáo quan niệm: Nhân dun hịa hợp là sự vật
sinh, nhân duyên tan rã là sự vật diệt. Với quan niệm này đạo Phật cho rằng:
không phải sự vật hiện tượng sinh ra mới gọi là sinh, mất đi mới gọi là diệt
mà trong cái sinh đã có mầm mống của cái diệt và trong cái diệt đã có mầm
mống của cái sinh. Sinh diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự vật
hiện tượng cũng như trong toàn thể vũ trụ rộng lớn. Như vậy, vạn vật trong
thế giới là một hệ thống nhân duyên, cứ sinh sinh diệt diệt mãi nối tiếp nhau
đến vơ cùng vơ tận. Vì thế giới vạn vật vơ thủy vơ chung là dịng biến hóa vơ
thường, khơng có gì là cố định duy nhất.
Tư tưởng về thế giới quan nêu trên của Phật giáo chứa đựng những yếu

tố biện chứng khá sâu sắc. Nó làm cơ sở cho triết lý nhân sinh và con đường
giải thoát – nội dung cơ bản của Phật giáo.
1.1.2. Nhân sinh quan Phật giáo
“Nhân sinh” theo Từ điển Tiếng Việt được hiểu là “cuộc sống của con
người”,“quan niệm về cuộc đời, thành hệ thống bao gồm lý tưởng, lẽ sống, lối
sống…” [86, tr.764]. “Nhân sinh quan nói vắn tắt thì đó là cách người ta nhìn
cuộc đời hay là cái “đạo” làm người của người ta” [28, tr.5].
Như vậy, nghiên cứu vấn đề nhân sinh quan “tức là nghiên cứu vấn đề
bản chất, mục đích, thái độ và hành vi của đời sống con người” [28, tr.7].
Mỗi thời đại khác nhau con người có một nhân sinh quan khác nhau.
Nhân sinh quan tôn giáo được đặt trong mối quan hệ với thế giới quan
tơn giáo. Vì vậy, có thể hiểu nhân sinh quan Phật giáo như sau:
17


Nhân sinh quan Phật giáo được hiểu là toàn bộ những quan niệm chung
nhất của Phật giáo về con người, cuộc sống con người nhằm giải đáp cho con
người những vấn đề về lẽ sống và định hướng niềm tin vào sự giải thốt.

Phật giáo ra đời là tiếng nói chống lại chế độ phân chia đẳng cấp vô cùng
nghiệt ngã của xã hội Ấn Độ thời kỳ cổ đại. Nó là khát vọng giải phóng con
người thốt khỏi mọi khổ đau, đưa con người đến hạnh phúc chân thực. Chính
vì vậy, Phật giáo quan tâm nhiều đến vấn đề nhân sinh, bàn luận nhiều về con
người, cuộc đời con người, ln hồi, nghiệp báo… Đó chính là tư tưởng chủ
yếu trong nhân sinh quan của đạo Phật.
- Quan niệm về con người và đời người
Phật giáo quan niệm rằng: “Đời là bể khổ”, đời là tất cả những chuỗi bi
kịch liên tiếp. Quan niệm đó đặc biệt được thể hiện rõ: “Bốn phương đều là bể
khổ, nước mắt chúng sinh nhiều hơn nước biển, vị mặn của máu và nước mắt
chúng sinh mặn hơn nước biển” [16, tr.12]. Bởi vậy, mục đích của đạo phật

như Phật Thích Ca nói: Ta chỉ dạy có một điều: Khổ và Diệt khổ.
Từ quan niệm chung về cuộc đời, triết lý nhân sinh Phật giáo được trình
bày tập trung và chủ yếu trong “Tứ diệu đế” với ý nghĩa là bốn chân lý tuyệt vời
hay thiêng liêng. Tứ Diệu đế chính là trụ cột của nhân sinh quan Phật giáo.

Nội dung Tứ diệu đế gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế.
- Khổ đế (Dukkha)
Đau khổ là tất yếu, là chân lý, là điều không thể tránh khỏi của con
người. Phật giáo quan niệm con người tồn tại trong thế giới này khơng có gì
ngồi đau khổ. Tồn tại là đồng nhất với đau khổ, bất hạnh và dù con người có
cảm nhận về hạnh phúc thì cái gọi là hạnh phúc ấy cũng khơng thường cịn và
cũng kết thúc bằng cái khổ (tử khổ). Căn cứ theo kinh Phật, có thể chia làm ba
loại khổ (Tam khổ) hay tám thứ khổ (Bát khổ):
Ba loại khổ (Tam khổ) là: Khổ khổ, Hoại khổ và Hành khổ.
Tám thứ khổ (Bát khổ) gồm: Sinh khổ: con người sinh ra đã là khổ thể
18


hiện từ tiếng khóc chào đời; lão khổ: già yếu là khổ; bệnh khổ: bệnh tật là khổ;

tử khổ: chết là khổ thể hiện qua tiếng khóc vĩnh biệt nhau; ái ly biệt khổ: yêu
thương mà phải lìa xa là khổ; sở cầu bất đắc khổ: muốn mà không được là khổ;
oán tăng hội khổ: ghét nhau mà phải gần nhau là khổ; Ngũ thụ uẩn khổ: ngũ
quan của con người khi tiếp xúc với sự vật sinh ra nhu cầu, có nhu cầu là khổ.

Như vậy, Phật giáo quan niệm cuộc đời con người chính là một bể khổ.
Phật giáo đã phân tích nỗi khổ đó ở nhiều khía cạnh khác nhau, có nỗi đau về
thể xác và có nỗi khổ về tinh thần. Với lòng từ bi, mong muốn giải thoát con
người khởi bể khổ cuộc đời Phật giáo đã chỉ ra nguyên nhân của nỗi khổ.
- Tập đế (Samudaya)

Tập đế là tập hợp những nguyên nhân dẫn tới sự đau khổ, bất hạnh của
con người. Phật giáo đã vạch ra những nguyên nhân sinh ra nỗi khổ đau bất
hạnh của con người, đó là “thập nhị nhân duyên” (12 nguyên nhân sinh ra đau
khổ) gồm:
Vô minh là không sáng suốt, không nhận thấy được thế giới này là ảo giả
mà cứ tưởng đó là thực.
Duyên hành là hành động có ý thức, ở đây đã có sự dao động của tâm, có
mầm mống của nghiệp.
Duyên thức: là ý thức, là biết. Do thức mà có danh sắc ấy. Thức là quả
của hành và làm nhân cho danh - sắc.
Duyên danh sắc: là sự tụ hợp của các yếu tố vật chất, tinh thần; với các
lồi hữu tình thì sự hội nhập của danh sắc sinh ra các cơ quan cảm giác, lục
trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Duyên lục nhập: Quá trình tiếp xúc với thế giới khách quan, lục căn tiếp
xúc với lục trần sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Duyên xúc: là sự tiếp xúc phối hợp giữa lục căn, lục trần và thức xúc, là
quả của lục nhập, là nguyên nhân của thụ.
19


Duyên thụ: là cảm giác do tiếp xúc với thế giới bên ngoài mà sinh ra yêu
ghét, buồn, vui.
Duyên ái: là yêu nảy sinh dục vọng, mong muốn.
Duyên thủ: là giữ lấy cho mình. Thủ là quả của ái, là nhân của hữu.
Duyên hữu: tiến tới xác định chủ thể chiếm hữu (cái ta); từ đây chứng tỏ
có nguyên nhân chứa đựng nguyên nhân.
Duyên sinh: đã có tạo nghiệp là nhân tất yếu sẽ sinh ra quả; là hiện hữu
là tu sinh ra ở thế giới để làm ngừời hay súc sinh.
Duyên lão tử: đã có sinh tất yếu có già và có chết. Sinh – Lão- Bệnh- Tử là
kết thúc một chu kỳ, đồng thời là nguyên nhân của một chu kỳ tiếp theo, bắt đầu

một vòng luân hồi mới ; cứ như thế tiếp diễn ở trong vòng đau khổ sinh tử.

“Thập nhị nhân duyên” nối tiếp nhau, chuyển hóa hỗ trợ nhau vừa là
nhân vừa là quả của nhau. Nó như nước sơng chảy khơng bao giờ cạn và
không bao giờ ngừng nên đạo Phật gọi là “duyên hà”. Các nhân duyên tụ tập
lại mà sinh ra mãi mãi gọi là duyên hà mãn. Từ vô minh đến già chết có 12
đoạn. Bởi 12 nhân duyên mà vạn vật cứ sinh hóa vơ thường. Trong 12 ngun
nhân thì Phật giáo cho rằng vơ minh và ái dục là hai nguyên nhân chủ yếu gây
ra đau khổ của con người. Tham dục là biểu hiện sự vô minh, vô minh sinh ra
tham dục, tham dục nuôi dưỡng vô minh, cứ như vậy luân chuyển mãi trong
vòng đau khổ sinh tử.
- Diệt đế (Nirodha)
Diệt đế là giai đoạn cuối cùng của q trình tu tập giải thốt. Diệt đế là
một sự thật khẳng định thành quả tu tập của bất cứ một hành giả nào có tín
tâm và tinh tu phạm hạnh. Sự giải thốt của con người hồn tồn phụ thuộc
vào khả năng của chính mình mà khơng phải do một ai khác. Phật giáo khẳng
định rằng nỗi khổ của con người là có thể tiêu diệt được, chấm dứt được bằng
cách tiêu diệt vô minh và loại bỏ dun ái. Muốn diệt trừ vơ minh thì phải có
20


×